Đổi mới công tác nghiên cứu và chuyển giao giống cây lâm nghiệp phục vụ tái cơ cấu ngành

TÓM TẮT

Cải thiện giống cây rừng ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể

như đã chọn được một số loài cây và xuất xứ có triển vọng nhất cho một số

vùng sinh thái chính; Chiến lược cải thiện giống dài hạn cho nhóm các loài

cây trồng rừng chủ lực đã hoạch định rõ ràng nhằm tăng năng suất rừng

trồng và chất lượng sản phẩm cuối cùng; Các quần thể chọn giống và nhân

giống được xây dựng trên khắp cả nước để cung cấp hạt giống chất lượng

cao cho sản xuất và phục vụ nghiên cứu. Nhân giống sinh dưỡng cũng đã

được nghiên cứu thành công cho nhiều giống tiến bộ kỹ thuật và đã chuyển

giao công nghệ nhân giống và giống gốc cho sản xuất. Tồn tại chủ yếu là

nhiều giống tiến bộ kỹ thuật vẫn chưa được chuyển giao vào sản xuất, hệ

thống nguồn giống và cán bộ quản lý giống tại các địa phương còn thiếu và

yếu. Để phục vụ đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, công tác chọn tạo giống

cây rừng trong thời gian tới sẽ phải được thực hiện theo hướng gắn kết chặt

chẽ giữa nghiên cứu chọn giống truyền thống với ứng dụng công nghệ sinh

học, khoa học gỗ, lâm sinh và sâu bệnh rừng; Tập trung chọn tạo giống phù

hợp với từng loại lập địa ở từng vùng trồng rừng trọng điểm, theo từng mục

tiêu sử dụng và sức chống chịu, tạo đa bội và con lai tam bội bất thụ cho các

loài cây trồng rừng chủ lực có diện tích trồng rừng lớn ở Việt Nam. Ứng

dụng một số công nghệ mới như chọn giống bằng các chỉ thị phân tử, biến

nạp gene, tạo phôi nhân tạo, kích thích ra hoa sớm và mini - cutting,. vào

các chương trình cải thiện giống nhằm nâng cao hiệu quả, rút ngắn chu kì

chọn tạo giống và chuyển giao nhanh giống tốt vào sản xuất. Đẩy mạnh

chuyển giao giống gốc và công nghệ xây dựng vườn giống, rừng giống chất

lượng cao và công nghệ mô hom cho các địa phương để chủ động sản xuất

giống phục vụ trồng rừng

pdf 14 trang phuongnguyen 840
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới công tác nghiên cứu và chuyển giao giống cây lâm nghiệp phục vụ tái cơ cấu ngành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới công tác nghiên cứu và chuyển giao giống cây lâm nghiệp phục vụ tái cơ cấu ngành

