Đô thị hóa và hệ thống kênh rạch: những vấn đề đặt ra trong phát triển bền vững

Hệ thống kênh rạch ở Sài Gòn - TPHCM đã thay đổi rất nhiều qua thời gian theo

mục đích sử dụng của con người cũng như các chính sách ở từng giai đoạn lịch

sử. Một số dòng kênh đã biến mất, bị ô nhiễm hoặc hạn chế chức năng vốn có

của chúng. Bài viết này tập trung tìm hiểu quá trình chuyển biến của hai dòng

kênh Tàu Hủ-Bến Nghé và Nhiêu Lộc-Thị Nghè qua các thời kỳ dưới sự tác

động của quá trình đô thị hóa thông qua tư liệu, quan sát, phân tích hình ảnh và

bản đồ. Hai chức năng chính của hai dòng kênh hiện nay là thoát nước và tạo

cảnh quan đô thị, trong đó kênh Tàu Hủ-Bến Nghé đặc biệt nổi bật với chức

năng giao thông vận tải, là tiềm năng cho hoạt động du lịch trên sông với việc

khai thác các giá trị lịch sử và văn hóa. Bên cạnh đó, bài viết cũng thảo luận về

sự tác động của quá trình đô thị hóa lên hệ thống đường thủy nội địa thông qua

việc phân tích ba yếu tố cơ bản của phát triển bền vững bao gồm kinh tế, môi

trường và văn hóa xã hội.

pdf 13 trang phuongnguyen 2320
Bạn đang xem tài liệu "Đô thị hóa và hệ thống kênh rạch: những vấn đề đặt ra trong phát triển bền vững", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đô thị hóa và hệ thống kênh rạch: những vấn đề đặt ra trong phát triển bền vững

