Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năng lực cạnh tranh của Việt Nam

Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của

quốc gia, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu này

khái quát năng lực cạnh tranh từ đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam và đóng góp của khu vực

này vào năng lực cạnh tranh của Việt Nam giai đoạn 1995 – 2017, từ đó chỉ ra những hạn chế

và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năng lực cạnh

tranh quốc gia của Việt Nam.

pdf 6 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năng lực cạnh tranh của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năng lực cạnh tranh của Việt Nam

Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năng lực cạnh tranh của Việt Nam
32
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
Tuy nhiên, trên thực tế việc chuyển giao công nghệ 
của các doanh nghiệp (DN) FDI vào Việt Nam thời 
gian qua chưa được như kỳ vọng, cần sớm có giải 
pháp để thực hiện mực tiêu phát triển. 
Đến nay, Việt Nam có tỷ lệ tổng vốn đầu tư trực 
tiếp trên tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên đến 22-25% 
theo từng năm. Đây là một tỷ lệ tương đối cao và 
đi kèm với đó là kỳ vọng luồng sinh khí công nghệ 
mới sẽ theo nguồn vốn này chảy vào Việt Nam, giúp 
phát triển mặt bằng công nghệ Việt Nam. 
Tuy nhiên, hiệu quả chuyển giao công nghệ từ 
DN FDI của Việt Nam và có xu hướng ngày càng 
bị tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực. Cụ 
thể, năm 2009, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 57 trên 
toàn cầu về tiêu chí này nhưng đến năm 2014, Việt 
Nam đã tụt xuống ở vị trí thứ 103, giảm 46 bậc sau 
5 năm, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu 
vực như Malaysia xếp (13), Thái Lan (36), Indonesia 
(39), Campuchia (44). Năm 2017, Việt Nam được 
xếp hạng 55 trên 137 quốc gia, là thứ hạng cao nhất 
của Việt Nam kể từ khi Diễn đàn Kinh tế Thế giới 
(WEF) đưa ra chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia 
vào năm 2006 (WEF công bố Báo cáo thường niên 
về năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCR 2017-2018)). 
Với thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số nước 
ASEAN như Philippines (56), Campuchia (94), Lào 
(98), nhưng xếp dưới Indonesia (36), Thái Lan (32), 
Malaysia (23), Singapore (3), và hai nền kinh tế lớn 
của châu Á là Trung Quốc (27) và Ấn Độ (40).
Ngành công nghệ cao tăng nhanh, đóng góp về 
giá trị gia tăng 12,2% là ngành điện tử, máy tính và 
sản phẩm quang học. Tuy được coi là ngành công 
nghệ cao, thực tế, các công đoạn được thực hiện ở 
Việt Nam chỉ là lắp ráp, mang tính thủ công và chưa 
Đặt vấn đề
Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 
nguồn lực quan trọng góp phần đẩy nhanh sự phát 
triển của nền kinh tế đất nước, bổ sung nguồn vốn 
đáng kể cho tăng trưởng, chuyển giao công nghệ, 
tăng cường khả năng xuất khẩu cũng như tạo thêm 
nhiều việc làm và nâng cao mức sống cho người 
dân. Ngoài ra, FDI còn có vai trò hết sức quan trọng 
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. 
ĐÓNG GÓP CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 
VÀO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM
ThS. NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG - Đại học Lâm nghiệp Việt Nam *
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của 
quốc gia, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu này 
khái quát năng lực cạnh tranh từ đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam và đóng góp của khu vực 
này vào năng lực cạnh tranh của Việt Nam giai đoạn 1995 – 2017, từ đó chỉ ra những hạn chế 
và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năng lực cạnh 
tranh quốc gia của Việt Nam.
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn FDI, năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh quốc gia
THE CONTRIBUTIONS OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT 
TO INCREASE THE COMPETITIVENESS OF VIETNAM
Nguyen Thi Mai Huong - Viet Nam National University 
of Forestry
Foreign direct investment plays an important 
role in increasing competitiveness of nations, 
especially developing countries such as 
Vietnam. The research will generalize about the 
competitiveness of foreign direct investment 
field in Vietnam and show the contributions of 
foreign direct investment in the competitiveness 
of Vietnam from 1995 to 2017, then find out the 
limitations and propose solutions to improve 
the efficiency of foreign direct investment into 
the national competitiveness of Vietnam.
