Dự phòng loạn sản phế quản phổi ở trẻ đẻ non

Loạn sản phế quản phổi (Bronchopulmonary dysplasia - BPD) là bệnh phổi mãn tính hay gặp ở trẻ sinh

non cần hỗ trợ thở máy và nhu cầu oxy cao trong quá trình điều trị suy hô hấp cấp tính. Mặc dù những tiến

bộ trong chăm sóc trẻ sơ sinh đã giúp cải thiện tỷ lệ sống của trẻ sinh non, nhưng chưa hạn chế được tỷ lệ

mắc bệnh BPD. Một số chiến lược bảo vệ phổi bao gồm sử dụng hỗ trợ không xâm lấn, cũng như rút ống

nội khí quản sớm đã được chứng minh làm giảm nguy cơ mắc bệnh BPD; tuy nhiên, tiên lượng lâu dài còn

hạn chế do đó vẫn là một thách thức trong quản lý và gánh nặng ngày càng tăng đối với các hệ thống y tế

pdf 10 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Dự phòng loạn sản phế quản phổi ở trẻ đẻ non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dự phòng loạn sản phế quản phổi ở trẻ đẻ non

Dự phòng loạn sản phế quản phổi ở trẻ đẻ non
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020 177
 DỰ PHÒNG LOẠN SẢN PHẾ QUẢN PHỔI Ở TRẺ ĐẺ NON
Chu Lan Hương¹, Ngô Quốc Thái¹ và Nguyễn Thị Quỳnh Nga2, 
	 ¹Bệnh	viện	Nhi	Trung	ương
	 ²Trường	Đại	học	Y	Hà	Nội
Loạn	sản	phế	quản	phổi	(Bronchopulmonary	dysplasia	-	BPD)	là	bệnh	phổi	mãn	tính	hay	gặp	ở	trẻ	sinh	
non	cần	hỗ	trợ	thở	máy	và	nhu	cầu	oxy	cao	trong	quá	trình	điều	trị	suy	hô	hấp	cấp	tính.	Mặc	dù	những	tiến	
bộ	trong	chăm	sóc	trẻ	sơ	sinh	đã	giúp	cải	thiện	tỷ	lệ	sống	của	trẻ	sinh	non,	nhưng	chưa	hạn	chế	được	tỷ	lệ	
mắc	bệnh	BPD.	Một	số	chiến	 lược	bảo	vệ	phổi	bao	gồm	sử	dụng	hỗ	 trợ	không	xâm	lấn,	cũng	như	rút	ống	
nội	khí	quản	sớm	đã	được	chứng	minh	làm	giảm	nguy	cơ	mắc	bệnh	BPD;	tuy	nhiên,	tiên	lượng	lâu	dài	còn	
hạn	chế	do	đó	vẫn	là	một	thách	thức	trong	quản	lý	và	gánh	nặng	ngày	càng	tăng	đối	với	các	hệ	thống	y	tế.	
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Loạn sản phế quản phổi, trẻ đẻ non.
Loạn sản phế quản phổi (Bronchopulmonary 
dysplasia – BPD) lần đầu tiên được báo cáo vào 
năm 1967 bởi Northway và cộng sự, trong một 
nhóm trẻ sinh non mắc bệnh phổi mãn tính sau 
khi được thở máy với nồng độ oxy cao trong quá 
trình điều trị hội chứng suy hô hấp.¹
Năm 2001, hội nghị đồng thuận được tổ chức 
với sự phối hợp của Viện Sức khoẻ trẻ em và 
Phát triển con người quốc gia (National Institute 
of Child Heath and Human Development – 
NICHD), Hội Tim – Phổi - Máu Quốc gia (National 
Heart, Lung and Blood Institute – NHLBI) và văn 
phòng Các bệnh hiếm (Office of Rare Diseases) 
đã đề ra tiêu chuẩn và định nghĩa mới cho bệnh 
Loạn sản phế quản phổi dựa trên tuổi thai và 
nhu cầu oxy.²
Tác	giả	liên	hệ:	Nguyễn	Thị	Quỳnh	Nga,	
Trường	Đại	học	Y	Hà	Nội
Email:	[email protected]
Ngày	nhận:	30/02/2020
Ngày	được	chấp	nhận:	12/08/2020
Bảng 1. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh loạn sản phế quản phổi theo NICHD
Tuổi thai < 32 tuần ≥ 32 tuần
Thời điểm đánh giá* 
36 tuần tuổi hiệu chỉnh hoặc khi 
trẻ xuất viện 
> 28 ngày nhưng < 56 ngày sau 
sinh hoặc khi trẻ xuất viện
Được hỗ trợ oxy > 21% ít nhất 28 ngày kèm theo
Loạn sản phế quản phổi 
nhẹ Tự thở khí trời Tự thở khí trời 
Loạn sản phế quản phổi 
trung bình Cần** hỗ trợ oxy < 30% Cần* hỗ trợ oxy < 30% 
Loạn sản phế quản phổi 
nặng 
Cần* hỗ trợ oxy ≥ 30% và/
hoặc áp lực dương hoặc áp lực 
dương liên tục
Cần* hỗ trợ oxy ≥ 30% và/hoặc 
áp lực dương hoặc áp lực dương 
liên tục
*Tuỳ	thuộc	thời	điểm	nào	đến	trước
**	Phương	pháp	đánh	giá	nhu	cầu	oxy	của	
trẻ	vẫn	còn	bỏ	ngỏ
Cơ chế bệnh sinh loạn sản phế quản phổi có 
liên quan đến giai đoạn hình thành và phát triển 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020178
phổi đặc biệt giai đoạn từ tuần thứ 17 – 27 của thai kỳ đánh dấu sự biệt hoá tế bào biểu mô type 1, 
typ 2, sự hình thành hàng rào trao đổi mao mạch-phế nang và quan trọng là sự có mặt của surfactant 
từ tuần thứ 22 – 24.