Đô thị hóa và hệ thống kênh rạch: những vấn đề đặt ra trong phát triển bền vững
81 
CHUYÊN MỤC 
MÔI TRƯỜNG VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 
ĐÔ THỊ HÓA VÀ HỆ THỐNG KÊNH RẠCH: NHỮNG 
VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 
(Trường hợp kênh Tàu Hủ-Bến Nghé và 
Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh) 
VÕ DAO CHI 
TRẦN QUANG ĐẠO 
Hệ thống kênh rạch ở Sài Gòn - TPHCM đã thay đổi rất nhiều qua thời gian theo 
mục đích sử dụng của con người cũng như các chính sách ở từng giai đoạn lịch 
sử. Một số dòng kênh đã biến mất, bị ô nhiễm hoặc hạn chế chức năng vốn có 
của chúng. Bài viết này tập trung tìm hiểu quá trình chuyển biến của hai dòng 
kênh Tàu Hủ-Bến Nghé và Nhiêu Lộc-Thị Nghè qua các thời kỳ dưới sự tác 
động của quá trình đô thị hóa thông qua tư liệu, quan sát, phân tích hình ảnh và 
bản đồ. Hai chức năng chính của hai dòng kênh hiện nay là thoát nước và tạo 
cảnh quan đô thị, trong đó kênh Tàu Hủ-Bến Nghé đặc biệt nổi bật với chức 
năng giao thông vận tải, là tiềm năng cho hoạt động du lịch trên sông với việc 
khai thác các giá trị lịch sử và văn hóa. Bên cạnh đó, bài viết cũng thảo luận về 
sự tác động của quá trình đô thị hóa lên hệ thống đường thủy nội địa thông qua 
việc phân tích ba yếu tố cơ bản của phát triển bền vững bao gồm kinh tế, môi 
trường và văn hóa xã hội. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hệ thống sông, kênh rạch có vai trò 
rất quan trọng đối với sự hình thành 
và phát triển của đô thị. Chúng là hệ 
thống đường thủy nội địa thúc đẩy “sự 
phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an 
ninh, quốc phòng và góp phần giao 
thương với một số quốc gia lân cận” 
(Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, 
2014). Bên cạnh công năng vận tải, 
hệ thống sông, kênh rạch còn phục vụ 
cho những mục đích phát triển khác 
Võ Dao Chi. Thạc sĩ. Trung tâm Nghiên 
cứu Môi trường, Viện Khoa học xã hội 
vùng Nam Bộ. 
Trần Quang Đạo. Kỹ sư. Trường Đại học 
Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
 VÕ DAO CHI - TRẦN QUANG ĐẠO – ĐÔ THỊ HÓA VÀ HỆ THỐNGp 
82
nhau của đô thị. Trong đó, các chức 
năng phòng chống lũ lụt, cải tạo đất, 
thoát nước, tưới tiêu, tạo cảnh quan, 
được đánh giá là rất quan trọng để phát 
triển không gian của đô thị (International 
Navigation Association, Environmental 
Commission, and Working Group 6, 
2003). 
TPHCM có hệ thống kênh rạch khá 
chằng chịt cả ở trong và ngoại vi 
thành phố, bao gồm năm tuyến kênh: 
Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Tân Hóa-Lò 
Gốm, Tàu Hủ-Bến Nghé, kênh Đôi-
kênh Tẻ, Tham Lương-Bến Cát (Vũ 
Nhật Tân, 2013). Trong đó, Tàu Hủ-
Bến Nghé (TH-BN) được đánh giá là 
kênh quan trọng nhất, gắn liền với lịch 
sử hình thành và phát triển của thành 
phố. Con kênh này dài 22km, chảy 
qua các quận 1, 5, 6, 4, 8. Theo 
Vương Hồng Sển (2013), kênh TH-BN 
(dưới thời vua Gia Long có tên là An 
Thông Hạ và dưới thời Pháp có tên là 
Arroyo Chinois(1)) cùng với Rạch Chợ 
Lớn là hai đường thủy quan trọng 
nhất thời bấy giờ, giúp tối ưu việc 
chuyên chở thổ sản và mễ cốc với 
miền Tây, đồng thời thúc đẩy sự phát 
triển nhà máy xay Chợ Lớn, tăng 
cường hoạt động giao thương và xuất 
khẩu hàng hóa trong khoảng thời gian 
từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX 
(trích dẫn từ Vu Thi Hong Hanh, 2006). 
Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè (NL-TN) 
từ thế kỷ XIX về trước có tên Bà Nghè, 
sau là Thị Nghè. Dưới chế độ Việt 
Nam Cộng hòa, người Sài Gòn gọi 
kênh này là kênh Trương Minh Giảng. 
Kênh NL-TN dài 9km, khởi điểm từ 
quận Bình Thạnh đoạn giao với sông 
Sài Gòn, có lưu vực nằm trong các 
quận 1, 3, 10, Phú Nhuận, Bình Thạnh, 
Tân Bình và Gò Vấp (riêng đoạn Gò 
Vấp hiện đã bị lấp) (Vũ Nhật Tân, 
2013). Kênh NL-TN không chỉ có vai 
trò thoát nước ra sông Sài Gòn mà 
còn mang sứ mạng lịch sử là một 
phòng tuyến quân sự dưới thời nhà 
Nguyễn và ranh giới của Sài Gòn. 
Do sự yếu kém trong quy hoạch và 
quản lý đô thị, đặc biệt là trong thời kỳ 
chiến tranh (1954 - 1975) và khoảng 
20 năm sau giải phóng, hai dòng kênh 
từng bị đẩy vào tình trạng ô nhiễm 
nghiêm trọng, được mệnh danh là 
“kênh nước đen” hay là “dòng kênh 
chết”. Những năm gần đây, dưới sự 
quan tâm của chính quyền thành phố 
cũng như của các tổ chức thế giới hai 
dòng kênh đang được hồi sinh, mở ra 