Đổi mới công tác nghiên cứu và chuyển giao giống cây lâm nghiệp phục vụ tái cơ cấu ngành
Tạp chí KHLN 2/2014 (3241 - 3254) 
©: Viện KHLNVN - VAFS 
ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: www.vafs.gov.vn 
3241 
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU VÀ CHUYỂN GIAO GIỐNG CÂY 
LÂM NGHIỆP PHỤC VỤ TÁI CƠ CẤU NGÀNH 
PGS.TS. Võ Đại Hải 
Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 
Từ khóa: Giống cây lâm 
nghiệp, thành tựu, định 
hướng, tái cơ cấu ngành. 
TÓM TẮT 
Cải thiện giống cây rừng ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể 
như đã chọn được một số loài cây và xuất xứ có triển vọng nhất cho một số 
vùng sinh thái chính; Chiến lược cải thiện giống dài hạn cho nhóm các loài 
cây trồng rừng chủ lực đã hoạch định rõ ràng nhằm tăng năng suất rừng 
trồng và chất lượng sản phẩm cuối cùng; Các quần thể chọn giống và nhân 
giống được xây dựng trên khắp cả nước để cung cấp hạt giống chất lượng 
cao cho sản xuất và phục vụ nghiên cứu. Nhân giống sinh dưỡng cũng đã 
được nghiên cứu thành công cho nhiều giống tiến bộ kỹ thuật và đã chuyển 
giao công nghệ nhân giống và giống gốc cho sản xuất. Tồn tại chủ yếu là 
nhiều giống tiến bộ kỹ thuật vẫn chưa được chuyển giao vào sản xuất, hệ 
thống nguồn giống và cán bộ quản lý giống tại các địa phương còn thiếu và 
yếu. Để phục vụ đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, công tác chọn tạo giống 
cây rừng trong thời gian tới sẽ phải được thực hiện theo hướng gắn kết chặt 
chẽ giữa nghiên cứu chọn giống truyền thống với ứng dụng công nghệ sinh 
học, khoa học gỗ, lâm sinh và sâu bệnh rừng; Tập trung chọn tạo giống phù 
hợp với từng loại lập địa ở từng vùng trồng rừng trọng điểm, theo từng mục 
tiêu sử dụng và sức chống chịu, tạo đa bội và con lai tam bội bất thụ cho các 
loài cây trồng rừng chủ lực có diện tích trồng rừng lớn ở Việt Nam. Ứng 
dụng một số công nghệ mới như chọn giống bằng các chỉ thị phân tử, biến 
nạp gene, tạo phôi nhân tạo, kích thích ra hoa sớm và mini - cutting,... vào 
các chương trình cải thiện giống nhằm nâng cao hiệu quả, rút ngắn chu kì 
chọn tạo giống và chuyển giao nhanh giống tốt vào sản xuất. Đẩy mạnh 
chuyển giao giống gốc và công nghệ xây dựng vườn giống, rừng giống chất 
lượng cao và công nghệ mô hom cho các địa phương để chủ động sản xuất 
giống phục vụ trồng rừng. 
Keyword: Forest tree 
improvement, achievement, 
stategy of research and 
development, forest 
restructuring 
Innovation of forest tree improvement to serve the scheme of forest 
restructuring 
Forest tree improvement pays an important role in intensive plantations. For 
many years ago, significant achievements of forest tree improvement in 
Vietnam were as follow: (1) Some tree species with promising provenances 
were selected for some main ecological regions; (2) Breeding strategy of 
each promissing species was set up to improve the MAI of plantations and 
quality of end products. (3) Breeding populations, seed orchards, seed 
production areas, Hedge orchards and gene banks were established for some 
main planting species to supply the high quality seeds for plantation 
programs and genetic materials for further breeding programs; Application 
of biotechnology in identify of clone, outcrossing rate, genetic diversity of 
breeding population and use of DNA maker were implemented; Vegetative 
propagation by cutting and tisue culture were successfully studied and then 
the techniques and original germplasms were transferred to production 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3242 
units. Usefull germplasms were Acacia and Eucalyptus clones and hybrid 
clones for low land and highland areas, dry - zone acacias for dry sandy 
soil, Melaleuca species for waterlogged sulphate acid soils and clones of 
Pinus merkusii with high resin yield. 
However forest tree improvement still did not meet the large requirement 
from production units, such as few approved germplasms tranferred to 
production units and lack of propagation populations and management of 
germplasms in provincial level. To serve the Scheme of Forest 
Restructuring, the forest tree improvement must implement as a linkage 
model including quantitative genetics, molarcular genetics, wood science, 
silviculture and tree pathology. Priorities of breakthrough researchs should 
be focused on selection, directional pollination, creation of polyploid and 