Phôi
(tuần 0 – 7)
Giai đoạn giả 
tuyến
Giai đoạn tiểu quản
(tuần 17 – 27)
Giai đoạn túi
(tuần 28 - 36)
Giai đoạn phế 
nang 
(tuần 36 trở đi)
Hình thành 
khí quản, 
phế quản 
gốc trái và 
phải, nhánh 
phế quản
Biệt hóa tế 
bào biểu mô, 
hình thành hệ 
thống đường 
dẫn khí và tiểu 
phế quản tận
Hình thành tiểu phế quản 
hô hấp, ống phế nang và 
phế nang nguyên thủy, 
biệt hóa tế bào biểu mô 
typ I và II, hình thành 
hàng rào mao mạch phế 
nang
Tăng diện tích 
trao đổi khí, 
tiếp tục biệt 
hóa tế bào 
biểu mô typ I 
và II
Phân chia, gia 
tăng số lượng 
phế nang
Hình 1. Các giai đoạn phát triển và hình thành của phổi
Biểu hiện lâm sàng BPD là hậu quả cuối cùng của một quá trình đa yếu tố nguy cơ phức tạp trong 
đó các yếu tố trước và sau sinh ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của phổi chưa trưởng 
thành.
Hình 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của phổi
Chấn thương cơ học: Hô hấp hỗ trợ là một phần không thể thiếu trong chăm sóc sơ sinh, tuy 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020 179
nhiên tình trạng thông khí hô hấp quá mức đóng 
vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của BPD 
gây tình trạng mất CO2 sinh ra các chất phản 
ứng oxy hoá (ROS – reactive oxidant species) 
và chấn thương phổi khi sử dụng thông khí áp 
lực cao.³ 
Các nghiên cứu trên nhiều mô hình động vật 
và các nghiên cứu lâm sàng song song đã xác 
định rằng việc tiếp xúc với oxy nồng độ cao kéo 
dài sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của 
phổi, bao gồm tình trạng hoại tử và chết tế bào 
của biểu mô phế nang, tăng tính thấm thành 
mạch phá huỷ màng mao mạch phế nang gây 
ảnh hưởng đến quá trình trao đổi khí và tình 
trạng huy động các tế bào viêm ngăn chặn hình 
thành mao mạch ở mô phổi.⁴ 
Tế bào biểu mô type II (Alveolar epithelial 
type II – AEC II) đóng vai trò quan trọng trong 
việc trưởng thành và phát triển của phổi, ổn định 
dịch nội môi, mất cân bằng oxy hoá khởi phát 
do tăng oxy làm chết theo chu trình tế bào AEC 
II và ngăn chúng phát triển. Với môi trường oxy 
nồng độ cao và sự có mặt của các chất oxy 
hoá, surfactant sẽ bị oxy hoá dẫn đến dễ bị tiêu 
huỷ và mất hoạt tính ổn định sức căng bề mặt. 
Đồng thời NO dưới sự tác động của oxy hoá 
sẽ chuyển hoá thành peroxynitric, axit này sẽ 
làm oxy hoá lipid, protein và như vậy SP-A của 
surfactant bị mất đi hoạt tính và surfactant bị 
bất hoạt.
Sự trưởng thành của phổi chịu sự ảnh 
hưởng của nhiều yếu tố tăng trưởng như FGF, 
TGF, HGF và VEG, yếu tố tăng trưởng nội mô 
mạch máu (VEGF), quá tải oxy làm giảm nồng 
độ của VEGF.⁵
Viêm màng ối là một trong những nguyên 
nhân thường gặp gây sinh non, đặc biệt ở trẻ 
dưới 30 tuần. Ureaplasma là nhóm vi khuẩn 
gây bệnh thường gặp nhất có thể gây nhiễm 
khuẩn thai nhi mạn tính, viêm màng ối, nhiễm 
khuẩn ối và viêm phổi bẩm sinh tuy nhiên thực 
tế còn đang tranh cãi.⁶
Trẻ sinh non nhỏ so với tuổi thai (SGA) hoặc 
bị hạn chế tăng trưởng trong tử cung (IUGR) có 
nguy cơ tăng BPD. Các nghiên cứu đã chứng 
minh nguy cơ tăng gấp đôi của BPD (28% so 
với 14%) và tử vong sơ sinh (23% so với 11%) 
với SGA, nguy cơ bị hạn chế tăng trưởng sau 
sinh là những thách thức trong việc cung cấp 
dinh dưỡng tối ưu mặc dù đã có những tiến 
bộ đáng kể hỗ trợ dinh dưỡng qua đường ruột. 