triển vọng cải tạo toàn bộ hệ thống 
kênh rạch ở Thành phố. 
TPHCM có tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ 
cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, đặc 
biệt nếu xét về quy mô dân số, thành 
phố đã vươn lên là thành phố đô thị 
lớn nhất Việt Nam. Cùng với những 
thành tựu mang lại nhờ quá trình đô 
thị hóa vượt bậc, những tác động của 
quá trình này lên hệ thống kênh rạch 
là không thể tránh khỏi và cần được 
chú trọng trong kỷ nguyên hướng tới 
phát triển bền vững. Với mục tiêu tìm 
hiểu về mối quan hệ giữa đô thị hóa 
và hệ thống kênh rạch nội địa, bài viết 
tập trung vào hai nội dung chính: (1) 
chức năng và vai trò của hệ thống 
kênh rạch qua các thời kỳ phát triển 
thông qua so sánh, phân tích hình ảnh 
và bản đồ; (2) thảo luận những cơ hội 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
83 
và thách thức đối với hệ thống đường 
thủy nội địa của thành phố dưới các 
áp lực do đô thị hóa gây ra. 
2. SỰ THAY ĐỔI HỆ THỐNG KÊNH 
RẠCH QUA CÁC THỜI KỲ PHÁT TRIỂN 
CỦA TPHCM (GIAI ĐOẠN TRƯỚC 
NĂM 1986) 
Có thể nói rằng yếu tố nước đóng một 
vai trò quan trọng trong quá trình phát 
triển kinh tế - xã hội. Hệ thống kênh 
rạch của TPHCM vừa mang chức 
năng hỗ trợ sinh học cho hệ sinh thái 
đô thị, như: cung cấp các dịch vụ sinh 
thái – ecological service (tạo môi trường 
sống cho hệ động thực vật thủy sinh, 
cung cấp nguồn nước sạch, không khí 
trong lành, cảnh quan đẹp); cung cấp 
tài nguyên (như tôm, cá, và động thực 
vật thủy sinh phục vụ cho hoạt động 
đánh bắt và nuôi trồng thủy sản); và 
giảm các tác động vật lý do cấu trúc 
đô thị gây ra (như điều tiết dòng chảy, 
tự làm sạch dòng ô nhiễm, giảm tác 
động của nhiệt đô thị do hiện tượng 
bê tông hóa). Bên cạnh đó, hệ thống 
kênh rạch đồng thời còn là yếu tố 
tạo nên tính hấp dẫn của đô thị, 
một dấu ấn mang tính vật lý 
(physical marker), góp phần xây 
dựng hình ảnh thành phố (city 
image). 
Sự gắn kết giữa phát triển đô thị 
và hệ thống kênh rạch được thể 
hiện khá rõ trong lịch sử phát triển 
của TPHCM, bắt đầu từ khi chỉ là 
một đơn vị hành chính theo 
hướng “thành thị hóa” vào những 
năm 1.600 đến một đô thị qui mô 
lớn như ngày nay. Với sự tác 
động của đô thị hóa qua các thời 
kỳ, hệ thống kênh rạch đã có sự 
chuyển đổi về chức năng và mục đích 
sử dụng, phản ánh mục tiêu phát triển 
và những tác động của lịch sử ở mỗi 
giai đoạn khác nhau. 
Vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ 
XIX, nếu như thành phố Bangkok 
(Kingdom of Siam) nổi tiếng với tên 
gọi “Venice của phương Đông”- thành 
phố được bao bọc bởi nước (water-
borne city) - thì Sài Gòn lại được 
mệnh danh “Hòn ngọc Viễn Đông” - 
hình ảnh một đô thị gắn liền với bờ 
phải sông Sài Gòn và phát triển dọc 
theo rạch Bến Nghé - kênh Tàu Hủ. 
Trong giai đoạn này, hạt giống đô thị 
được hình thành từ một đơn vị hành 
chính - huyện Tân Bình, ban đầu được 
lập với mục đích quân sự, nhưng sau 
đó lại phát triển nhanh chóng theo 
hướng thành thị hóa, và chuyển dần 
thành một khu vực trọng yếu cho hoạt 
động ngoại thương của cả khu vực 
phía Nam. Rạch Bến Nghé được mô 
tả như một hệ thống rạch tự nhiên - 
Hình 1. Bản đồ Gia Định-Sài Gòn-Bến Nghé 
năm 1815 
Nguồn: Tham khảo Trần Hữu Quang, 2012. 
 VÕ DAO CHI - TRẦN QUANG ĐẠO – ĐÔ THỊ HÓA VÀ HỆ THỐNGp 
84
chiều sâu hơn 20 mét và chiều rộng 
hơn 300 mét, là lợi thế cho các hoạt 
động dựa vào sông nước (Hình 1). Sự 
thống trị của giao thông đường thủy 
thời kỳ này đã thúc đẩy khu vực dọc 
Rạch Bến Nghé trở thành phố thị “trên 
bến dưới thuyền”, được mô tả như 
“chỗ đô hội thương thuyền của các 
nước” (Trịnh Hoài Đức, 2005; tham 
khảo Trần Hữu Quang, 2012, tr. 12). 
Theo Pham Thi Thanh Thao và Pham 
Quang Dieu (2011), cấu trúc và hoạt 
động của đô thị gắn liền với 3 đối 
tượng Cảng, Thuyền và Chợ phát 
triển dọc theo tuyến kênh, sông, rạch, 
tạo nên một đô thị có cấu trúc dựa vào 
nước (water-base structured city). Cùng 
với hoạt động giao thương phát triển, 
những cụm dân cư thưa thớt cũng 
hình thành dọc theo tuyến đường thủy 
này. Theo Trần Hữu Quang (2012), 
nhà ở của cư dân thời kỳ này còn khá 
đơn sơ với “vách gỗ, mái tranh, hoặc 
lợp lá dừa nước”, hoặc nhà bán kiên 
cố có “mái ngói đỏ”. Hình thái nhà ở 
ven sông kết hợp với hoạt động giao 
thương đã xuất hiện trong giai đoạn 
này: “sát sau mỗi căn nhà ở bên mép 