trippoid germplasms of main planting species, selection of suitable 
germplasms for each major areas and end - use products, and harsh 
environment and disease resistance. Results from researchs will be 
transferred as soon as possible by cooperating with forest extention 
services. Application of new technologies, such as DNA marker, gene 
transfer, creation of artificial embryos, stimulation of early flowering and 
mini - cutting, will encourage for increase of breeding effect and to shorten 
breeding cycles. Estabilishment of high quality seed production areas, seed 
orchards, hedge orchards, seed store and gene bank in major areas of 
plantations will be implemented in next few years for increase of supply of 
good seeds and germplasms to production units, research, gene 
conservation as well as international exchange of genetic materials. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chuyển từ khai thác rừng tự nhiên sang kinh 
doanh rừng trồng là xu hướng phát triển tất 
yếu không những ở nước ta mà của rất nhiều 
nước trên thế giới. Trong kinh doanh rừng 
trồng, giống cây lâm nghiệp có vai trò rất 
quan trọng trong sản xuất lâm nghiệp, đặc 
biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa nông 
nghiệp, thông thôn và xây dựng nông thôn 
mới. Nhờ có giống được cải thiện và áp dụng 
các biện pháp kỹ thuật thâm canh mà năng 
suất và chất lượng rừng trồng của nước ta 
trong những năm qua đã tăng gấp đôi so với 
những năm 1960, trong đó giống đóng góp 
tới 60% năng suất và chất lượng rừng trồng. 
Hiện nay năng suất rừng trồng phổ biến đạt 
từ 10 - 15 m3/ha/năm tùy điều kiện lập địa. 
Nhận thức được vai trò quan trọng của công 
tác giống nên trong Nghị quyết số 06 của Bộ 
Chính trị ngày 10/11/1998 về một số vấn đề 
phát triển nông nghiệp và nông thôn đã ghi rõ 
“Ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng giống 
mới”. Trong Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg 
của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/02/2007 về 
phê duyệt chiến lược phát triển lâm nghiệp 
Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 cũng đã chỉ rõ 
phải “nghiên cứu phát triển rừng theo 2 hướng 
chính là cải tạo giống cây rừng và thực hiện 
các biện pháp lâm sinh”. Nâng cao chất lượng 
giống cây trồng rừng cũng là một trong 
những giải pháp quan trọng để thực hiện Đề 
án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp theo Quyết 
định số 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 08/7/2014 
của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT. 
Trong đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp nước 
ta, yêu cầu cấp thiết đặt ra là nâng cao giá trị 
gia tăng và phát triển bền vững. Để nâng cao 
giá trị gia tăng của ngành, 2 nhiệm vụ cơ bản 
được đặt ra là: i) Nâng cao năng suất rừng đạt 
bình quân 15 m3/ha/năm, đến năm 2020 diện tích 
rừng trồng sản xuất đạt khoảng 3,84 triệu hecta; 
ii) Đưa tỷ lệ giống cây trồng lâm nghiệp mới 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3243 
được công nhận vào sản xuất lên 60 - 70% 
vào năm 2020, đảm bảo cung cấp đủ giống có 
chất lượng, góp phần đưa năng suất rừng 
trồng tăng 10% vào năm 2015 và tăng 20% 
vào năm 2020 so với năm 2011. Để thực hiện 
được hai nhiệm vụ cơ bản trên, việc ứng dụng 
khoa học công nghệ trong lâm nghiệp và tăng 
cường công tác quản lý cần được đẩy mạnh, 
đặc biệt đối với lĩnh vực giống cây lâm nghiệp 
vì giống là yếu tố sinh học có tính quyết định 
trong năng suất và chất lượng sản phẩm, là 
tiền đề để phát huy các kỹ thuật, công nghệ 
tiên tiến khác trong chu kỳ sản xuất. Đổi mới 
công tác nghiên cứu và chuyển giao nhằm đưa 
nhanh các giống tốt vào sản xuất, đáp ứng 
mục tiêu tái cơ cấu ngành lâm nghiệp là một 
nhu cầu khách quan và cấp bách trong giai 
đoạn hiện nay. 
II. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ NGHIÊN 
CỨU GIỐNG CÂY LÂM NGHIỆP ĐÃ 
ĐẠT ĐƯỢC 
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam - đơn 
vị đầu ngành nghiên cứu về lâm nghiệp nói 
chung và giống cây lâm nghiệp nói riêng, vừa 
mới được tổ chức và sắp xếp lại theo Quyết 
định số 2099/QĐ-TTg ngày 25/11/2011 của 
Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, cơ cấu tổ 
chức của Viện gồm 7 Viện và Trung tâm 
nghiên cứu chuyên đề; 6 Viện và Trung tâm 
vùng. Trải qua 53 năm xây dựng và phát triển, 
đến nay Viện đã đạt được nhiều thành tựu 
khoa học đáng kể về công tác cải thiện giống 
cây rừng như đã tạo lập được một mạng lưới 