Kewords: Foreign direct investment, FDI capital, 
competitiveness, national competitiveness 
Ngày nhận bài: 3/1/2019 
Ngày hoàn thiện biên tập: 30/1/2019
Ngày duyệt đăng: 11/2/2019
*Email: nmh.vfu@gmail.com
TÀI CHÍNH - Tháng 02/2019
33
có yếu tố công nghệ cao. Số hợp đồng chuyển giao 
công nghệ với số dự án FDI thì gần 14.000 dự án 
FDI mới có khoảng 600 hợp đồng chuyển giao công 
nghệ (chiếm tỷ lệ 4,28%). Về chất lượng của các 
công nghệ được chuyển giao, hơn 80% DN FDI sử 
dụng công nghệ trung bình của thế giới, 14% ở mức 
thấp và lạc hậu, chỉ có 5-6% sử dụng công nghệ cao.
Với tầm quan trọng của dòng vốn FDI, công 
nghệ FDI với tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong 
việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là rất 
cần thiết nhằm đưa ra giải pháp phù hợp, từ đó phát 
huy hiệu quả nguồn vốn này. 
Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu này khái quát 
năng lực cạnh tranh của khu vực FDI ở Việt Nam 
cũng như những đóng góp của khu vực FDI vào 
năng lực cạnh tranh quốc gia, tìm ra một số hạn chế 
và đề xuất giải pháp tăng cường khai thác FDI nâng 
cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong thời 
gian tới.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu này sử dụng 
phương pháp thu thập số liệu và phương pháp 
phân tích, xử lý số liệu. Phương pháp thu thập số 
liệu gồm: Tài liệu, số liệu được sử dụng trong bài 
viết này chủ yếu được kế thừa và tổng hợp từ các 
nghiên cứu đã được công bố trên sách, báo, tạp chí 
và các trang thông tin điện tử chính thức của các 
bộ, ngành liên quan. Phương pháp phân tích, xử lý 
số liệu: Số liệu trong bài nghiên cứu này được xử 
lý bằng các phần mềm Exel... Cùng với hai phương 
pháp trên, nghiên cứu này cũng được tham vấn ý 
kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính và 
thống kê kinh tế.
Kết quả nghiên cứu
Khái quát năng lực cạnh tranh của khu vực FDI ở Việt Nam
Năng lực về vốn: Ở Việt Nam, khu vực DN FDI 
đã dần khẳng định là khu vực kinh tế phát triển 
năng động nhất với quy mô vốn ngày càng được 
mở rộng. Tính từ năm 1987 đến tháng 11/2017, Việt 
Nam đã có 26.385 dự án còn hiệu lực với tổng vốn 
đăng ký lên tới 374.960 tỷ USD, không kể vốn tăng 
thêm. Khu vực FDI trở thành cấu thành quan trọng, 
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam và năng 
lực cạnh tranh của khu vực này trước hết thể hiện ở 
tiềm lực về vốn. 
Xem xét vốn đầu tư toàn xã hội theo thành phần 
kinh tế cho thấy có sự dịch chuyển vốn từ khu vực 
kinh tế Nhà nước sang các khu vực khác. Cụ thể, tỷ 
trọng vốn đầu tư từ khu vực kinh tế nhà nước đã 
giảm dần từ 59,1% năm 2000 xuống còn 32,1% năm 
2017. Tỷ trọng đầu tư từ khu vực ngoài Nhà nước 
và khu vực FDI tương đối ổn định và có xu hướng 
tăng lên. Năm 2000 khu vực FDI chiếm 18% tổng 
vốn đầu tư toàn xã hội thì năm 2017 là 25,6%. Do 
đó, khu vực này là khu vực có tiềm lực về vốn, kéo 
theo đó là năng lực về công nghệ. Đây cũng là điểm 
khác biệt của khu vực này với khu vực trong nước, 
nhất là các DN vừa và nhỏ thiếu vốn, ảnh hưởng 
trực tiếp đến năng lực công nghệ.