nước đều có một cửa hàng xây trên 
nhà sàn lấn ra con rạch” (Trần Hữu 
Quang, 2012, tr. 13). Hướng về phía 
Bắc, đô thị mới này bị giới hạn bởi 
rạch Thị Nghè, hay còn gọi là sông 
Bình Trị, tạo ra địa thế bảo vệ tự nhiên 
vững chắc bao bọc thành Quy, thành 
Phụng bên dưới. Nhìn chung trong 
giai đoạn này, hai hệ thống kênh rạch 
nội địa - TH-BN và NL-TN – không 
những cung cấp các dịch vụ sinh thái, 
tạo cảnh quan đẹp, mà còn được sử 
dụng như một vị trí quan trọng cho 
quân sự và giao thương. Hơn thế nữa, 
cảnh quan thiên nhiên và hoạt động 
sinh sống kết hợp với giao thương 
trên sông đã góp phần tạo nên một 
bản sắc riêng cho đô thị như Jean 
Bouchot đã mô tả Sài Gòn trong buổi 
sơ khai là “một thành phố nhỏ nổi trên 
sông” với các dãy tàu thuyền chen 
chúc nhiều màu sắc, hình dáng khác 
nhau hoặc theo J.Sory là một thủ phủ 
“huy hoàng rực rỡ [p] từng giao 
thương với những người Bồ Đào Nha, 
người Ả Rập, người Mã Lai” (dẫn theo 
Trần Hữu Quang, 2012, tr. 16). 
Vào năm 1859, người Pháp xâm lược 
và chiếm thành Gia Định, biến Sài 
Gòn thành đô thị thuộc địa. Tuy nhiên, 
sau ba năm, Sài Gòn mới được quy 
hoạch để trở thành một thành phố 
trong tương lai – quy hoạch của 
Coffyn(2) - với việc mở rộng khu vực 
đô thị lên tới 25 km2 có sức chứa 
500.000-600.000 cư dân sinh sống. 
Bản quy hoạch này vẫn dựa trên lợi 
thế về địa lý tự nhiên trước đó với 
vành đai bao bọc bởi ba hệ thống 
đường thủy: arroyo Chinonis (rạch 
Bến Nghé), arroyo de l'Avalanche 
(rạch Thị Nghè) và sông Sài Gòn. Mặc 
dù bản quy hoạch này bị bác bỏ, 
nhưng sự phát triển đô thị trong 
những năm sau này gần như đi theo 
hướng mà Coffyn đề xuất trước đó. 
Nhận thức được tầm quan trọng của 
địa thế sông rạch tự nhiên ở Sài Gòn, 
cả về mặt quân sự và tiêu thoát nước 
đô thị, trong những năm đầu cầm 
quyền, chính quyền Pháp bắt đầu đào 
một số con kênh nhân tạo, điển hình 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
85 
là kênh Canal de Ceinture (được gọi 
là kênh Vọng Thanh) phục vụ mục 
đích quân sự. Con kênh này nối kênh 
Tàu Hủ với rạch Thị Nghè thông qua 
rạch Chợ Lớn, bao phủ 20km2 khu 
vực đô thị. 
Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1865, 
thành phố Sài Gòn chuyển dần từ một 
đô thị gắn liền với hệ thống đường 
thủy sang đô thị phát triển dựa vào hệ 
thống đường bộ. Trong khoảng 20 
năm đầu, sự chuyển biến này chưa rõ 
rệt, bởi các loại xe thô sơ sử dụng lúc 
bấy giờ như xe bò, xe ngựa, xe kéo 
gây ra tiếng động lớn và sức chứa 
không cao, ít được sử dụng. Đến năm 
1894, sự xuất hiện của các loại xe cơ 
giới (xe đạp, xe máy, xe lửa-tàu hỏa, 
xe điện, xe đò,p) đã tạo động lực 
đáng kể cho sự chuyển đổi này. Nhằm 
đáp ứng nhu cầu phát triển hệ thống 
giao thông đường bộ, các con kênh 
bắt đầu bị lấp và thay thế bằng các 
con đường(3). Trong giai đoạn này, 
dưới áp lực của đô thị hóa cùng với 
làn sóng nhập cư ồ ạt từ các tỉnh lân 
cận, chức năng tiêu thoát nước và 
cân bằng sinh thái của hệ thống kênh 
rạch bắt đầu bị xâm phạm. Sự xuất 
hiện và phát triển các khu nhà ở tạm 
bợ, phi chính thức, đặc biệt ở những 
khu vực còn hoang sơ, được xem là 
nguyên nhân chính gây nên tình trạng 
trên. Kênh NL-TN trở thành một ví dụ 
điển hình nổi bật với sự xuất hiện 
những nhà trên sông (canal house) 
hay còn gọi là “nhà ổ chuột”. Hầu hết 
dân nhập cư đều là người nghèo từ 
các tỉnh phía Bắc đến, vì vậy họ 
thường cư trú dọc theo các con kênh 
hoặc rạch nhỏ, bởi đây là vùng trũng, 
thấp, ít người ở và thường xuyên bị 
ngập khi thủy triều lên (Trần Hữu 
Quang, 2012). Cuối giai đoạn Pháp 
thuộc, chính quyền Pháp đã phải đối 
mặt với các vấn đề vệ sinh và tiêu 
thoát nước đô thị bởi sự quá tải của 
hệ thống cơ sở hạ tầng. Vấn đề này 
không những phát sinh ở những khu 
nhà ổ chuột mà ngay tại khu vực trung 
tâm thành phố - nơi đã được quy 
hoạch. Hệ thống kênh rạch trong giai 
đoạn này không đáp ứng được chức 
năng cung cấp và tiêu thoát nước do 
nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề từ 
các hoạt động giao thương, sản xuất 
(chợ, trung tâm thương mại, tàu 
thuyền, khu chăn nuôi và giết mổ). Áp 
lực phát triển đô thị và kinh tế dẫn đến 
không gian dành cho hệ thống nước 
mặt bị thu hẹp. Một số điểm thoát 
nước bị lấp do phát triển nhà ở và 
kinh doanh, dẫn đến tình trạng nước 
bị tù đọng, gây ra những tiềm ẩn về 
dịch bệnh đe dọa đến sức khỏe cộng 