nghiên cứu giống cây lâm nghiệp rộng khắp 
trong cả nước. Đội ngũ cán bộ chủ chốt làm 
công tác giống được đào tạo bài bản và 
chuyên sâu từ các nước tiên tiến như Thụy 
Điển, Australia, Đức, Hungary,... Các cán bộ 
này có kiến thức, kỹ năng và trình độ ngoại 
ngữ tốt để hòa nhập với các nước trong khu 
vực, tạo lập được vị thế và uy tín đối với các 
tổ chức nghiên cứu và sản xuất lâm nghiệp 
trong và ngoài nước. 
Các loài keo, bạch đàn và thông đã được xác 
định là những loài cây trồng rừng kinh tế chủ 
lực ở Việt Nam. Đây là những loài cây có sinh 
trưởng nhanh và thích ứng tốt trên các dạng 
lập địa khác nhau. Gỗ của chúng có thể sử 
dụng làm giấy, dăm và đóng đồ mộc. Các loài 
keo và bạch đàn được trồng ở Việt Nam hiện 
nay chủ yếu có nguồn gốc từ Australia và một 
số khu vực lân cận như Papua New Guinea 
(PNG), West Papua, Indonesia (Nguyễn 
Hoàng Nghĩa, Lê Đình Khả, 1998). Việc xác 
định các loài cây phù hợp, thu thập các nguồn 
gen và nhập nội trồng tại Việt Nam đã được 
tiến hành với sự hợp tác giúp đỡ của các 
chương trình khảo nghiệm loài và xuất xứ 
quốc tế được chính phủ Australia, FAO và 
CSIRO thực hiện từ những năm 1970 
(Turnbull et al., 1997). 
Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu có sự biến 
động rất lớn giữa các vùng, chủ yếu về các 
yếu tố nhiệt độ và lượng mưa. Từ các khảo 
nghiệm loài và xuất xứ trong nhiều năm qua 
đến nay đã thấy được một số loài cây và 
những xuất xứ có triển vọng nhất của chúng 
thật sự có khả năng thích nghi cao, sinh 
trưởng tốt và có giá trị kinh tế hoặc phòng hộ 
cho phát triển kinh tế nghề rừng trong cả 
nước. Có thể chia các loài cây trồng tại Việt 
Nam làm 3 nhóm: (1) Nhóm các loài cho 
vùng thấp, có lượng mưa từ trung bình đến 
cao (2) Nhóm các loài cho vùng khô hạn và 
cát nội đồng, (3) Nhóm các loài cho vùng cao. 
Đối với nhóm các loài cây cho vùng thấp, nơi 
có lượng mưa từ trung bình đến cao, các loài 
keo, bạch đàn và thông có triển vọng cho vùng 
này bao gồm: Keo tai tượng (Acacia mangium), 
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis), Keo lá 
liềm (Acacia crassicarpa), Bạch đàn Eucalyptus 
brassiana, E. exserta, E. camaldulensis, 
E. cloeziana, E. pellita, E. tereticornis, 
E. urophylla, Thông caribê (như Pinus 
caribaea var. hondurensis), Thông đuôi ngựa 
(Pinus massoniana), Thông nhựa (Pinus merkusii), 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3244 
Tràm Meleuca leucadendra, M. cajuputi, M. 
viridiflora và các giống giữa chúng, trong đó 
các loài thích hợp trồng trên các lập địa có 
tầng đất sâu hoặc bờ kênh rạch và ven đường 
tại các tỉnh vùng thấp ở miền Bắc là Keo tai 
tượng, E. exserta, E. pellita, E. urophylla và 
E. camaldulensis và Thông caribê. Thông 
đuôi ngựa và Thông nhựa có khả năng sinh 
trưởng tốt trên đất đồi trọc tầng đất nông. Các 
loài thích hợp trồng ở các tỉnh vùng thấp từ 
miền Trung đến miền Nam là E. brassiana, E. 
camaldulensis, E. cloeziana, E. pellita, E. 
tereticornis, E. urophylla, Keo lá tràm, Keo lá 
liềm và Thông nhựa. Các loài tràm thích hợp 
trồng ở vùng ngập nước và vùng ngập phèn ở 
Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó loài M. 
leucadendra có sinh trưởng nhanh hơn cả. Từ 
các kết quả nghiên cứu, một số xuất xứ ưu 
việt của các loài cây đã được xác định và đã 
được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 
công nhận là các giống tiến bộ kỹ thuật như 
Keo lá tràm có các xuất xứ: Mibini (PNG), 
Coen River và Kings Plains (Qld) và Manton 
River (NT); Keo tai tượng có các xuất xứ: 
Pongaki (PNG), Iron Range, Ingham và 
Mossman (Qld); Keo lá liềm có các xuất xứ từ 
PNG là: Mata, Gubam, Dimisisi và Deri - 
Deri; Bạch đàn E. urophylla có các xuất xứ từ 
Indonesia: Lembata, Mt.Egon, Lewotobi, 
Sirinumu, Oro Bay và Laura river; Bạch đàn 
E. camaldulensis có các xuất xứ: Ketherine 
(NT), Kennedy river, Morehead river và 
Perford area (Qld); Thông caribê có các xuất 
xứ: Cardwell, Byfield, Poptun 3, Poptun 2, và 
Alamicamba. 
Ngoài ra, một số xuất xứ có triển vọng của 
các loài khác như: E. cloeziana, E. pellita, E. 
tereticornis, Meleuca leucadendra, M. 
cajuputi, và M. viridiflora cũng đã được 
khuyến cáo sử dụng, cụ thể là: E. cloeziana có 
các xuất xứ từ Qld: Herberton và Helenvale 
(Lê Đình Khả et al., 2003); E. pellita có các 
xuất xứ từ Qld: Kuranda và Helenvale (Lê 
Đình Khả et al., 2003); E. tereticornis có các 
xuất xứ từ Qld: Sirinumu Sogeri và Laura 