Thất bại tăng trưởng sau sinh ảnh hưởng đến 
tiến triển bệnh BPD, cung cấp đủ dinh dưỡng 
trong tuần đầu tiên đóng một vai trò quan trọng.⁷ 
II. NỘI DUNG TỔNG QUAN
1. Tiến triển loạn sản phế quản phổi
Hình 3. Giai đoạn I (2 – 3ngày) – suy hô 
hấp cấp
Hình	ảnh	trên	phim	X-quang	“điển	hình”,	tổn	
thương	 lan	 toả	dạng	hạt	và	 tăng	 tỷ	 trọng	nhu	
Hình 4. Giai đoạn II (4 - 10 ngày) – giai đoạn 
phục hồi
Phim	X-quang	 ngực	 hình	 ảnh	mờ	 toàn	 bộ	
trường	 phổi	 hai	 bên.	 Bờ	 tim	 bị	 xóa	mờ	 hoàn	
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020180
Hình 5. Giai đoạn III (10 - 20 ngày) – chuyển 
tiếp bệnh mạn
Hình	ảnh	trên	phim	từ	mờ	hoàn	toàn	ở	giai	
đoạn	II	sang	hình	ảnh	các	nốt	tròn	đều	không	
cản	 quang	 ở	 khắp	 hai	 trường	 phổi.	 Xen	 kẽ	
chúng	là	các	tổ	chức	có	mật	độ	cản	quang	bất	
thường.	(Hình	5)	
Hình 6. Giai đoạn IV (> 1tháng) – giai đoạn 
bệnh mạn
Trên	 X-quang	 thấy	 các	 bóng	 khí	 ở	 giai	
đoạn	trên	giãn	to	ra	kèm	theo	đó	là	các	dải	tổn	
thương.	(Hình	6)
2. Chiến lược dự phòng loạn sản phế quản 
phổi
2.1. Dự phòng trước sinh
Dự phòng đẻ non chính là phương pháp 
hữu hiệu nhất để phòng chống các biến chứng 
và tử vong ở trẻ đẻ non, trong đó có cả bệnh 
phổi mạn. Vì vậy, cần sử dụng corticosteroid 
trước sinh ở những bà mẹ có nguy cơ đẻ non 
trong khoảng thời gian từ 24 đến 34 tuần. Sử 
dụng corticoid có tác dụng trưởng thành phổi, 
qua đó làm giảm khả năng mắc cũng như mức 
độ nặng của bệnh màng trong.
Viêm màng ối là một yếu tố nguy cơ của 
bệnh phổi mạn, tuy chưa rõ ràng về tính độc 
lập của yếu tố này nhưng nếu có tình trạng 
viêm màng ối của sản phụ, cần tiến hành điều 
trị sớm.
2.2. Tại phòng đẻ 
Trong cuộc đẻ, việc thở oxy lưu lượng cao 
gây ra tình trạng tăng oxy có thể ảnh hưởng 
cả bà mẹ lẫn thai nhi. Hiện nay, với khái niệm 
tăng O2 cho mẹ sẽ giúp tăng O2 cho thai nhi nên 
trong thực hành lâm sàng thường cho bà mẹ 
thở oxy trong quá trình sinh nở.
Trên thực tế tăng O2 cho mẹ không ảnh 
hưởng nhiều đến O2 trong máu của thai nhi. 
Hơn thế nữa, tăng O2 sẽ gây ra hiện tượng oxy 
hóa lipid tạo ra các gốc tự do và ảnh hưởng đến 
hệ thống chống oxy hóa, gây hại cho sản phụ 
và thai nhi.
Vì vậy chỉ cung cấp O2 cho những trường 
hợp sản phụ thực sự có tình trạng thiếu oxy. 
Ngay sau khi sinh, trẻ có nguy cơ tổn thương 
phổi nếu được hồi sức bằng bóp bóng. Vì vậy, 
quá trình hồi sức sau đẻ cũng có thể ảnh hưởng 
đến tiên lượng của trẻ, đặc biệt trẻ đẻ non.
Theo hướng dẫn của Hiệp hội Hồi Sức Châu 
Âu 2015⁸ và Hội Hồi sức Australia:
- Với trẻ đủ tháng, nếu cần phải hỗ trợ hô 
hấp cho trẻ với áp lực dương, hỗ trợ nồng độ 
O2 ban đầu là 21%. Chỉ khi trẻ vẫn tiếp tục có 
nhịp tim hoặc mức độ bão hòa không cải thiện, 
tăng nồng độ O2 hỗ trợ để đạt mức bão hòa 
phù hợp.