đồng. 
Vào giai đoạn 1945 - 1975, cuộc chiến 
tranh Đông Dương bùng nổ đã ảnh 
hưởng sâu sắc đến sự phát triển đô 
thị, đặc biệt về không gian đô thị. Hiện 
tượng đô thị lan tỏa (urban sprawl) 
xuất hiện và phát triển khá mạnh mẽ ở 
các khu vực ngoài rìa thành phố (sub-
urban) theo hướng Đông Bắc, mở 
rộng ra khỏi kênh NL-TN (Hình 2 và 
Hình 3). Ở phía Nam, luồng dân nhập 
cư đã lấp đầy những khoảng trống 
dọc theo tuyến kênh TH-BN và mở 
rộng dần về phía Bắc (theo hướng 
kênh Vòng Đai) và phía Nam (dọc 
 VÕ DAO CHI - TRẦN QUANG ĐẠO – ĐÔ THỊ HÓA VÀ HỆ THỐNGp 
86
kênh Đôi, kênh Tẻ). Như vậy, có thể 
thấy rằng trong giai đoạn này, mặc dù 
đô thị đã phát triển hệ thống đường bộ, 
nhưng kênh rạch vẫn là một yếu tố 
ảnh hưởng mạnh đến sự mở rộng đô 
thị, bởi sự mở rộng vẫn dọc theo hệ 
thống giao thông đường thủy chính 
trước đây là kênh TH-BN và kênh NL-
TN. Nếu như năm 1954, Sài Gòn đón 
nhận dòng người nhập cư ào ạt 
nhưng có kiểm soát của Chính phủ 
Sài Gòn, thì trong giai đoạn 1965-
1975, số lượng người tị nạn đổ vào 
thành phố một cách mất kiểm soát 
do chiến tranh ác liệt ở các vùng 
nông thôn. Họ dựng nhà và sinh 
sống bất hợp pháp dọc theo các 
tuyến kênh, mà điển hình nhất là 
kênh NL-TN. Theo Trần Văn Giàu, 
“họ sống chen chúc, có nơi mật độ 
sống lên đến 28000 người/km2. 
Điều kiện sống ở đây thật tệ hại” 
(dẫn theo Lê Văn Năm và Vũ Ngọc 
Thành, 2014, tr. 216). Không những 
tiếp nhận chất thải từ hoạt động 
sinh hoạt gây ra, trong giai đoạn 
này, dòng kênh còn phải gánh chịu 
thêm hoạt động nuôi cá bè, đánh 
bắt thủy sản. Kết quả là chức năng 
phục hồi và cung cấp dịch vụ sinh 
thái của các con kênh bị phá hủy 
nghiêm trọng: nguồn nước bị ô 
nhiễm nặng nề, mất cân bằng sinh 
học dẫn đến khả năng tự làm sạch 
dòng chảy và mục đích tiêu thoát 
nước không còn đáp ứng được. 
Sau năm 1975, để phục hồi kinh tế 
sau chiến tranh, Thành phố có 
chính sách chú trọng phát triển 
công nghiệp nặng và kìm hãm sự di 
cư giữa nông thôn và thành thị. Tuy 
nhiên, do ngân sách quốc gia hạn 
hẹp nên hệ thống hạ tầng bị phá 
hủy và xuống cấp từ thời kỳ trước, 
trong đó có hệ thống kênh rạch, 
Hình 2. Bản đồ Sài Gòn năm 1920 
Nguồn: Trang web hình ảnh Việt Nam Xưa 
và nay, cập nhật vào ng ...  Tran 
Ngoc, 2008, tr. 81). Tiếp theo đó, vào 
năm 2003, Ngân Hàng Thế Giới (WB) 
đã hỗ trợ kinh phí 300 triệu đôla để cải 
thiện vệ sinh ở kênh NL-TN, bao gồm 
việc nạo vét bùn, lắp đặt hệ thống 
cống mới và bơm nước thải cho nhà 
máy xử lý (Hữu Công, 2012). 
- Kênh Tàu Hủ-Bến Nghé: Tình trạng 
quá tải của hệ thống kênh này không 
chỉ do chất thải từ các khu nhà tạm bợ 
ven sông mà còn bởi các hoạt động 
sản xuất tiểu công nghiệp ven sông và 
hoạt động vận tải đường thủy. Từ 
năm 1997, chính quyền Thành phố đã 
lên kế hoạch đầu tư và xây dựng một 
hệ thống đường cao tốc chạy song 
song với kênh TH-BN để giảm áp lực 
cho dòng kênh. Đến năm 2001, dự án 
đại lộ Đông Tây (nay là đường Võ Văn 
Kiệt) được khởi công và hoàn thành 
vào năm 2010 với tổng mức đầu tư 
lên tới 13.400 tỷ từ nguồn vốn ODA 
(Đặng Vỹ, 2005). Công trình này 
không những đã cải thiện tình trạng 
kẹt xe, dãn dân cư đô thị về phía 
Đông của thành phố mà còn tạo nên 
sự thay đổi đáng kể về chất lượng 
nước và diện mạo cho cả hệ thống 
kênh TH-BN. Theo Vu Thi Hong Hanh 
(2006), để xây dựng đường, dự án đã 
di dời 2 cảng, 46 kho bãi, 15 nhà máy 
xay xát, một số nhà máy sản xuất đồ 
mỹ nghệ và hàng ngàn nhà ở tạm bợ, 
nhà ở đã xuống cấp ra khỏi lưu vực 
kênh. 
Kết quả từ hai cuộc khảo sát thực địa 
tại hai con kênh, do nhóm tác giả thực 
hiện vào tháng 4/2015, sau khi có 
chính sách cải tạo cảnh quan và phát 
triển cơ sở hạ tầng ở hai lưu vực kênh 
rạch trên, cho thấy hai hệ thống kênh 
rạch đã có sự thay đổi đáng kể so với 
thời kỳ đầu Đổi mới. 
Cả hai hệ thống kênh đều đã và đang 
trong quá trình phục hồi chức năng 
sinh thái: điều hòa dòng chảy, tiêu 
thoát nước, tái tạo lại hệ sinh thái thủy 
sinh và cảnh quan ven sông, giảm 
mức độ ảnh hưởng của ngập lụt do 
thủy triều... Tuy nhiên, tùy vào đặc 
điểm địa hình, cấu trúc đô thị và 
nguồn tiếp nhận chất thải mà có sự 
khác biệt ở mức độ phục hồi các chức 
năng. Ven kênh TH-BN với cấu trúc 
nhà ở và hoạt động sản xuất kinh 
doanh khá đa dạng đang có sự 
chuyển biến rõ rệt theo hướng Đông 
Bắc-Tây Nam(5). Nếu như đoạn kênh 
tại khu vực quận 1 có sự cải thiện 