Năng lực công nghệ: Trình độ công nghệ là một 
yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của DN. 
Thành quả to lớn của thu hút FDI vào Việt Nam 
đã được khẳng định, trong đó, chuyển giao công 
nghệ được đánh giá khá thành công ở một số ngành 
và lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó 
đánh giá trình độ công nghệ mà khu vực FDI đưa 
vào Việt Nam nhưng theo nhiều đánh giá, FDI đã 
góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ, từng 
bước nâng cao trình độ công nghệ sản xuất trong 
nước, một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên 
tiến của thế giới như: Bưu chính - viễn thông, dầu 
khí, xây dựng, cầu đường, khách sạn, văn phòng 
cho thuê... Nhiều DN trong nước đã đổi mới hoặc 
nâng cấp trang thiết bị đáp ứng yêu cầu cạnh tranh 
ngày càng cao của nền kinh tế. Do đó, Việt Nam đã 
sản xuất được thêm nhiều sản phẩm mới; hạn chế 
nhập khẩu nhiều loại hàng hóa thuộc các lĩnh vực 
như dầu khí, vật liệu xây dựng, điện tử gia dụng, 
phương tiện giao thông... Các DN FDI đã tạo ra 
được nhiều sản phẩm có chất lượng, mẫu mã đẹp, 
kiểu dáng hợp thời trang, đáp ứng tốt hơn nhu cầu 
của thị trường trong nước và gia tăng nhanh chóng 
kim ngạch xuất khẩu như: Máy tính, smartphone, 
điện tử gia dụng, cơ khí chế tạo...
Do sức ép cạnh tranh ngày càng tăng từ sản 
phẩm của DN FDI, nhiều DN trong nước đã đầu tư 
nhập thiết bị và công nghệ mới, lập bộ phận hoặc 
trung tâm nghiên cứu và phát triển. Do đó, họ đã 
HÌNH 1: CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƯ XÃ HỘI 
THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN (1995 – 2017)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
34
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
sản xuất được sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã 
đẹp, thay thế hàng nhập khẩu với giá cả hợp lý, 
được người tiêu dùng ưu tiên sử dụng và xuất khẩu 
ra thị trường thế giới.
Dầu khí và truyền thông là hai ngành kinh tế nhờ 
chuyển giao công nghệ, nghiên cứu và phát triển 
gắn với FDI nên đã phát triển với tốc độ nhanh, hiện 
đại, tiến kịp trình độ thế giới. Cụ thể, các hợp đồng 
thăm dò và khai thác dầu khí đều có quy định về 
chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý và 
cán bộ kỹ thuật, nên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam 
không những làm chủ được nhiều công nghệ hiện 
đại và phức tạp trong hoạt động thăm dò, khai thác 
dầu khí ở thềm lục địa của nước ta, mà còn có năng 
lực về công nghệ và nhân lực tham gia một số liên 
doanh ở nước ngoài.
So với 30 năm trước, ngành Truyền thông Việt 
Nam đã có bước tiến vượt bậc, bắt đầu từ hợp tác 
với một số DN nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ 
viễn thông và áp dụng cơ chế cạnh tranh từ những 
năm cuối thế kỷ XX; nhiều công nghệ hiện đại đã 
được chuyển giao và ứng dụng thành công như 
mạng viễn thông số hóa, mạng cáp quang, công 
nghệ GSM và CDMA, đặc biệt là công nghệ 4G đã 
được một số DN viễn thông bắt đầu áp dụng. Một 
số công nghệ mới như: WiMax và Mobile TV đang 
được tiếp tục thử nghiệm để đưa vào ứng dụng. 