- Với trẻ thiếu tháng dưới 35 tuần, nồng độ 
O2 hỗ trợ từ 21% - 35%
- Bão hòa oxy chấp nhận được:
 2 phút: 60%
 3 phút: 70%
mô	phổi	kèm	với	tình	trạng	xẹp	các	phế	nang	ở	
mức độ hiển vi. (Hình 3)
toàn	bởi	nhu	mô	phổi.	(Hình	4)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020 181
 4 phút: 80%
 5 phút: 85%
 10 phút: 90%
Với những trẻ non tháng có nhịp tự thở mắc 
bệnh màng trong, hỗ trợ hô hấp ban đầu bằng 
CPAP thay vì đặt ống. Nghiên cứu cho thấy với 
những trẻ dưới 30 tuần thai, hỗ trợ ban đầu 
bằng CPAP thay vì đặt ống nội khí quản có lợi 
ích hơn trong việc giảm thời gian cần phải đặt 
ống nội khí quản và thở máy, không có nhược 
điểm ngắn hạn trước mắt khi dùng CPAP.
3. Tại khoa Sơ sinh, Hồi sức sơ sinh
Surfactant
Northway và cộng sự² lần đầu miêu tả bệnh 
loạn sản phế quản phổi ở những trẻ mắc bệnh 
màng trong có tình trạng suy hô hấp nặng phải 
thở máy. Có thể thấy chính bệnh màng trong 
là một yếu tố nguy cơ của loạn sản phế quản 
phổi bởi nó khiến trẻ sơ sinh mắc bệnh phải 
thở oxy và nếu nặng phải hỗ trợ thở máy gây 
tổn thương phổi với các cơ chế: ngộ độc oxy, 
chấn thương thể tích, chấn thương xẹp cũng 
như là những hệ lụy viêm phổi do bội nhiễm. Vì 
vậy với surfactant - phương pháp điều trị trong 
bệnh màng trong từ độ II, nó có ý nghĩa trong 
điều trị dự phòng bệnh phổi mạn ở trẻ sơ sinh.9
Tuy nhiên với việc dùng surfactant tự nhiên 
hay tổng hợp trong điều trị bệnh màng trong 
ở trẻ sơ sinh, người ta thấy không có sự khác 
biệt về tỷ lệ mắc về việc dùng hay không dùng 
surfactant nhưng có sự giảm rõ tỷ lệ tử vong 
của trẻ được điều trị surfactant mắc bệnh phổi 
mạn. Tương tự với việc dùng surfactant để điều 
trị dự phòng cũng không có sự khác biệt trong 
tỷ lệ mắc bệnh nhưng tỷ lệ tử vong cũng giảm 
rõ.
Hỗ trợ hô hấp và thở máy
-	Đích	bão	hòa	oxy
Về mặt sinh lý, ở trẻ em và người lớn, PaO2 
thông thường là khoảng 100 mmHg, tuy nhiên 
ở trẻ sơ sinh, con số này thấp hơn, chỉ vào 
khoảng 45 - 75 mmHg do tình trạng shunt trong 
và ngoài phổi.
Việc đặt đích SpO2 cao ở trẻ đẻ non không 
có lợi hơn gì nhiều mà còn làm tăng nguy cơ 
mắc bệnh võng mạc ở trẻ sinh non (Retinopathy 
of prematurity), làm mất cân bằng oxy, tạo ra 
các gốc tự do, tăng nguy cơ phụ thuộc O2, hình 
thành bệnh phổi mạn. Ngược lại nếu SpO2 quá 
thấp, lại tăng nguy cơ tổn thương cơ quan do 
không đủ O2 như viêm ruột hoại tử và tăng nguy 
cơ bại não. Nghiên cứu STOP-ROP10 đánh giá 
ảnh hưởng của nồng độ oxy lên tiến triển tới 
bệnh võng mạc ở trẻ đẻ non, bệnh nhân được 
chia làm hai nhóm với đích điều trị SpO2 là 89% 
- 94% và 96% - 99%, kết quả cho thấy không có 
nhiều sự khác biệt giữa hai nhóm nhưng thấy 
ở nhóm có độ bão hòa oxy cao hơn có thời 
gian cần hỗ trợ oxy dài hơn. Tương tự như vậy, 
trong nghiên cứu BOOST (Benefits of Oxygen 
Saturation Targeting) so sánh giữa hai nhóm 
đích bão hòa 91% - 94% và 95% - 98% cũng 
không cho thấy sự khác biệt giữa hai nhóm 
nhưng ở nhóm có đích bão hòa oxy cao hơn 
cũng có thời gian kéo dài hơn. Đồng thởi, cả hai 
nghiên cứu này cũng cho kết quả nhóm có đích 
SpO2 cao hơn có tỷ lệ phải sử dụng thuốc lợi 
tiểu và corticosteroid (trong điều trị bệnh phổi 
mạn) cao hơn. 
-	Chiến	 lược	bảo	vệ	phổi	ở	bệnh	nhân	thở	
máy
Kiểm	 soát	 thể	 tích	 (Volume-Targeted	
Ventilation)
Giảm tổn thương phổi do cơ chế chấn 
thương thể tích bằng cách hạn chế thể tích khí 
cung cấp ở mỗi nhịp thở bằng cách cài đặt chế 
độ kiểm soát thể tích (VTV) cho bệnh nhân thở 
máy.