chất lượng nước và cảnh quan đáng 
kể thì tại các khu vực quận 4, 6, 8, 
tình trạng ô nhiễm vẫn còn nghiêm 
trọng, như đoạn cầu Chà Và nối với 
kênh Tân Hóa-Lò Gốm và khu vực 
Bến Bình Đông (Hình 4, xem trang Bìa 
2), do đây là khu vực tập trung các 
hoạt động buôn bán nông sản trên 
đường bộ và đường thủy, hoạt động 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
89 
sơ chế biến nông sản và hoạt động 
buôn bán nhỏ lẻ hay bán sỉ tại các 
chợ truyền thống. Do kênh TH-BN 
không phải là kênh độc lập mà nối kết 
với nhiều hệ thống kênh khác, nguồn 
chất thải từ các cụm dân cư và nhà 
máy ở các hệ thống kênh khác đổ về 
góp phần gây nên tình trạng ô nhiễm 
trên. Nước kênh ở đây có mùi hôi, 
đen và đặc quánh. Ngoài ra, quan sát 
và phân tích bản đồ cho thấy, mật độ 
các công trình, nhà ở ven kênh phía 
quận 4, 8 khá dày, chưa có khoảng 
không gian xanh như bờ quận 1, 5, 6, 
có thể giảm bớt tác động từ các hoạt 
động sinh sống và sản xuất đến hệ 
thống kênh rạch. Vì vậy, đây cũng là 
nội dung cần được quan tâm trong 
quá trình cải tạo kênh rạch. So với 
kênh TH-BN, kênh NL-TN có sự đồng 
nhất hơn về nhà ở và hoạt động kinh 
doanh dịch vụ (Hình 5, xem trang Bìa 
2). Do đoạn kênh này khá độc lập và 
chỉ nối với sông Sài Gòn ở phía khu 
vực Thảo Cầm Viên, việc cải tạo, nạo 
vét và quản lý chất lượng kênh thuận 
lợi hơn so với kênh TH-BN. Chức 
năng sinh học của hệ thống kênh NL-
TN đã được khôi phục: nước kênh 
trong, không có mùi hôi, khả năng 
tiêu thoát nước tốt, cùng với cảnh 
quan dọc bờ sông được cải thiện đã 
tạo nên một diện mạo mới cho cả khu 
vực. Trong thời gian gần đây, thành 
phố vẫn đang nỗ lực cải thiện hệ 
thống kênh nhằm tăng cường khả 
năng tự làm sạch thông qua phục hồi 
hệ sinh thái động thực vật (hoạt động 
thả cá trên sông; nghiêm cấm đánh 
bắt cá dưới mọi hình thức để bảo vệ 
hệ động vật đang dần hồi phục). 
Ngoài ra, hệ thống cây xanh và không 
gian mở dọc bờ sông đã tạo nên không 
gian chuyển tiếp, giảm thiểu tác động 
trực tiếp từ khu vực sinh sống và buôn 
bán ở hai bên bờ kênh đối với hệ 
thống kênh. 
3.2. Những thay đổi về công năng sử 
dụng cả hai hệ thống kênh rạch NL-
TN và TH-BN 
Sau khi các dự án cải tạo và nâng cấp 
được thực hiện, hai hệ thống kênh 
này được chú trọng cho công năng dự 
trữ và điều hòa lượng nước chảy tràn 
cho cả thành phố, đồng thời phát triển 
không gian công cộng kết hợp với hệ 
thống cây xanh phục vụ cho các hoạt 
động giải trí, tập thể dục, đi dạo,p 
của người dân nhằm tạo hình ảnh mới 
cho thành phố. Do đặc điểm địa hình 
liên thông với nhiều hệ thống kênh 
rạch nối liền với sông Sài Gòn, vận tải 
hàng hóa vẫn được duy trì ở hệ thống 
kênh TH-BN nhằm đáp ứng nhu cầu 
buôn bán, giao thương, dự trữ kho bãi 
đối với hàng nông sản và tiểu thủ 
công nghiệp ở khu vực Bến Bình 
Đông. Tuy nhiên, hoạt động vận tải 
phục vụ cho du lịch cũng bắt đầu 
được khai thác trên cả hai hệ thống 
kênh trong giai đoạn gần đây. Tại 
kênh TH-BN, hoạt động du lịch tham 
quan một số công trình mang tính lịch 
sử văn hóa được khai thác ở khu vực 
quận 8, Chợ Lớn. Còn tại kênh NL-
TN, hoạt động du thuyền kết hợp khai 
thác các nét văn hóa như sử dụng 
thuyền phụng, đờn ca tài tử đã được 
giới thiệu vào tháng 9/2015. 
 VÕ DAO CHI - TRẦN QUANG ĐẠO – ĐÔ THỊ HÓA VÀ HỆ THỐNGp 
90
4. CƠ HỘI VÀ NHỮNG THÁCH 
THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỆ THỐNG 
KÊNH RẠCH TRONG QUÁ TRÌNH 
ĐÔ THỊ HÓA 
Nhìn lại các giai đoạn phát triển đô thị 
của TPHCM, có thể thấy, mối quan hệ 
giữa tiến trình đô thị hóa và hệ thống 
kênh rạch là mang tính hai chiều: 
trong khi hệ thống kênh rạch được 
xem là nguồn lực cho sự phát triển đô 
thị thì quá trình đô thị hóa cũng gây ra 
những tác động tiêu cực lên hệ sinh 
thái của hệ thống kênh rạch. Chính vì 
vậy, để chuẩn bị cho sự phát triển 
siêu đô thị trong tương lai của TPHCM 
theo hướng bền vững, bài viết nêu lên 
một số cơ hội và thách thức mà hệ 
thống kênh rạch đang và sắp đối mặt 
trong giai đoạn sắp tới. 
4.1. Cơ hội 
Hoạt động cải tạo kênh rạch tại 
TPHCM bước đầu đã có những tác 
động tích cực trong việc xây dựng 
hình ảnh thành phố, gián tiếp mang lại 
nhiều giá trị kinh tế. Chẳng hạn ở 
kênh NL-TN: cảnh quan đẹp cùng với 
các hoạt động vui chơi giải trí từ 
không gian công cộng dọc bờ kênh đã 
tạo cơ hội cho các loại hình dịch vụ ăn 
uống góp phần thúc đẩy kinh tế vỉa hè 