Số lượng DN ứng dụng công nghệ thông tin vào 
kinh doanh, thương mại điện tử tăng nhanh. Trong 
những năm gần đây, Việt Nam đã triển khai thành 
công một số hoạt động chuyển giao công nghệ trong 
lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông với 
hai cường quốc lớn là Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Trong Bảng Xếp hạng về năng lực cạnh tranh 
công nghiệp của UNIDO năm 2017, Việt Nam đứng 
thứ 50 trên tổng số 141 nước được xếp hạng, tăng 44 
bậc so năm 1990. Tuy vậy, trong ASEAN, Việt Nam 
chỉ đứng trên Philippines (hạng 53) và Campuchia 
(hạng 90). Về chỉ số giá trị gia tăng công nghiệp chế 
biến/người, Việt Nam tăng từ 173,6 USD năm 2009 
lên 235,6 USD năm 2013, đứng thứ 101 trong tổng 
số 143 nước (Singapore thứ 1, Malaysia thứ 41, Thái 
Lan thứ 49). Nếu không đạt được tốc độ tăng trưởng 
cao hơn, thì cần khoảng 20 năm mới có thể đạt mức 
1.000 USD của các nước công nghiệp phát triển.
Khu vực FDI ở Việt Nam tuy sử dụng công nghệ 
cao hơn so với công nghệ của các DN trong nước 
nhưng phần lớn dự án sử dụng công nghệ trung 
bình và công nghệ thấp. Hơn 80% DN FDI sử dụng 
công nghệ trung bình của thế giới, khoảng 5-6% sử 
dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, trong khi 
mục tiêu là 35 - 40%. Công nghệ được chuyển giao 
theo các dự án FDI chủ yếu do lợi ích của nhà đầu 
tư nên còn xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường. 
Năng lực thị trường:
So với khu vực kinh tế trong nước, khu vực FDI 
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất 
nhập khẩu của Việt Nam. Khu vực DN FDI cũng 
có lợi thế hơn về năng lực thị trường so với các DN 
trong nước, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Xuất 
khẩu của khu vực FDI luôn chiếm tỷ trọng trên 50% 
tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Đây là bằng chứng 
cho thấy năng lực cạnh tranh của khu vực này cao 
hơn so với khu vực trong nước. Nhiều mặt hàng 
xuất khẩu của Việt Nam được biết đến nhờ khu vực 
FDI như linh kiện điện tử, điện dân dụng, điện thoại 
di động, máy tính văn phòng Các DN FDI cũng 
tiếp cận thị trường nguyên liệu sản xuất dễ dàng 
hơn khu vực trong nước nhờ năng lực về vốn và 
công nghệ tốt hơn.
Kết quả xuất khẩu của khu vực DN FDI khá ấn 
tượng trong giai đoạn 30 năm qua, đặc biệt, sau khi 
Việt Nam gia nhập WTO và phần lớn sản phẩm tạo 
ra được dành cho xuất khẩu.
Trong các mặt hàng xuất khẩu, kim ngạch xuất 
khẩu các mặt hàng cao nhất là hàng may mặc, dệt 
may, thiết bị điện tử lắp ráp Đây là nhưng mặt 
HÌNH 2: TỶ TRỌNG GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 
GIAI ĐOẠN (1995 – 2017)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
HÌNH 3: TỐC ĐỘ TĂNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 
GIAI ĐOẠN (2007 – 2017)
Nguồn: Tổng cục Hải quan
TÀI CHÍNH - Tháng 02/2019
35
hàng mang lại giá trị gia tăng thấp, chủ yếu tận 
dụng lợi thế nhân công giá rẻ và dồi dào của Việt 
Nam. Đáng chú ý là kim ngạch xuất khẩu, những 
loại khoáng sản và kim loại cơ bản cũng chiếm tỷ 
trọng lớn so với khu vực trong nước. Một trong 
những yếu tố chứng tỏ năng lực cạnh tranh của khu 
vực FDI là khả năng mở rộng thị trường và quy mô 
thị trường xuất khẩu.
Liên kết sản xuất và năng lực tham gia chuỗi giá trị:
Năng lực cạnh tranh của khu vực FDI còn thể 
hiện qua khả năng liên kết sản xuất giữa các DN 
trong cùng tập đoàn hay các DN FDI với các DN 
bên ngoài, cũng như năng lực tham gia chuỗi giá 
trị toàn cầu, trong khi đây là điểm yếu của các DN 
trong nước.
