Đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
TÓM TẮT
Định giá chuyển giao được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài
sản được chuyển dịch giữa các các bên liên kết qua biên giới, không theo giá thị trường mà theo
hướng có lợi, nhằm giúp các doanh nghiệp giảm thiểu nghĩa vụ thuế, tối đa hóa lợi nhuận, từ đó
chuyển vốn đầu tư hoặc lợi nhuận về nước, thanh lý các thiết bị, máy móc công nghệ kém hiện đại
với giá cao khi môi trường đầu tư tại những quốc gia tiếp nhận đầu tư không được lành mạnh do
các chính sách về tỷ giá, chính sách giáo dục, môi trường văn hoá, môi trường pháp luật, Kết
quả phân tích 515 mẫu dữ liệu phù hợp được thu thập bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện
khi khảo sát các đối tượng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDIEs) đang
thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam đã cho thấy rằng tất cả 7 yếu
tố được phân tích đều có ảnh hưởng tích cực đến chính sách định giá chuyển giao của FDIEs tại
Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 100 ĐO LƯỜNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH ĐỊNH GIÁ CHUYỂN GIAO TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM MEASUREMENT OF FACTORS AFFECTING TRANSFER PRICING POLICY IN FOREIGN DIRECT INVESTMENT ENTERPRISES IN VIETNAM Ngày nhận bài: 14/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 30/12/2019 Phan Đức Dũng TÓM TẮT Định giá chuyển giao được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các các bên liên kết qua biên giới, không theo giá thị trường mà theo hướng có lợi, nhằm giúp các doanh nghiệp giảm thiểu nghĩa vụ thuế, tối đa hóa lợi nhuận, từ đó chuyển vốn đầu tư hoặc lợi nhuận về nước, thanh lý các thiết bị, máy móc công nghệ kém hiện đại với giá caokhi môi trường đầu tư tại những quốc gia tiếp nhận đầu tư không được lành mạnh do các chính sách về tỷ giá, chính sách giáo dục, môi trường văn hoá, môi trường pháp luật, Kết quả phân tích 515 mẫu dữ liệu phù hợp được thu thập bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện khi khảo sát các đối tượng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDIEs) đang thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam đã cho thấy rằng tất cả 7 yếu tố được phân tích đều có ảnh hưởng tích cực đến chính sách định giá chuyển giao của FDIEs tại Việt Nam. Từ khoá: định giá, doanh nghiệp, chuyển giao, giao dịch, xã hội. ABSTRACT Transfer pricing is understood as the implementation of a pricing policy for goods, services and assets transferred between cross-border, not market-oriented but beneficial parties, to help enterprises reduce the tax obligations, maximize profits, thereby transferring investment capital or profits back to the country, liquidating equipment and machinery of modern technology with high prices ... as the investment environment in the receiving countries is not healthy due to the policies on exchange rates, educational policies, cultural environment and legal environment. The analysis of 515 suitable data samples was collected by a convenient sampling method when surveying the subjects of foreign direct investment enterprises (FDIEs) carrying out business production activities on the territory of Vietnam has shown that all 7 analyzed factors have a positive effect on the transfer pricing policy of FDIEs in Vietnam. Keywords: pricing, business, transfer, transaction, social. 