Áp	lực,	tần	số	và	thời	gian	thì	hít	vào	(Ti)
Với thông khí phút hằng định, chọn tần số 
cao với thể tích khí lưu thông thấp (Vt) có hiệu 
quả hơn so với tần số thấp nhưng Vt lại lớn do 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020182
làm giảm thiểu chấn thương thể tích.
Nghiên cứu cho thấy sử dụng Ti ngắn mặc 
dù không có sự khác biệt trong tỷ lệ mắc loạn 
sản phế quản phổiso với Ti kéo dài nhưng lại 
giảm rõ tỷ lệ chấn thương phổi cấp (air leak).11 
Với trẻ sơ sinh, có tổn thương phổi cụ thể là 
bệnh màng trong, nhịp thở bình thường cũng 
cao (> 60 nhịp/phút) nên cài đặt Ti ngắn là hoàn 
toàn có thể.
Để hạn chế chấn thương do áp lực, ta nên 
để áp lực đỉnh (PIP) thấp. Nhưng để đảm được 
trao đổi oxy máu và phế nang với Vt thấp và Ti 
ngắn, ta phải duy trì được áp lực đường thở 
trung bình (MAP) đủ cao. Vì vậy cần nâng áp 
lực dương cuối thì thở ra (PEEP) để tránh phải 
nâng PIP. 
P T
(PIP PEEP) T
PEEPaw
tot
i-= +
#
Thở	 máy	 cao	 tần	 (High	 Frequency	
Ventilation)
Sử dụng thở máy cao tần cung cấp thể tích 
khí lưu thông thấp nhưng với tần số cao đủ để 
đảm bảo trao đổi oxy máu – phế nang, thêm 
vào đó khiến cho phế nang không bị giãn nở 
liên tục, giảm thiểu tổn thương phổi do thở máy. 
Tuy nhiên nghiên cứu phân tích tổng hợp năm 
2010 so sánh thở HFO so với thở máy thông 
thường cho thấy không có sự khác biệt giữa 
hai hình thức về tỷ lệ mắc loạn sản phế quản 
phổiphổi cũng như các biến chứng khác
Tăng	 CO2	 máu	 chấp	 nhận	 (Permissive	
hypercapnia)
Cơ sở của giả thuyết chấp nhận tăng CO2 
máu là từ các nghiên cứu của Kraybill và 
Garland cho thấy giá trị PaCO2 máu cao trong 
những ngày đầu ở trẻ đẻ non làm giảm tỷ lệ 
mắc bệnh phổi mạn. Tuy nhiên nghiên cứu 
phân tích tổng hợp Cochrane cho thấy không 
có bằng chứng việc chấp nhận PaCO2 cao làm 
giảm tỷ lệ mắc loạn sản phế quản phổi. Gần 
đây nghiên cứu đa trung tâm PHELBI12 với đích 
PaCO2 trong những ngày đầu trong khoảng 55 - 
75 mmHg so với 40 - 60 mmHg cho thấy không 
có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh phổi mạn.
Corticosteroid
Corticoid trong dự phòng bệnh có tác 
dụng làm giảm đáp ứng viêm, cải thiện nhanh 
chóng chức năng phổi, tăng cường sản xuất 
surfactant, giảm phù nề đường thở, ổn định tính 
thấm mao mạch và giảm tình trạng xơ phổi.
-	 Corticoid	 đường	 tĩnh	 mạch	
(Dexamethasone,	hydrocortison)
Sử	dụng	sớm
Sử dụng corticoid đường tĩnh mạch sớm là 
trước 96 giờ sau sinh (4 ngày) do tình trạng 
viêm của phổi bắt đầu rất sớm (do bệnh màng 
trong hoặc do viêm phổi bẩm sinh). Dùng sớm 
sẽ làm giảm nồng độ cytokin tiền viêm tại 
đường thở.
Tác dụng phụ của corticosteroidbao gồm 
thủng ruột, tăng huyết áp, tăng phì đại cơ tim 
và quan trọng nhất là tăng nguy cơ bại não. Tuy 
nhiên nếu sử dụng sớm với liều thấp làm giảm 
nguy cơ mắc bệnh phổi mạn, giảm tác dụng 
phụ.13
Mặc dù ý nghĩa lợi ích của việc dùng sớm 
corticoid là hơn hẳn so với những tác dụng phụ. 
Nhưng với trẻ đẻ non hay rất non bằng chứng 
ảnh hưởng lên phát triển hệ thần kinh là không 
thể chối cãi, vì vậy cần cân nhắc.
Sử	dụng	muộn
Sử dụng muộn là sau 7 ngày sau sinh (muộn 
trung bình là 7 - 14 ngày, rất muộn là sau 3 
tuần). Sử dụng muộn cho phép xác định rõ hơn 
các yếu tố nguy cơ hình thành bệnh phổi mạn 
của trẻ. Lúc này với những trẻ có nguy cơ cao, 
tác dụng điều trị của thuốc lợi ích hơn hẳn so 
với tác dụng phụ của nó, đặc biệt là bại não.