Phần lớn các nhà đầu tư đến Việt Nam với mục 
đích khai thác tài nguyên và tận dụng nguồn lao 
động dồi dào và giá rẻ. Vì vậy, lĩnh vực thu hút 
FDI chủ yếu là khai khoáng và công nghiệp chế tạo 
có sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, 
linh kiện và điện tử... Tuy nhiên, các dự án ở Việt 
Nam chỉ thực hiện một số công đoạn đơn giản trong 
chuỗi giá trị như gia công, lắp ráp, tức là sản xuất 
sản phẩm cuối cùng, trong khi những đầu vào trung 
gian đòi hỏi công nghệ và mức độ chuyên sâu cao 
hơn thì phải nhập khẩu. Đây cũng là một nguyên 
nhân quan trọng làm hạn chế sự lan tỏa công nghệ 
của khu vực này cho khu vực trong nước.
Các DN FDI tại Việt Nam cũng có mối liên hệ sản 
xuất chặt chẽ với các DN khác trong cùng tập đoàn/
công ty mẹ ở nước ngoài hoặc với các đối tác làm ăn 
của tập đoàn đã được thiết lập trước đó trên phạm 
vi toàn cầu. Vì vậy, các DN trong nước rất khó có 
thể chen chân được vào mạng lưới sản xuất toàn cầu 
của các công ty đa quốc gia, ngay cả các DN có quy 
mô lớn. Ví dụ, hãng Canon thường được nhắc đến 
như một điển hình thành công trong việc xây dựng 
chuỗi cung ứng nội địa tại Việt Nam, 90% các nhà 
cung cấp cho họ thực chất là các công ty Nhật Bản 
với hình thức FDI hoạt động ở Việt Nam. Mối liên 
kết giữa các DN Nhật Bản được hình thành trên cơ 
sở quan hệ sản xuất do đáp ứng yêu cầu sản xuất, kỹ 
thuật, quản lý và có cùng văn hóa kinh doanh, ngôn 
ngữ, tư duy kinh doanh.
Hoạt động của hầu hết các DN FDI ở Việt Nam 
chưa phải để đáp ứng cho thị trường nội địa, mà 
chủ yếu để xuất khẩu theo các tham số, điều kiện 
mà công ty mẹ đưa ra. Theo đó, công ty mẹ thiết kế 
sản phẩm, cung cấp quy trình sản xuất và tiêu thụ 
sản phẩm cho các DN FDI tại Việt Nam. Đây là điểm 
mạnh thể hiện năng lực cạnh tranh của các DN FDI 
qua công ty mẹ nhưng lại là điểm hạn chế của các 
DN Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị do công ty 
mẹ của các DN này thiết lập.
Đóng góp của khu vực FDI 
vào năng lực cạnh tranh quốc gia
Đóng góp của FDI trong cán cân thanh toán quốc tế, 
giảm thâm hụt cán cân thương mại
Trong thời gian qua, cán cân thương mại của Việt 
Nam đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên, sự cải 
thiện này lại thể hiện sự kém bền vững. Trong giai 
đoạn (1995-2015), cán cân thương mại thường xuyên 
trong trạng thái thâm hụt, điều này làm giảm cạnh 
tranh vĩ mô của Việt Nam. Tuy nhiên, khu vực FDI 
luôn đạt mức thặng dư thương mại lớn trong khi 
khu vực trong nước luôn trong trạng thái thâm hụt. 
Với kết quả xuất siêu của khu vực FDI đã góp phần 
tích cực vào giảm nhập siêu, giảm áp lực lên tỷ giá, 
qua đó cải thiện tài khoản vãng lai, tài khoản vốn và 
cán cân thanh toán, có nghĩa là thúc đẩy cạnh tranh 
nền kinh tế.