1. Bối cảnh nghiên cứu Hiện nay, có rất nhiều quan điểm được hiểu về định giá chuyển giao rất khác nhau, tuy nhiên, thuật ngữ tiếng Anh chỉ có một từ “transfer pricing”, nhưng khi chuyển ngữ sang tiếng Việt nếu hàm ý không xấu thì thường dùng là “định giá chuyển giao”, còn hàm ý không tốt thường hay dùng từ “chuyển giá”. a/ Quan điểm lên án hành vi thông đồng của các công ty có mối quan hệ liên kết giữa các quốc gia khác nhau, thường được gọi là chuyển giá Đối với quan điểm, nếu xem hành vi chủ ý thông đồng giữa các công ty trong cùng một tập đoàn để thỏa thuận giá cả không dựa trên giá thị trường, nhằm chuyển lợi nhuận từ công ty này sang công ty khác ở nước khác Phan Đức Dũng, Trường Đại học Kinh tế-Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019 101 nhau nhằm tránh nộp thuế đầy đủ, từ đó, nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn tập đoàn. Quan điểm này, thường đứng về góc độ quản lý nhà nước của những quốc gia tiếp nhận đầu tư, khi mà thuế suất của những quốc gia tiếp nhận đầu tư có mặt bằng chung chênh lệch cao hơn giữa những quốc gia tiếp nhận đầu tư hoặc những quốc gia đầu tư thì có xu hướng chuyển giá xảy ra. Theo quan điểm, hành vi chuyển lợi nhuận từ những quốc gia có mức thuế suất cao sang các quốc gia có mức thuế suất thấp hơn để tối đa hoá lợi nhuận cho tập đoàn, trong trường hợp này, thuật ngữ “transfer pricing”, thường dịch là chuyển giá. Trường hợp này cũng chính là quan điểm định giá hàng hóa dịch vụ chuyển giao giữa các công ty liên kết đóng ở các quốc gia khác nhau nhằm tối ưu hóa lợi nhuận của tập đoàn, cũng là hành vi chuyển lợi nhuận của tập đoàn về công ty con ở trên lãnh thổ của những quốc gia có mức thuế suất thấp hơn, hoặc điều kiện kinh doanh dễ dàng và thuận lợi với nhiều ưu đãi nhưng bóp méo các chính sách tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Chuyển giá là hoạt động mang tính chủ quan, cố ý của các tập đoàn, công ty đa quốc gia nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp bằng cách định giá mua bán sản phẩm, nguyên vật liệu, giữa các công ty trong cùng một tập đoàn không tuân theo giá thị trường nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với sản phẩm (tài sản hữu hình, tài sản vô hình, dịch vụ, lãi tiền vay) được chuyển dịch giữa các bên có quan hệ liên kết không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường, nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của tất cả các bên liên kết trên toàn cầu. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (The Organisation for Economic Co-operation and Development - OECD) (2010): “Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với sản phẩm (tài sản hữu hình, tài sản vô hình, dịch vụ, lãi tiền vay) được chuyển dịch giữa các bên có quan hệ liên kết không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường, nhằm tối thiểu hoá tổng số thuế phải nộp của tất cả các bên liên kết trên toàn cầu”. Tuy nhiên, “chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty xuyên quốc gia (Multinational Corporation - MNC) trên phạm vi toàn cầu - đây là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết”. b/ Quan điểm ủng hộ việc bảo toàn vốn và tối ưu hoá lợi nhuận giữa các công ty có mối quan hệ liên kết, thường được gọi là định giá chuyển giao. Dưới góc nhìn của doanh nghiệp, định giá chuyển giao có thể được xem xét, đánh giá trên nhiều khía cạnh nhằm bảo toàn vốn kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động giữa các doanh nghiệp có mối liên hệ liên kết thông qua vốn đầu tư, tức là các công ty con trong tập đoàn kinh tế bằng cách tối đa hoá lợi nhuận. Việc định giá chuyển giao giữa