Tác dụng của corticoid lúc này không chỉ 
đơn thuần là chống viêm do bệnh màng trong 
(và cũng không có tác dụng chống viêm được 
như sử dụng sớm) mà còn giúp rút ngắn thời 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020 183
gian thở máy của trẻ.
Khí	dung	corticoid
Do những tác dụng phụ của sử dụng bằng 
đường tĩnh mạch, câu hỏi đặt ra là sử dụng 
đường tại chỗ (khí dung budesonide) có tác 
dụng trong điều trị và dự phòng hay không.
Một phương án cũng được đề ra là sử dụng 
đường khí dung kết hợp với surfactant. Yeh và 
cộng sự14 tiến hành thử nghiệm bơm surfactant 
kèm với budesnonide cho bệnh nhân so với 
nhóm chứng chỉ bơm surfactant, tối đa 5 liều 
cách 8h. Kết quả cho thấy chỉ có 42% ở nhóm 
có dùng budesonide tử vong/mắc bệnh phổi 
mạn trong khi ở nhóm chứng là 66%. Theo dõi 
sau 2 năm cho thấy không có sự khác biệt về 
biến chứng thần kinh giữa hai nhóm.
Caffein citrat
Với tác dụng kích thích hô hấp, giảm thời 
gian thở máy và tác dụng lợi tiểu và giảm viêm, 
sử dụng caffein có tác dụng trong điều trị dự 
phòng loạn sản phế quản phổi Nghiên cứu của 
Schmidt cho thấy tỷ lệ mắc bệnh phổi mạn giảm 
tới 36%. Sử dụng sớm (1 - 3 ngày sau sinh) 
cũng có lợi ích hơn hẳn: sử dụng sớm làm giảm 
tỷ lệ mắc 52% so với 23% khi sử dụng muộn 
(sau 3 ngày). Các nghiên cứu phân tích tổng 
hợp khác cũng cho kết quả tương tự.15
Điều trị nhiễm khuẩn
Ureaplasma urealyticum là vi khuẩn hay gặp 
nhất trong viêm màng ối, thế nhưng việc nó có 
phải là một yếu tố gây bệnh phổi mạn không 
thì vẫn còn tranh cãi. Nghiên cứu tổng hợp cho 
thấy điều trị dự phòng erythromycin không có 
ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong và mắc loạn sản 
phế quản phổi Một nghiên cứu rộng hơn về tác 
dụng của kháng sinh nhóm macrolide cho thấy 
có giảm tỷ lệ tử vong/bệnh phổi mạn, đặc biệt 
là azithromycin.
Dinh dưỡng
Vitamin A đóng vai trò quan trọng trong việc 
phát triển và biệt hóa của phổi. Vitamin E có vai 
trò chống oxy hóa, làm giảm tình trạng mất cân 
bằng oxy trong cơ chế hình thành bệnh phổi 
mạn. Tuy nhiên tiến hành thử nghiệm so với 
nhóm giả dược cho thấy hai chất này không có 
ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong/bệnh phổi mạn.16
Sữa mẹ có vai trò làm giảm tỷ lệ viêm ruột 
hoại tử và bệnh võng mạc ở trẻ đẻ non, tuy 
nhiên hiện chưa có nghiên cứu nào về vai trò 
của nó với bệnh loạn sản phế quản phổi Nghiên 
cứu của Spiegler17 cho thấy nếu chỉ sử dụng 
đơn thuần sữa công thức thì làm tăng nguy cơ 
mắc bệnh phổi mạn, vì vậy với trẻ đẻ non, vẫn 
khuyên dùng sữa mẹ để phòng bệnh.
iNO
Nitơ oxit là một chất giãn mạch, khí dung 
NO có tác dụng làm giãn mạch phổi, tăng 
cường máu lên phổi từ đó cải thiện khả năng 
trao đổi khí. Ở trẻ đẻ non có bệnh lý phải cần 
sử dụng NO, nó làm giãn mạch phổi làm giảm 
áp lực động mạch phổi cải thiện tưới máu từ đó 
giảm thời gian thở máyvà nguy cơ ngộ độc oxy. 
Nghiên cứu EUNO cho thấy sử dụng iNO ở trẻ 
bệnh màng trong mức độ vừa và nặng không 
cải thiện tỷ lệ sống, giảm tỉ lệ mắc bệnh phổi 
mạn ở trẻ sơ sinh.
Pentoxifylline
Pentoxifylline là chất methylxanthine tổng 
hợp và kháng phosophodiesterase, nó có chức 
năng điều hòa miễn dịch – giảm sản xuất các 
cytokin viêm như IL6, TNF-α và interferon γ, 
các chất này có vai trò trong hình thành của 
bệnh phổi mạn. Đã có nghiên cứu về tác dụng 
bảo vệ nhu mô phổi của pentoxifylline ở thỏ và 
chuột. 