Đóng góp của FDI vào chuyển giao khoa học công nghệ
Mức độ chuyển giao khoa học công nghệ của 
khu vực FDI được cho là cao hơn hoặc bằng các 
HÌNH 4: CƠ CẤU NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 
GIAI ĐOẠN (2006 – 2016)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
HÌNH 5: GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 
GIAI ĐOẠN (1998 – 2016)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
36
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương 
với các nước trong khu vực. Do đó, một trong 
những lý do mong muốn thu hút FDI là nhằm có 
được chuyển giao công nghệ từ các DN FDI, vì đây 
là yếu tố giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc 
gia nói chung và nâng cao năng lực cạnh tranh 
của DN nói riêng. Mặc dù vậy, số lượng hợp đồng 
chuyển giao công nghệ tại Việt Nam còn rất hạn 
chế. Theo Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài (2016), 
các hợp đồng chuyển giao công nghệ đều được 
thực hiện dưới dạng chuyển giao từ công ty mẹ 
sang công ty con tại Việt Nam, chứ chưa có hợp 
đồng nào chuyển giao từ DN FDI sang các DN 
trong nước. Theo điều tra “Năng lực cạnh tranh 
và công nghệ ở cấp độ DN tại Việt Nam từ năm 
2010 – 2014” của Viện Nghiên cứu Quản lý Trung 
ương (2015), nếu xét cả DN trong cùng ngành và 
khác ngành, có khoảng 80% chuyển giao công 
nghệ diễn ra giữa các DN trong nước, còn chuyển 
giao công nghệ diễn ra từ các DN FDI cho DN 
trong nước cùng và khác ngành chỉ chiếm dưới 
20%. Đây là thiệt thòi lớn đối với DN trong nước 
và cũng cho thấy vai trò của FDI đối với chuyển 
giao công nghệ ở Việt Nam còn khá mờ nhạt. Đó 
cũng là một bằng chứng cho thấy, Việt Nam chưa 
tận dụng được nguồn vốn này cho nâng cao năng 
lực cạnh tranh quốc gia, trong khi các nước khác 
đã làm khá tốt điều này.
Đóng góp của FDI vào tăng năng suất lao động
Dòng vốn FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện năng suất 
lao động. Sự hiện diện của dòng vốn FDI giúp dịch 
chuyển lao động từ khu vực truyền thống, năng 
suất thấp (khu vực nông nghiệp, lao động phi chính 
thức) dịch chuyển sang khu vực hiện đại hơn (công 
nghiệp, dịch vụ). Sự dịch chuyển này có ý nghĩa 
quan trọng giúp cải thiện năng suất lao động trong 
ngắn hạn đối với các nước đang phát triển. Hơn 
nữa, các DN FDI với kinh nghiệm và năng lực tốt 
hơn (về công nghệ, trình độ quản lý, thị trường) kỳ 
vọng sẽ có mức tăng trưởng năng suất lao động cao 
hơn so với khu vực trong nước.
Đóng góp của FDI 
vào xuất khẩu hàng hóa
Những năm qua, hàng hóa 
xuất khẩu của khu vực FDI đã 
“biến” bạn hàng của họ thành 
bạn hàng của Việt Nam, quảng 
bá thương hiệu quốc gia, trở 
thành “cầu nối”, là điều kiện 
tốt để Việt Nam nhanh chóng 
tiếp cận và tiến hành hợp tác với nhiều quốc gia, tổ 
chức quốc tế, những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công 
nghệ lớn trên thế giới, từng bước nâng cao vị thế và 
năng lực của nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thực tế ở Việt Nam đã minh chứng điều này, 
trước năm 1987 (năm có Luật Đầu tư nước ngoài tại 
Việt Nam), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam rất 
nhỏ bé và đơn điệu về chủng loại hàng hóa, hầu hết 
là sản phẩm thô, chưa qua sơ chế hoặc mức độ chế 
biến thấp. Ngoài dầu thô và gạo, không có mặt hàng 
xuất khẩu nào vượt quá 100 triệu USD/năm. Khi các 
DN FDI tại Việt Nam đi vào giai đoạn phát triển, tốc 
độ tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này đã góp 
phần vào tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước. 
Từ năm 1991 – 1995 xuất khẩu của khu vực FDI đạt 
trên 1,12 tỷ USD, đến giai đoạn 1996 – 2000 đạt trên 
10,6 tỷ USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và 
chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong giai 
đoạn 2011 – 2017, cũng không ngừng tăng lên, năm 
2017 đạt gần 204,5 tỷ USD và 66,3% tổng kim ngạch 
xuất khẩu cả nước. Nhờ xuất khẩu khu vực FDI, cán 
cân thương mại không những được cải thiện mà còn 
tạo ra xuất siêu trong vài năm gần đây.