các bộ phận bên trong nội bộ của một doanh nghiệp, hoặc giữa các công ty con trong một tập đoàn kinh tế trong việc lựa chọn giá sản phẩm chuyển nhượng thực chất là giá bán sản phẩm nội bộ, đây chính là giá bán sản phẩm giữa các đơn vị thành viên trong một doanh nghiệp, giữa đơn vị cấp dưới với đơn vị cấp trên trong một doanh nghiệp. Khi hoạch định giá sản phẩm chuyển nhượng người lập giá đảm bảo rằng, việc định giá sản phẩm sẽ bù đắp chi phí thực hiện sản phẩm, đảm bảo lợi ích chung của toàn doanh nghiệp và kích thích các bộ phận phấn đấu tiết kiệm chi phí và tăng cường trách nhiệm với mục tiêu chung của toàn doanh nghiệp. Mô hình tổng quát giá chuyển nhượng theo chi phí thực TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 102 hiện là: Giá chuyển nhượng sản phẩm bằng với Chi phí thực hiện sản phẩm. Định giá sản phẩm chuyển nhượng (định giá chuyển giao) theo chi phí thực hiện đơn giản, dễ tính toán, dễ hiểu nên nó được áp dụng khá phổ biến. c/ Định giá chuyển giao hay chuyển giá là khái niệm để xem xét hoạt động hợp pháp hay hay hành vi phi pháp Nhìn chung, xét về phương diện pháp lý, cũng cần phải phân biệt giữa “định giá chuyển giao hợp pháp” hay có thể gọi tắt là “định giá chuyển giao” và “định giá chuyển giao phi pháp” hay gọi tắt là “chuyển giá”, để chỉ rõ hai quan niệm khác nhau cho việc định giá chuyển giao trong doanh nghiệp thuần tuý về việc dựa trên mô hình ứng xử chi phí trong kế toán, và quan điểm lợi dụng trên cơ sở này để thông đồng, nhằm thủ đắc lợi ích một cách bất hợp pháp. Theo đó, việc doanh nghiệp tận dụng tối đa các quy định của pháp luật để dàn xếp một mức giá chuyển giao hàng hoá, dịch vụ sao cho không vi phạm quy định của các nước có liên quan thì hành vi đó không thể coi là phi pháp, có nghĩa là không thể xem là hành vi chuyển giá, mà được coi đó là kỹ thuật định giá chuyển giao. Trường hợp này, doanh nghiệp tiết kiệm được số tiền thuế một cách hợp pháp, bảo toàn vốn đầu tư và, cuối cùng, đảm bảo lợi ích cho những nhà đầu tư của doanh nghiệp. 2. Tổng quan các đề tài nghiên cứu có liên quan trước đây Theo Henry Fayol (1949), kiểm soát là việc kiểm tra để khẳng định mọi việc có được thực hiện theo đúng kế hoạch hoặc các chỉ dẫn và các nguyên tắc đã được thiết lập hay không, từ đó chỉ ra các yếu kém và các sai phạm cần phải điều chỉnh, đồng thời ngăn ngừa chúng không được phép tái diễn, trong khi đó, Gravelle, J.G. (2010) cho rằng, tài sản vô hình rất khó xác định đúng giá trị của nó (như tiền bản quyền, tiền sở hữu trí tuệ) và cũng khó xác định giá của chúng trong các DNLK. Trên thực tế, Gruber, H. (2003) đã phát hiện ra nguy cơ định giá chuyển giao trong việc xác định giá tài sản vô hình. Các công ty có cơ hội lớn để tham gia vào định giá chuyển giao thông qua việc chuyển giao tài sản vô hình giữa các doanh nghiệp liên kết có mức thuế khác nhau. Theo Hatem Elsharawy (2006), mỗi quốc gia có một cơ chế chính sách và pháp luật khác nhau, do đó lãnh đạo doanh nghiệp cần phải hiểu biết về pháp luật tại nước sở tại trước khi tiếp nhận nhiệm vụ lãnh đạo tại một quốc gia. Khi ban lãnh đạo có trình độ cao, hiểu biết về pháp luật và có đạo đức kinh doanh thì khả năng gian lận trong định giá chuyển giao rất thấp và ngược lại nhận thức và hiểu biết các quy định pháp luật của Ban lãnh đạo cũng như kế toán trong doanh nghiệp liên kết không cao thì khả năng gian lận trong định giá chuyển giao rất lớn. Hatem Elsharawy (2006) cho rằng môi trường pháp lý cũng có ảnh hưởng đến các hoạt động định giá chuyển giao. Các công ty