River (Phạm Văn Tuấn, 1997); E. grandis có 
các xuất xứ: Paluma (Qld) (Lê Đình Khả, 
1996); Tràm M. leucadendra có các xuất xứ: 
Weipa (Qld), Cambridge (WA), Rifle Creek 
(Qld), Laurence (Qld) và Keru (PNG) (Lê 
Đình Khả et al., 2003); M. cajuputi có các 
xuất xứ: Keru (PNG) và Bensbach (PNG) (Lê 
Đình Khả et al., 2003). M. viridiflora có các 
xuất xứ: Cambridge (WA) và Wangi (NT). 
Đối với nhóm các loài cây cho vùng khô hạn 
và cát nội đồng, trên vùng ven biển các tỉnh 
Bình Thuận và Ninh Thuận có khí hậu rất 
khô, lượng mưa trung bình hàng năm dưới 
1000mm, các loài keo vùng khô từ miền Bắc 
nước Úc đã được thử nghiệm thành công tại 
Tuy Phong, Bình Thuận từ những năm 1990 
(Harwood et al., 1998). Kết quả khảo nghiệm 
đã khẳng định các loài A. difficilis - xuất xứ: 
Annie Creek (NT); Lake Evella (NT), và 
Monline (NT), A. tumida - xuất xứ Knunura 
(WA) và A. torulosa - xuất xứ Elliot (NT) là 
các loài và xuất xứ có triển vọng nhất. Các 
loài này cũng đã được trồng thử nghiệm thành 
công để chống cát di động ở các tỉnh khác như 
Quảng Bình và Thừa Thiên Huế. Đối với 
vùng cát nội đồng, bán ngập, chẳng hạn như 
tại Phong Điền - Thừa Thiên Huế, Keo lá liềm 
là loài được khẳng định có khả năng thích ứng 
cao và sinh trưởng nhanh. Tuy nhiên, cũng 
phải lưu ý rằng sinh trưởng của chúng ở các 
vùng cát là rất chậm, thí dụ tại Tuy Phong sau 
6 năm loài A. difficilis có sinh trưởng nhanh 
nhất cũng chỉ đạt chiều cao là 7,5m và đường 
kính đạt 15cm (Lê Đình Khả et al., 2003), vì 
vậy mục tiêu phòng hộ nên đặt lên hàng đầu 
khi sử dụng các loài này ở các vùng khô hạn 
và cát nội đồng. 
Đối với vùng cao, đây là vùng có một diện 
tích rất lớn ở miền Bắc và miền Trung Việt 
Nam, độ cao trên 1000m và có nhiệt độ thấp 
hơn nhiệt độ tối ưu cho các loài vùng thấp. Vì 
vậy, tìm kiếm các loài cây vùng cao là một 
yêu cầu thực tiễn cấp bách và từ những năm 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3245 
1990 một số khảo nghiệm loài và xuất xứ đã 
được xây dựng. Trong số loài được khảo 
nghiệm thì các loài Bạch đàn E. grandis, E. 
microcorys, E. saligna, E. urophylla và E. 
pellita, Keo A. mearnsii (xuất xứ: Bodalla, 
Nowra, Nowa Nowa, và Berrima), Acacia 
irrorata (xuất xứ Mt. M ...  cây lâm 
nghiệp, việc ứng dụng một số công nghệ mới 
như chọn giống bằng các chỉ thị phân tử, biến 
nạp gene, tạo phôi nhân tạo, kích thích ra hoa 
sớm và mini - cutting,... thực sự còn rất nhiều 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3250 
hạn chế do thiếu cán bộ đầu đàn. Viện rất cần 
sự hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ 
Khoa học Công nghệ và các Viện nghiên cứu 
công nghệ sinh học trên toàn quốc trong việc 
đào tạo cán bộ và hợp tác nghiên cứu trong 
tương lai. 
Để công tác cải thiện giống thành công và 
chuyển giao nhanh giống mới phục vụ sản 
xuất, Viện kiến nghị Bộ Nông nghiệp & 
PTNT bố trí các đề tài/dự án xây dựng các 
khảo nghiệm mở rộng sử dụng giống một 
cách đồng bộ, có hệ thống trên các vùng và 
các lập địa đại diện để xác định tập đoàn 
giống trồng rừng thích hợp cho từng vùng; 
Chỉ đạo và đầu tư xây dựng các vườn giống 
theo đúng tiêu chuẩn quốc gia cho một số 
loài cây trồng rừng quan trọng tại các tỉnh; 
Bộ cần có chính sách hỗ trợ về mặt kinh phí 
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh cây giống 
lâm nghiệp (đặc biệt là các cơ sở nuôi cấy 
mô) để trẻ hóa và nâng cao chất lượng sinh 
lý của các giống đã được công nhận và đang 
sử dụng rộng rãi trong trồng rừng bằng các 
dòng vô tính; Rà soát, bổ sung và chỉnh sửa 
các văn bản quản lý Giống cây trồng lâm 
nghiệp như Tiêu chuẩn công nhận Giống; 
Qui chế quản lý Giống; Danh mục các giống 
mới được công nhận. 
Một số tồn tại chủ yếu của công tác giống 
trong những năm vừa qua là: 
- Số lượng giống được công nhận nhiều (166 
giống cây lâm nghiệp) nhưng số lượng giống 
được áp dụng vào sản xuất còn rất thấp (chỉ 
chiếm tỷ lệ khoảng 20%); sự phân bổ các 
giống mới không đồng đều ở các vùng, thiếu 
các giống cho vùng cao đặc biệt là Tây Bắc; 
nhiều giống chỉ tồn tại trên giấy tờ, không đi 
vào thực tiễn sản xuất; 
- Hệ thống nguồn giống còn thiếu nhiều về 
chủng loại, mới tập trung nhiều cho các loài 
cây mọc nhanh mà chưa chú ý nhiều đến cải 
thiện giống cho cây lá rộng bản địa, gỗ lớn, 
cây lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt là những loài 
cây trồng trên các dạng lập địa khó khăn ở 
vùng cao. 
- Công tác thông tin tuyên truyền, chuyển giao 