Hạn chế của khu vực FDI vào năng lực cạnh tranh 
quốc gia
Năng lực cạnh tranh của khu vực FDI cao hơn 
so với khu vực trong nước thể hiện qua năng lực về 
vốn, năng lực về công nghệ, trình độ quản lý, khả 
năng tiếp cận thị trường và năng lực tham gia vào 
chuỗi giá trị toàn cầu. Với những đóng góp tích cực 
như: Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, giảm 
thâm hụt cán cân thương mại, thúc đẩy chuyển 
giao khoa học công nghệ, thúc đẩy tăng năng suất 
lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh vĩ mô và 
xuất khẩu. Bên cạnh những đóng góp tích cực của 
khu vực FDI vào năng lực cạnh tranh quốc gia thì 
khu vực này vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:
Thứ nhất, DN FDI tuy có năng lực về vốn nhưng 
lại phụ thuộc vào công ty mẹ hoặc công ty con ở nước 
ngoài đầu tư vào Việt Nam. Vì vậy, tiềm lực về vốn 
và công nghệ của các DN đó vẫn phụ thuộc vào bên 
ngoài. Điều này làm hạn chế khả năng tự chủ của các 
BẢNG 1: CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN (1995-2017)
Thành phần 1995 2000 2005 2010 2015 2016 SB 2017
Cán cân thương mại -2,27 -1,15 -4,31 -12,61 -3,54 2,52 3,17
Trong đó: 
Khu vực trong nước -2,72 -3,61 -9,21 -14,73 -15,8 -19,12 -20,67
Khu vực FDI 0,45 2,46 4,9 2,12 12,26 21,64 23,85
Nguồn: Tổng cục Hải quan
TÀI CHÍNH - Tháng 02/2019
37
DN FDI ở Việt Nam so với các DN trong cùng công ty 
hoặc cùng tập đoàn tại các nước khác trong khu vực 
như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia
Thứ hai, DN FDI tại Việt Nam chủ yếu sản xuất 
khâu lắp ráp, gia công chủ yếu để xuất khẩu. Đây 
là khâu sản xuất cuối cùng trong quy trình sản 
xuất, chỉ rất ít DN sản xuất sản phẩm trưng gian 
vì thường đòi hỏi vốn lớn và trình độ lao động cao 
hơn. Hơn nữa, các mặt hàng xuất khẩu của khu 
vực DN FDI thường theo đơn đặt hàng của công 
ty mẹ hoặc cho đối tác nước ngoài theo chỉ định từ 
bên ngoài, ngành hàng xuất khẩu dù được coi là 
công nghệ cao nhưng những khâu sử dụng công 
nghệ cao lại không hiện diện ở Việt Nam. Như vậy, 
khu vực DN FDI có năng lực về vốn và công nghệ 
cao hơn so với các DN khu vực trong nước, nhưng 
lại kém hơn các DN FDI trong cùng tập đoàn hoặc 
công ty mẹ trong chuỗi giá trị nằm ở ngoài Việt 
Nam. Nếu Việt Nam chỉ dựa vào DN FDI như vậy 
thì khó có thể bắt kịp các nước trong khu vực về 
năng lực cạnh tranh.
Thứ ba, các tác động của khu vực FDI như 
tăng năng suất lao động, nâng cao xuất khẩu chủ 
yếu dựa vào phát triển về chiều rộng của khu 
vực FDI. Khu vực FDI đưa vốn vào Việt Nam với 
mục tiêu kết hợp các yếu tố đất đai, lao động giá 
rẻ, chính sách ưu đãi để tối đa hóa lợi nhuận theo 
chiến lược kinh doanh mà chưa đem lại các yếu 
tố làm tăng năng suất theo chiều sâu như công 
nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý 
tiên tiến. Trong thời gian tới, nếu khu vực FDI 
không tăng cường phát triển theo chiều sâu, thì 
những tác động trên sẽ làm giảm dần các lợi thế 
về lao động và chính sách ưu đãi, khi đó năng 
lực cạnh tranh và tác động thúc đẩy cạnh tranh 
của khu vực này sẽ giảm.