Ở người, hiện mới chỉ có hai nghiên cứu đối 
chứng ngẫu nhiên của Lauterbach và Schulzke 
về tác dụng của khí dung pentoxifylline trong dự 
phòng bệnh phổi mạn. Kết quả cho thấy thuốc 
có tác dụng giảm tỷ lệ mắc loạn sản phế quản 
phổiở trẻ đẻ non và khá an toàn, tuy nhiên cần 
tiến hành thêm các nghiên cứu để rõ hơn về 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020184
liều, hiệu quả cũng như tính an toàn của thuốc 
trong điều trị dự phòng bệnh phổi mạn ở trẻ đẻ 
non.
α-1-antitrypsin
α-1-antitrypsin có tác dụng bảo vệ phổi bằng 
cách tạo phức hợp với elastase tiết ra từ bạch 
cầu trung tính. Trong nghiên cứu thử nghiệm 
của Stiskal, so với nhóm giả dược thuốc làm 
giảm tỷ loạn lệ loạn sản phế quản phổinhưng 
lại chưa đủ để đạt ý nghĩa thống kê. Hiện vẫn 
chưa có nhiều nghiên cứu để có thể chứng 
minh rõ tác dụng của chúng trong dự phòng 
bệnh phổi mạn.
III. KẾT LUẬN
Loạn sản phế quản phổi là một bệnh lý 
thường gặp ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là ở trẻ đẻ 
non, sau một thời gian dài điều trị hỗ trợ oxy. 
Năm 2001, bệnh có định nghĩa và tiêu chuẩn 
chẩn đoán mới, không nhấn mạnh vào tổn 
thương xơ hóa mà tập trung vào điều kiện hình 
thành bệnh, mở rộng các nguyên nhân yếu tố 
bệnh sinh của bệnh sang hướng ngăn chặn 
hình thành và phát triển của phế nang.
Bệnh được hình thành bởi nhiều nguyên 
nhân và yếu tố nguy cơ: yếu tố nguy cơ trước 
sinh, trong sinh và sau sinh. Cụ thể, ảnh hưởng 
rõ ràng nhất là tuổi thai (hệ hô hấp chưa phát 
triển, tăng nguy cơ mắc bệnh màng trong gây 
tổn thương phổi cũng như phụ thuộc vào oxy), 
độc tố của oxy và tổn thương do thở máy. Ngoài 
ra còn có các yếu tố khác như nhiễm khuẩn, dinh 
dưỡng, còn ống động mạch tuy nhiên vai trò của 
chúng chưa thực sự rõ ràng. Nhìn chung cơ chế 
tổn thương của các yếu tố nguy cơ này là sự 
mất cân bằng oxy và yếu tố chống oxi hóa, mất 
cân bằng yếu tố phát triển và tình trạng viêm.
Hiện nay vẫn chưa có một khuyến cáo chính 
thức nào về điều trị dự phòng bệnh loạn sản 
phế quản phổi ở trẻ sơ sinh. Cục Quản lý Thực 
phẩm và Dược phẩm Mỹ FDA cũng chưa chứng 
nhận bất kì loại thuốc nào có tác dụng để điều 
trị bệnh. Đa phần các thuốc trong điều trị bệnh 
còn đang tranh cãi, bằng chứng chưa rõ ràng. 
Cần tối ưu các chiến lược bảo vể phổi trong thở 
máy và đích oxy trong điều trị tại khoa hồi sức 
sơ sinh để giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh phổi 
mạn ở trẻ sơ sinh. Cụ thể, nên cài đặt máy thở 
kiểm soát thể tích với Vt thấp và hạn chế tăng 
PIP, đích SpO2 cần đạt vào khoảng 91 - 94% và 
vai trò surfactant.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Northway WH, Rosan RC, Porter DY. 
Pulmonary Disease Following Respirator 
Therapy of Hyaline-Membrane Disease: 
Bronchopulmonary Dysplasia. N	 Engl	 J	
Med. 1967; 276(7): 357-368. doi:10.1056/
NEJM196702162760701
2. Jobe AH, Bancalari E. Bronchopulmonary 
Dysplasia. Am	 J	 Respir	 Crit	 Care	 Med. 
2001; 163(7): 1723-1729. doi:10.1164/
ajrccm.163.7.2011060
3. Jobe A. Mechanisms of Lung Injury 
and Bronchopulmonary Dysplasia. Amer	
J	 Perinatol. 2016; 33(11): 1076-1078. 
doi:10.1055/s-0036-1586107
4. Balany J, Bhandari V. Understanding 
the Impact of Infection, Inflammation, and 
Their Persistence in the Pathogenesis of 
Bronchopulmonary Dysplasia. Front	 Med. 
2015; 2. doi:10.3389/fmed.2015.00090
5. Hosford GE, Olson DM. Effects of 
hyperoxia on VEGF, its receptors, and HIF-
2α in the newborn rat lung. American	Journal	
of	 Physiology-Lung	 Cellular	 and	 Molecular	
Physiology. 2003; 285(1): L161-L168. 
doi:10.1152/ajplung.00285.2002
6. Lapcharoensap W, Kan P, Powers RJ, et 
al. The Relationship of Nosocomial Infection 
Reduction to Changes in Neonatal Intensive 
Care Unit Rates of Bronchopulmonary 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020 185
Dysplasia. The	Journal	of	Pediatrics. 2017; 180: 
105-109.e1. doi:10.1016/j.jpeds.2016.09.030
7. Poindexter BB, Martin CR. Impact of 
Nutrition on Bronchopulmonary Dysplasia. 