phát triển, mà theo Annette Kim nhận 
định rằng “vỉa hè Sài Gòn là không 
gian công cộng sống động, nhân bản 
và hợp tác” (Nguyễn Đỗ Dũng và Đỗ 
Như Quỳnh, 2014). Bên cạnh đó, hệ 
thống đường sá được nâng cấp song 
song với hệ thống kênh rạch đã tạo 
điều kiện cho các hoạt động thương 
mại- dịch vụ mang tính chuyên nghiệp 
phát triển, điển hình là sự nở rộ của 
các cao ốc văn phòng dọc bờ kênh 
phục vụ cho lĩnh vực tài chính, ngân 
hàng, nhà hàng, khách sạn,p Tiềm 
năng phát triển dịch vụ đường thủy, 
đặc biệt là du lịch ở cả hai hệ thống 
kênh hiện nay khá lớn. Có thể thấy sự 
giao thoa giữa lịch sử-văn hóa và hiện 
đại là lợi thế để khai thác du lịch tại 
kênh TH-BN; còn hình thái uốn lượn, 
cảnh quan đẹp cùng hệ thống cây 
xanh và không gian sinh hoạt cộng 
đồng là điểm thu hút của kênh NL-TN. 
Chính vì vậy, một số tuyến du lịch 
hướng tới các di tích và công trình 
mang tính lịch sử - văn hóa của người 
Hoa đã được đưa vào thực hiện trong 
những năm gần đây, với ý tưởng khôi 
phục lại hình ảnh “trên bến dưới 
thuyền” của Sài Gòn xưa(6) tại Bến Ba 
Đình, Bến Bình Đông, Bến Mễ Cốc 
(Xuân Thủy, 2011). 
4.2. Những thách thức và giải pháp 
Để đảm bảo phát triển bền vững trong 
bối cảnh biến đổi khí hậu, thách thức 
lớn nhất của TPHCM hiện nay là tình 
trạng ngập lụt ngày càng tăng do 
nước biển dâng. Chính vì vậy việc tập 
trung vào khai thác chức năng thoát lũ 
của hệ thống kênh rạch nội địa là 
nhiệm vụ cấp bách của TPHCM, vừa 
để ứng phó với biến đổi khí hậu, vừa 
tạo cơ hội cho hệ thống đường thủy 
nội địa phát huy vai trò của mình. 
Thành công từ các dự án cải tạo, hồi 
sinh các dòng kênh chết TH-BN và 
NL-TN sẽ là cơ sở và kinh nghiệm cho 
các dự án tiếp theo, tạo một lý lịch tốt 
trong việc sử dụng nguồn vốn của các 
tổ chức thế giới để giải quyết vấn đề 
môi trường. Hiện nay, các mô hình 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
91 
quản lý dựa vào cộng đồng đang 
được chú trọng, vì vậy cần tăng 
cường khuyến khích sự tham gia của 
người dân vào việc quản lý đoạn kênh 
mà họ sinh sống. Việc sử dụng nội 
lực của thành phố - chính là người 
dân - sẽ giảm bớt áp lực lên cơ quan 
chức năng trong việc quản lý, giúp 
người dân hiểu được trách nhiệm 
của mình trong việc giải quyết các 
vấn đề về môi trường liên quan đến 
kênh rạch. 
Vấn đề rất lớn đặt ra hiện nay đó là 
tình trạng tái ô nhiễm ở những khu 
vực kênh rạch đã được cải tạo. Tình 
trạng này có nhiều lý do: một phần do 
các con kênh rạch trong thành phố 
thông nối với nhau; phần khác do 
hành vi xả thải từ các cơ sở sản xuất 
và các hộ gia đình sống dọc kênh rạch 
chưa được xử phạt và giải quyết triệt 
để. Lực lượng chức năng không thể 
nào kiểm tra, theo dõi từng ngày một 
đối với các đối tượng gây ô nhiễm. Vì 
vậy, trong khi chờ đợi các dự án nhà 
máy xử lý nước thải được triển khai 
và đi vào hoạt động, cần có các biện 
pháp chế tài nghiêm khắc hơn nữa đối 
với các cá nhân và tổ chức có hành vi 
xả thải xuống kênh, hoặc san lấp kênh 
rạch, gây ô nhiễm nguồn nước. 
5. KẾT LUẬN 
Nhìn chung, dưới tác động của quá 
trình đô thị hóa từ những năm 1600 
đến nay, hai hệ thống kênh TH-BN và 
NL-TN đã có những thay đổi đáng kể 
về chức năng và mục đích sử dụng. 
Chức năng cung cấp dịch vụ sinh thái 
đã từng bị phá hủy nghiêm trọng từ 
trong giai đoạn chiến tranh cho đến 
gần đây do hoạt động sản xuất, giao 
thương, sự gia tăng dân số ồ ạt, dẫn 
đến cơ sở hạ tầng của thành phố 
không đáp ứng nổi. So với với lúc đầu 
mới hình thành đô thị, hệ thống kênh 
rạch dần dần ít được sử dụng vào 
mục đích giao thông, chỉ còn tập trung 
vào mục tiêu thoát nước đô thị, điều 
tiết lũ. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến 
nay, với các dự án cải tạo của Chính 
phủ và sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc 
tế, hai hệ thống kênh TH-BN và NL-
TN đã phục hồi một phần hệ sinh thái, 
cải thiện chất lượng nước, tạo cảnh 
quan xanh và không gian công cộng. 
Đây được xem là cơ hội tốt để bảo vệ 
và duy trì hệ thống kênh rạch, góp 
phần tạo các giá trị kinh tế mới như 
hoạt động du lịch và kinh doanh ven 
kênh. Nhưng cùng với các cơ hội, hệ 
thống kênh rạch cũng đang phải đối 
diện với các thách thức như biến đổi 
khí hậu, tình trạng tái ô nhiễm. Vì vậy, 
để đảm bảo phát triển đô thị bền 
vững, cần huy động sự tham gia của 
người dân trong các hoạt động bảo 