Một số giải pháp 
Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh giữa các 
quốc gia đang phát triển nói chung và các quốc gia 
trong khu vực nói riêng trong thu hút FDI, nhằm 
nâng cao hiệu quả của FDI vào năng lực cạnh tranh 
quốc gia, Việt Nam cần tập trung vào một số giải 
pháp sau:
Một là, điều chỉnh chính sách thu hút FDI, không 
thu hút FDI tràn lan mà cần chọn lọc, sàng lọc các 
dự án FDI, tập trung hướng dòng vốn này theo mục 
tiêu tái cấu trúc nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình 
tăng trưởng theo chiều sâu nhằm tăng năng suất, 
hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Hai là, hạn chế thu hút FDI vào các ngành, lĩnh 
vực sử dụng công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao 
động và đòi hỏi cơ sở hạ tầng lớn, tiêu tốn nhiều 
năng lượng vì có thể sẽ phải đối mặt với năng lực 
cạnh tranh giảm trong thời gian tới.
Ba là, ưu tiên thu hút FDI nhằm hình thành 
hướng liên kết sản xuất với khu vực DN trong nước. 
FDI tiếp tục giữ vai trò trung tâm, tạo sức hút đầu tư 
của khu vực tư nhân trong nước, thông qua đó lôi 
cuốn sự tham gia của khu vực tư nhân vào những 
ngành, những khâu không cần thiết có sự tham gia 
của FDI, qua đó, tăng tiềm lực, khả năng cạnh tranh 
của khu vực trong nước.
Bốn là, tập trung tháo gỡ, giải quyết những khó 
khăn, vướng mắc và giải quyết những vấn đề còn 
tồn tại trong công tác thu hút và giải ngân FDI.
Năm là, đẩy nhanh cải cách thủ tục hành chính 
nhằm rút ngắn thời gian chuẩn bị đầu tư, giảm chi 
phí cho nhà đầu tư trong thực hiện các thủ tục hành 
chính liên quan đến hoạt động đầu tư.
Như vậy, khu vực FDI đã, đang trở thành động 
lực tăng trưởng ổn định của nền kinh tế Việt Nam, 
đóng góp ngày càng nhiều vào giá trị sản lượng công 
nghiệp, dịch vụ, xuất nhập khẩu, thu ngân sách nhà 
nước, tổng sản phẩm quốc nội và góp phần không 
nhỏ vào nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của 
Việt Nam. Vì vậy, tận dụng nguồn lực FDI cho sự 
phát triển kinh tế - xã hội là cần thiết. Để tận dụng 
được cơ hội, cần thay đổi chính sách khuyến khích 
và tạo sức hút đầu tư; đồng thời, nâng cao khả năng 
hấp thu công nghệ, kết nối thị trường và sử dụng có 
hiệu quả nguồn vốn này. 
Tài liệu tham khảo:
1. Ngân hàng Thế giới (2013), Điểm lại cập nhật tình hình phát triển kinh tế 
Việt Nam;
2. Tổng cục Thống kê (2016), Năng suất lao động của Việt Nam: Thực trạng 
và giải pháp;
3. Viện Năng suất Việt Nam (2017), Báo cáo năng suất Việt Nam 2016, Hà Nội;
4. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Vũ Thị Như Hoa (2013), Đầu tư trực tiếp nước ngoài và 
năng lực cạnh tranh của Việt Nam;
5. Lê Văn Hùng (2017), FDI và tăng trưởng năng suất lao động ở Việt Nam – 
Ngụ ý đối với dòng vốn FDI từ EU, Viện kinh tế Việt Nam.
Trong giai đoạn (1995-2015), cán cân thương 
mại của Việt Nam thường xuyên trong trạng 
thái thâm hụt. Tuy nhiên, khu vực FDI luôn đạt 
mức thặng dư thương mại lớn, trong khi khu vực 
trong nước luôn thâm hụt. Với kết quả xuất siêu 
của khu vực FDI đã góp phần tích cực vào giảm 
nhập siêu, giảm áp lực lên tỷ giá, cải thiện tài 
khoản vãng lai, tài khoản vốn và cán cân thanh 
toán, góp phần thúc đẩy cạnh tranh nền kinh tế.

File đính kèm:

  • pdfdong_gop_cua_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_vao_nang_luc_canh_t.pdf