tiến bộ kỹ thuật đến người sử dụng giống còn 
yếu ở tất cả các khâu; chưa có sự gắn kết giữa 
nghiên cứu - khuyến lâm - người sản xuất. 
Đây là một trong những nguyên nhân chính 
dẫn đến tình trạng số giống được công nhận 
nhiều nhưng giống được dùng trong sản xuất 
rất ít. 
- Công tác nghiên cứu giống đã được cải thiện 
một bước, tuy nhiên trang thiết bị, cơ sở vật 
chất phục vụ công tác giống còn thiếu và lạc 
hậu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá công tác giống; thiếu đất cho bố 
trí khảo nghiệm giống, hiện trường nghiên 
cứu không được duy trì lâu dài, chưa quan 
tâm nhiều đến khâu khảo nghiệm rộng ở các 
vùng để đưa giống vào thực tiễn sản xuất. 
+ Ở các địa phương không có đầu mối chuyên 
trách quản lý về giống, lực lượng cán bộ và cơ 
sở vật chất còn yếu, đặc biệt đối với những 
giống cần nhân giống bằng phương pháp nuôi 
cấy mô. 
IV. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN 
CỨU GIỐNG CÂY LÂM NGHIỆP CHỦ 
YẾU TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 
Ngày 09/5/2014, Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn đã ban hành Quyết định số 
986/QĐ-BNN-KHCN về Kế hoạch thúc đẩy 
nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ 
phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo 
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển 
bền vững, theo đó một trong những nhiệm vụ 
trọng tâm của ngành lâm nghiệp là phải triển 
khai các nhiệm vụ KHCN nhằm chọn, tạo và 
phát triển sản xuất các giống cây lâm nghiệp 
sinh trưởng nhanh (keo, bạch đàn), cây bản 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3251 
địa gỗ lớn, cây lâm sản ngoài gỗ có lợi thế 
cạnh tranh cao. 
Các hoạt động nghiên cứu, phát triển và sản 
xuất giống cây lâm nghiệp trong thời gian tới 
sẽ phải được thực hiện theo hướng gắn kết 
chặt chẽ giữa nghiên cứu chọn giống truyền 
thống với ứng dụng công nghệ sinh học, khoa 
học gỗ, lâm sinh và sâu bệnh rừng; nghiên 
cứu ứng dụng với khuyến lâm. Các lĩnh vực 
ưu tiên tạo bước đột phá trong công tác giống 
cây lâm nghiệp là chọn lọc, lai tạo giống có 
định hướng, tạo đa bội và con lai tam bội bất 
thụ cho các loài cây trồng rừng chủ lực có 
diện tích trồng rừng lớn, tập trung vào chọn 
tạo giống phù hợp cho từng vùng trọng điểm, 
theo từng mục tiêu sử dụng và sức chống chịu 
cho từng loài nghiên cứu. Áp dụng một số 
công nghệ mới như chọn giống bằng các chỉ 
thị phân tử, biến nạp gene, tạo phôi nhân tạo, 
kích thích ra hoa sớm và mini - cutting,... vào 
các chương trình cải thiện giống truyền thống 
nhằm nâng cao hiệu quả và rút ngắn chu kì 
chọn tạo giống. 
Công tác nghiên cứu sẽ được tiến hành đồng 
bộ từ chọn tạo giống, nhân giống và biện pháp 
lâm sinh phù hợp trong kinh doanh rừng bền 
vững cho các loài cây trồng rừng chủ lực cung 
cấp gỗ lớn, gỗ giấy hoặc tăng sức chống chịu 
sâu bệnh và hạn hán. Bên cạnh đó, việc khảo 
nghiệm mở rộng và xây dựng các mô hình 
trình diễn có hệ thống cho các giống mới 
được công nhận cũng sẽ được tăng cường 
thông qua thực hiện các dự án sản xuất thử 
nghiệm và dự án khuyến lâm. Các hoạt động 
nghiên cứu về nhân giống, đặc biệt là kỹ thuật 
nhân giống hàng loạt bằng công nghệ mô, 
hom, phục tráng và trẻ hóa chất lượng sinh lý 
của giống, vi ghép để dẫn dòng và xây dựng 
vườn giống.... cũng sẽ được quan tâm đưa 
nhanh các giống được công nhận tới người 
trồng rừng. Ngoài ra, cần tiếp tục chọn giống, 
nhân giống cho một số loài cây bản địa có 
tiềm năng gây trồng và cây lâm sản ngoài gỗ 
có giá trị cao. 
V. TĂNG CƯỜNG VÀ ĐỔI MỚI CÔNG 
TÁC CHUYỂN GIAO GIỐNG MỚI VÀO 
SẢN XUẤT 
Đây là một vấn đề trọng tâm được ưu tiên 
thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Các dự án 
giống phải tập trung sản xuất và cung ứng 
giống gốc, giống có chất lượng cao cho sản 
xuất. Viện đang đẩy mạnh xây dựng các vườn 
giống, rừng giống chất lượng cao, thiết lập 
ngân hàng hạt giống và cơ sở dữ liệu về 
nguồn gốc, chất lượng di truyền và khả năng 
thích nghi của các nguồn hạt và các dòng vô 
tính đang sử dụng nhằm cung cấp vật liệu 
giống tốt cho sản xuất và cho mục đích nghiên 
cứu, bảo tồn và trao đổi giống quốc tế. 
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã phát 
triển một hệ thống thông tin quảng bá các 
giống tiến bộ kỹ thuật và giống quốc gia đã 
được công nhận trên các ấn phẩm, đăng tải 
thông tin trên các trang website của Viện và 
các đơn vị trực thuộc; Tích cực tham gia các 