Clinics	 in	 Perinatology. 2015; 42(4): 797-806. 
doi:10.1016/j.clp.2015.08.007
8. Wyllie J, Bruinenberg J, Roehr CC, 
Rüdiger M, Trevisanuto D, Urlesberger B. 
European Resuscitation Council Guidelines 
for Resuscitation 2015. Resuscitation. 
2015; 95: 249-263. doi:10.1016/j.
resuscitation.2015.07.029
9. Bancalari E, del Moral T. Bronchopulmonary 
Dysplasia and Surfactant. Neonatology. 2001; 
80(1): 7-13. doi:10.1159/000047170
10. Flynn JT, Bancalari E. On “Supplemental 
Therapeutic Oxygen for Prethreshold 
Retinopathy of Prematurity (STOP-ROP), 
a randomized, controlled trial. I: Primary 
outcomes.” Journal	of	American	Association	for	
Pediatric	Ophthalmology	and	Strabismus. 2000; 
4(2): 65-66. doi:10.1067/mpa.2000.105823
11. Klingenberg C, Wheeler KI, McCallion 
N, Morley CJ, Davis PG. Volume-targeted 
versus pressure-limited ventilation in neonates. 
Cochrane Neonatal Group, ed. Cochrane	
Database	 of	 Systematic	 Reviews. Published 
online October 17, 2017. doi:10.1002/14651858.
CD003666.pub4
12. Thome UH, Genzel-Boroviczeny O, 
Bohnhorst B, et al. Permissive hypercapnia in 
extremely low birthweight infants (PHELBI): 
a randomised controlled multicentre trial. The	
Lancet	Respiratory	Medicine. 2015; 3(7): 534-
543. doi:10.1016/S2213-2600(15)00204-0
13. Baud O, Maury L, Lebail F, et al. 
Effect of early low-dose hydrocortisone on 
survival without bronchopulmonary dysplasia 
in extremely preterm infants (PREMILOC): a 
double-blind, placebo-controlled, multicentre, 
randomised trial. The	 Lancet. 2016; 
387(10030): 1827-1836. doi:10.1016/S0140-
6736(16)00202-6
14. Yeh TF, Chen CM, Wu SY, et al. 
Intratracheal Administration of Budesonide/
Surfactant to Prevent Bronchopulmonary 
Dysplasia. Am	J	Respir	Crit	Care	Med.	2016; 
193(1): 86-95. doi:10.1164/rccm.201505-
0861OC
15. Shenk EE, Bondi DS, Pellerite MM, Sriram 
S. Evaluation of Timing and Dosing of Caffeine 
Citrate in Preterm Neonates for the Prevention 
of Bronchopulmonary Dysplasia. The	 Journal	
of	 Pediatric	 Pharmacology	 and	 Therapeutics. 
2018; 23(2): 139-145. doi:10.5863/1551-6776-
23.2.139
16. Darlow B, Graham P. Vitamin A 
supplementation for preventing morbidity 
and mortality in very low birthweight 
infants. In: The Cochrane Collaboration, ed. 
Cochrane	 Database	 of	 Systematic	 Reviews. 
John Wiley & Sons, Ltd; 2002:CD000501. 
doi:10.1002/14651858.CD000501
17. Spiegler J, Preuß M, Gebauer C, et al. 
Does Breastmilk Influence the Development of 
Bronchopulmonary Dysplasia? The	 Journal	 of	
Pediatrics. 2016; 169: 76-80.e4. doi:10.1016/j.
jpeds.2015.10.080.
Summary
PREVENTION OF BRONCHOPULMONARY DYSPLASIA IN 
PRETERM INFANTS
Bronchopulmonary dysplasia (BPD) is a chronic lung disease most commonly seen in premature 
infants who required mechanical ventilation and oxygen therapy for acute respiratory distress. While 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020186
advances in neonatal care have resulted in improved survival rates of premature infants, limited 
progress has been made in reducing rates of BPD. Lack of progress may in part be attributed to the 
limited therapeutic options available for prevention and treatment of BPD. Several lung-protective 
strategies have been shown to reduce risks, including use of non-invasive support, as well as early 
extubation and volume ventilation when intubation is required. These approaches, along with optimal 
nutrition and medical therapy, decrease the risk of BPD; however, impacts on long-term outcomes are 
poorly defined. Abnormal ventilatory responses and pulmonary hypertension can further complicate 
BPD. These pulmonary morbidities, combined with environmental and infectious exposures, may 
result in significant long-term pulmonary sequalae and represent a growing burden on health systems. 
Keywords: Bronchopulmonary dysplasia, preterm infants.

File đính kèm:

  • pdfdu_phong_loan_san_phe_quan_phoi_o_tre_de_non.pdf