vệ nguồn nước, mà cụ thể là hệ 
thống kênh rạch cần được đặc biệt 
chú trọng, nhằm đảm bảo sự tuân thủ 
và kiểm soát nghiêm ngặt từ phía 
người dân và Chính phủ đối với việc 
bảo vệ hệ sinh thái kênh rạch trong 
thành phố.  
CHÚ THÍCH 
 (1) Arroyo Chinois là cách người Pháp gọi chung cho kênh Tàu Hủ và rạch Bến Nghé. 
 VÕ DAO CHI - TRẦN QUANG ĐẠO – ĐÔ THỊ HÓA VÀ HỆ THỐNGp 
92
(2) Đại tá Coffyn là Chỉ huy trưởng lực lượng công binh viễn chinh. Bản quy hoạch của 
Coffyn có tên là Projet de Ville de 500.000 âmes à Saigon (Dự án thành phố 500.000 người 
tại Sài Gòn), được đệ trình vào ngày 30/4/1862, và được Bonard chấp thuận (Tôn Nữ 
Quỳnh Trân vàTrương Hoàng Trương, 2005). 
(3) Các con kênh Gallimard, Grand, Cá sấu, Olivier đã san lấp để xây dựng các con đường 
có tên gọi Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Hàm Nghi và Pasteur hiện nay. 
(4) Siêu đô thị thường được định nghĩa là một khu vực đô thị với tổng dân số vượt quá mười 
triệu người (Michael Batty, 2006). Theo Hoàng Thanh (2010), dự báo đến năm 2025, 
TPHCM sẽ có 10 triệu dân và sẽ là một siêu đô thị năng động tầm cỡ thế giới. 
(5) Khu vực dịch vụ và tài chính tập trung ở khu vực quận 1, khu vực nhà ở kết hợp với văn 
phòng tập trung trải rộng ở hai bờ quận 4 và 5, khu vực chợ, kinh doanh vật liệu xây dựng, 
nông sản, kho bãi tập trung khá nhiều ở quận 5 và 6, đặc biệt là khu vực phía Bến Bình 
Đông, hoạt động giao thương bằng đường thủy khá nổi bật. 
(6) Nội dung được bổ sung trong Bản quy hoạch điều chỉnh quận 8 đến năm 2020. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Cục Đường thủy nội địa Việt Nam. 2014. Giáo trình Kinh tế vận tải (Giáo trình nội bộ). 
2. Đặng Vỹ. 31/01/2005. Đại lộ Đông Tây - thêm đôi cánh cho TPHCM Đại lộ Đông Tây - 
thêm đôi cánh cho TPHCM.  xem ngày 
19/10/2015. 
3. Hoàng Thanh. 22/04/2010. Không gian đô thị TPHCM tầm nhìn 2025. 
nhin-2025.html, xem ngày 19/10/2015. 
4. Hữu Công. 17/08/2012. Gần 20 năm “hồi sinh” dòng kênh bẩn nhất Sài Gòn. 
2240113.html, xem ngày 25/04/2015. 
5. International Navigation Association, Environmental Commission, & Working Group 6. 
2003. Guidelines for Sustainable Inland Waterways and Navigation. Brussels, Belgium: 
International Navigation Association. 
6. Le Tran Ngoc. 2008. Rethinking Urban Streams: Opportunities for the Nhieu Loc-Thi 
Nghe River. Massachusetts Institute of Technology, Dept. of Urban Studies and Planning. 
7. Lê Văn Năm và Vũ Ngọc Thành. 2014. Phát triển của đô thị Sài Gòn - TPHCM về 
không gian qua các giai đoạn lịch sử. Trình bày tại Hội thảo khoa học: 20 năm đô thị 
hóa Nam Bộ - lý luận và thực tiễn. 
8. Michael Batty. 2006. How Big Can Cities Get?. New Scientist Magazine, 17 June 2006. 
9. Nguyễn Đỗ Dũng và Đỗ Như Quỳnh. 01/05/2014. Giáo sư Annette Kim: “Vỉa hè Sài 
Gòn là không gian công cộng sống động, nhân bản và hợp tác”.  
nam.org/2014/01/05/via-he-sai-gon/. 
10. Pham Thi Thanh Thao và Pham Quang Dieu. 2011. Remaking Image and Identity of 
the Water City-Redevelopment of Ho Chi Minh City’s Waterfront to Regain Its Cultural 
Image and Identity. In Global Visions: Risks and Opportunities for the Urban Planet. 
Retrieved from  FOUA00148- 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
93 
00238P2.pdf 
11. Tôn Nữ Quỳnh Trân và Trương Hoàng Trương. 2005. Viết thêm về quy hoạch 
Coffyn 1862. Tạp chí Khoa học Xã hội, số 2(150)/2011. 
12. Trang web Hình ảnh Việt Nam xưa và nay. (n.d.). Bản đồ Sài Gòn xưa. 
> 
13. Trần Hữu Quang. 2012. Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu. TPHCM: Nxb. Tổng hợp 
TPHCM. 
14. Vũ Nhật Tân. 2013. Lịch sử kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè. Tạp chí Khoa học Xã hội, số 
3(175)-2013. 
15. Vương Hồng Sển. 2013. Sài Gòn năm xưa. TPHCM: Nxb. Tổng hợp TPHCM. 
16. Vu Thi Hong Hanh. 2006. Canal-Side Highway in Ho Chi Minh City (HCMC), 
Vietnam – Issues of Urban Cultural Conservation and Tourism Development. 
GeoJournal, 66(3).  
17. World Wide Fund For Nature. 2009. Mega-Stress for Mega-Cities: A Climate 
Vulnerability Ranking of Major Coastal Citites in Asia. World Wide Fund For Nature 
(WWF).  
18. Xuân Thủy. 27/02/2011. Khôi phục cảnh “trên bến dưới thuyền” Sài Gòn xưa. 
<
sai-gon-xua.html, xem ngày 10/08/2015. 

File đính kèm:

  • pdfdo_thi_hoa_va_he_thong_kenh_rach_nhung_van_de_dat_ra_trong_p.pdf