Hội chợ giống và Hội thảo trên toàn quốc 
cũng như quốc tế nhằm quảng bá các giống 
mới và tiến bộ kỹ thuật lâm sinh tới người 
trồng rừng. Viện đã và đang chỉ đạo các Viện 
và Trung tâm trực thuộc xây dựng các khu 
khảo nghiệm lâu dài tại các vùng. Trong thời 
gian tới, Viện sẽ phối hợp chặt chẽ hơn với 
Trung tâm Khuyến nông quốc gia, Trung tâm 
khuyến nông các tỉnh và các công ty lâm 
nghiệp địa phương để xây dựng các mô hình 
trình diễn giống mới và các tiến bộ kỹ thuật 
mới để người trồng rừng có thể thăm quan và 
học tập. Ngoài ra, việc chuyển giao giống gốc, 
chuyển giao công nghệ mô - hom, công nghệ 
xây dựng các vườn giống và rừng giống, công 
nghệ sinh học khác cho các đơn vị sản xuất 
giống ở các tỉnh sẽ được đẩy mạnh. 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3252 
Mô hình rừng trồng gỗ lớn Keo lá tràm tại Bình Dương bằng giống AA1 và biện pháp lâm sinh 
tiên tiến (năng suất 38 m3/ha/năm tại tuổi 4 ở luân kỳ 3) 
VI. KẾT LUẬN 
Cải thiện giống cây rừng ở nước ta đã đạt 
được một số thành tựu đáng kể trong những 
năm vừa qua. Đó là đã chọn được một số loài 
cây và xuất xứ có triển vọng nhất cho một số 
vùng sinh thái chính; Chiến lược cải thiện 
giống dài hạn cho nhóm các loài cây trồng 
rừng chủ lực đã được hoạch định rõ ràng 
nhằm tăng năng suất rừng trồng và chất lượng 
sản phẩm cuối cùng; Các rừng giống, vườn 
giống, vườn tập hợp giống công tác, vườn cây 
bố mẹ cố định và di động đã được xây dựng 
trên khắp cả nước để phục vụ lai tạo giống 
mới và cung cấp hạt giống chất lượng cao cho 
sản xuất. Việc ứng dụng công nghệ sinh học 
trong nghiên cứu cải thiện giống đã thúc đẩy 
kiểm định con lai, xác định tỷ lệ thụ phấn 
chéo, đánh giá cấu trúc di truyền quần thể 
chọn giống và sử dụng chỉ thị phân tử trong 
chọn giống; Nhân giống hom và nuôi cấy mô 
phân sinh đã được nghiên cứu thành công cho 
nhiều giống được công nhận và đã chuyển 
giao công nghệ và giống gốc cho sản xuất. 
Những giống mới thật sự có ý nghĩa với sản 
xuất là các giống keo, bạch đàn và các giống 
lai cho trồng rừng sản xuất ở những vùng thấp 
và vùng cao, các giống keo chịu hạn cho vùng 
cát khô hạn ven biển, các giống tràm cho vùng 
ngập phèn ở miền Nam, và các cây trội có 
lượng nhựa cao của Thông nhựa. 
Tuy nhiên công tác giống vẫn chưa đáp ứng 
yêu cầu to lớn của sản xuất. Nhiều giống đã 
được công nhận vẫn chưa thể chuyển giao vào 
sản xuất, hệ thống nguồn giống và cán bộ 
quản lý giống tại các địa phương còn thiếu và 
yếu. Để phục vụ đề án tái cơ cấu ngành lâm 
nghiệp, công tác chọn tạo giống cây lâm 
nghiệp trong thời gian tới sẽ phải được thực 
hiện theo hướng gắn kết chặt chẽ giữa nghiên 
cứu chọn giống truyền thống với ứng dụng 
công nghệ sinh học, khoa học gỗ, lâm sinh và 
sâu bệnh rừng. Các lĩnh vực ưu tiên tạo bước 
đột phá trong công tác giống cây lâm nghiệp 
là chọn lọc, lai tạo giống có định hướng, tạo 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3253 
đa bội và con lai tam bội bất thụ cho các loài 
cây trồng rừng chủ lực có diện tích trồng rừng 
lớn, tập trung vào chọn tạo giống phù hợp cho 
từng vùng trọng điểm, theo từng mục tiêu sử 
dụng và sức chống chịu cho từng loài nghiên 
cứu. Nghiên cứu ứng dụng phải kết hợp với 
khuyến lâm. Áp dụng một số công nghệ mới 
như chọn giống bằng các chỉ thị phân tử, biến 
nạp gene, tạo phôi nhân tạo, kích thích ra hoa 
sớm và mini - cutting,... vào các chương trình 
cải thiện giống truyền thống nhằm nâng cao 
hiệu quả và rút ngắn chu kì chọn tạo giống. 
Xây dựng các vườn giống, rừng giống chất 
lượng cao, thiết lập ngân hàng hạt giống và cơ 
sở dữ liệu về nguồn gốc, chất lượng di truyền 
và khả năng thích nghi của các nguồn hạt và 
các dòng vô tính đang sử dụng sẽ được đẩy 
mạnh nhằm cung cấp vật liệu giống tốt cho 
sản xuất và cho mục đích nghiên cứu, bảo tồn 
và trao đổi giống quốc tế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Butcher, P., Harwood, C., Tran Ho Quang, 2004. Studies of mating systems in seed stands suggest possible 
causes of variable outcrossing rates in natural populations of Acacia mangium. Forest Genetics 11, 303 - 309. 
2. Duyen, N. T. M., 2004. Genetic variation and aspects of the mating system of Pinus merkusii Jung. et de Vriese 
clonal seed orchard in Vietnam. Master thesis at the Georg - August University Gottingen, Germany. 
3. Hà Huy Thịnh, 2006. Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu chọn, tạo giống có năng suất và chất lượng cao cho 
một số loài cây trồng rừng chủ yếu” giai đoạn 2001 - 2005. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, 161 trang. 
4. Hải, P.H., Hannrup, B., Harwood, C., Jansson, G. & Ban, D. V., 2010. Wood stiffness and strength as selection 
traits for sawn timber in Acacia auriculiformis A. Cunn. ex Benth. Canadian Journal of Forest Research 40 (2): 
322 - 329. 
5. Hải, P.H., Jansson, G., Hannrup, B., Harwood, C. & Thinh, H.H., 2009. Use of wood shrinkage characteristics 
in breeding of fast - grown Acacia auriculiformis A. Cunn. ex Benth in Vietnam. Annals of Forest Science 66 
(6): 611p1 - 611p9. 
6. Hải, P.H., Jansson, G., Harwood, C., Hannrup, B. & Thinh, H.H., 2008a. Genetic variation in growth, stem 
straightness and branch thickness in clonal trials of Acacia auriculiformis at three contrasting sites in Vietnam. 
Forest Ecology and Management 255(1), 156 - 167. 
7. Hải, P.H., Jansson, G., Harwood, C., Hannrup, B., Thinh, H.H. & Pinyopusarerk, K., 2008b. Genetic variation 
in wood basic density and knot index and their relationship with growth traits for Acacia auriculiformis A. 
Cunn ex Benth in Northern Vietnam. New Zealand Journal of Forestry Science 38(1), 176 - 192. 
8. Harwood, C. E., Thinh, H. H., Quang, T. H., Butcher, P. A., Williams, E. R., 2004. The effect of inbreeding on 
early growth of Acacia mangium in Vietnam. Silvae Genetica 53, 65 - 69. 
9. Lê Đình Khả, 2003. Chọn tạo giống và nhân giống cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu ở Việt Nam. Nhà 
xuất bản Nông nghiệp, 292 trang. 
10. Nguyễn Đình Hải, 2009. Báo cáo công nhận giống Macadamia. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, 21 trang. 
11. Nguyen Duc Kien, Gunnar Jansson, Chris Hardwood andha Huy Thinh, 2009. Genetic control of growth and 
form traits in Eucalyptus urophylla in Northern Vietnam. Journal of Tropical Forest Science 21(1): 50 - 65. 
12. Nguyen Duc Kien, Tran Ho Quang, Gunnar Jansson, Chris Hardwood, David Clapham and Sara von Arnold, 
2009. Cellulose content as a selection trait in breeding for kraft pulp yiel in Eucalyptus urophylla. Annals of 
Forest Science 66: 711. 
13. Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003. Phát triển các loài Keo Acacia ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 121 trang. 
14. Nguyen Hoang Nghia, Le Dinh Kha, 1998. Selection of Acacia species and provenances for planting in 
Vietnam. Recent Development in Acacia planting, ACIAR Proceeding No.82, The International Acacia 
Workshop in Hanoi, Vietnam October, 1997. Canberra, p130 - 135. 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3254 
15. Phạm Văn Tuấn, 1997. Khảo nghiệm loài và xuất xứ bạch đàn ở Việt Nam. Báo cáo khoa học về cải thiện 
giống cây rừng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, trang 67 - 83. 
16. Pinyopusarerk, K., 1990. Acacia auriculiformis: an annotated bibliography. Bangkok, Thailand: Winrock 
International - F/FRED and ACIAR, 154 p. 
17. Sơn, L., Henson, M., Shepherd, M., 2010. Sự khác biệt về di truyền giữa 3 loài bạch đàn Eucalyptus pellita, E. 
resinifera và E. scias. Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp. 
18. Szmidt, A. E., Changtragoon, S., 1996. Contrasting patterns of genetic diversity in two tropical pines: Pinus 
kesiya (Royle ex Gordon) and P. merkusii (Jungh et De Vriese). Theoretical and Applied Genetics 92, 436 - 
441. 
19. Trần Hồ Quang, Nguyễn Văn Lâm, Trần Bá Lực, Ngô Thị Minh Duyên, Mai Phương Thúy, 2009. Đánh giá 
cấu trúc quần di truyền vườn giống Bạch đàn urô (Eucalyptus urophylla) làm cơ sở chọn giống Tạp chí Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn 140, 82 - 85. 
20. Turnbull, J.W., Midgley, S.J., Cossalter, C., 1997. Tropical acacias planted in Asia: an overview. In: Turnbull, 
J.W., Crompton, H.R., Pinyopuserak, K. (Eds.), Recent developments in acacia planting. ACIAR Publishing, 
pp. 14 - 18. 
21. Vượng, T. Đ., 2010. Ứng dụng chỉ thị microsatellites trong nghiên cứu hệ thống giao phấn của vườn giống Keo 
tai tượng (Acacia mangium) và Keo tai tượng tứ bội. Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp. 
22. Vuong, T. D., McDonald, M., 2002. Outcrossing rates in Acacia auriculiformis A. Cunn. ex Benth. in a 
seedling seed orchard at Ba Vi, Vietnam. Report for the "Domestication of Australian Trees" project. 

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_cong_tac_nghien_cuu_va_chuyen_giao_giong_cay_lam_ngh.pdf