đa quốc gia (MNEs) hoạt động theo nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, công ty mẹ hoạt động theo pháp luật được áp dụng tại quốc gia nơi có trụ sở chính, trong khi các công ty con hoạt động theo pháp luật được áp dụng ở nước sở tại. Các quy định và luật pháp của từng quốc gia có thể khác nhau. Như vậy, việc quản lý tại các công ty con hoạt động theo pháp luật mà có thể khác so với luật của nước sở tại. Các luật quan trọng nhất là pháp luật về thuế, pháp luật hải quan, nhập khẩu và xuất khẩu luật, luật đầu tư (đặc biệt là đầu tư nước ngoài), luật doanh nghiệp (hay luật công ty), luật lao động, luật sở hữu trí tuệ, luật cạnh tranh, luật thị trường tài chính, luật bảo vệ người tiêu dùng Hatem Elsharawy (2006) cho rằng: công ty đa quốc gia là một tổ chức hoạt động tại nhiều quốc gia khác nhau, mỗi quốc gia chủ nhà có một môi trường pháp lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và công nghệ có thể khác nhau. Các yếu tố từ nên kinh tế đóng một vai trò TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019 103 quan trọng trong việc ảnh hưởng đến các hoạt động định giá chuyển giao quốc tế. Vì vậy, cần thiết nghiên cứu các yếu tố của nền kinh tế ảnh hưởng đến định giá chuyển giao trong các công ty đa quốc gia. Đặc điểm về thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc doanh nghiệp phải sử dụng công cụ tài chính phái sinh, để: (i) gia tăng giá trị doanh nghiệp (Froot và cộng sự, 1993); (ii) giảm chi phí phá sản dự kiến và tăng giá trị doanh nghiệp (Smith và Stulz, 1985); (iii) giảm nguy cơ rủi ro tiềm ẩn hoặc quản lý rủi ro dự kiến; (iv) bù đắp những rủi ro kinh doanh vốn có (Danthine, 1978); (v) giảm thiểu rủi ro, giảm chi phí vốn vay, ổn định thu nhập. Do đó, sử dụng công cụ tài chính phái sinh góp phần quản trị rủi ro và kiểm soát nền kinh tế. Theo khái niệm bản chất xã hội của kế toán (Davis và cộng sự, 1982), kế toán góp phần mang lại lợi ích cho xã hội nhằm duy trì và phát triển bền vững xã hội. Tuy nhiên, với sự bất đối xứng thông tin kế toán sẽ dẫn đến sự kém phát triển của thị trường tài chính hệ quả là ảnh hưởng đến các thị trường còn lại. Ngoài ra, theo Young (1996), chức năng kế toán là cung cấp thông tin minh bạch cho thị trường hoạt động. Quan điểm của Hopwood (1994) cho rằng trong việc thiết lập các quy định, nguyên tắc, chuẩn mực lại được thực hiện bởi nhu cầu của thị trường trong đó bao gồm thị trường vốn, thị trường hàng hóa, thị trường chứng khoán... Theo Watts (2006), kế toán góp phần trong quá trình định hướng thị trường. Theo quan điểm này, việc tuân thủ các quy định kế toán nhằm thực hiện công bố báo cáo tài chính sẽ làm cân bằng các mục tiêu của các đối tượng khác nhau, dựa vào các thị trường khác nhau chẳng hạn như việc sử dụng báo cáo tài chính cho các hợp đồng, đầu tư, định giá Có thể dễ nhận diện nhân tố thị trường là nhân tố có ảnh hưởng đến kế toán tài chính, giữa hàng hóa – kế toán và nhân tố thị trường có mối quan hệ tương quan cùng chiều. Như vậy, một thị trường cạnh tranh hoàn hảo và hoạt động hiệu quả với đầy đủ thông tin về giá cả, chất lượng sẽ làm tăng khả năng áp dụng kế toán công cụ tài chính phái sinh và ngược lại. Thị trường sẽ phân bổ vốn và phòng ngừa rủi ro hiệu quả trong điều kiện thông tin kế toán hoàn hảo. Do đó, kế toán tài chính đóng vai trò quan trọng để đảm bảo các thông tin có liên quan và đáng tin cậy được công bố (Merino và Neimark, 1982). Nhân tố pháp lý là cơ sở không thể thiếu để mô tả, đánh giá, phân tích, góp phần thúc đẩy thông tin kế toán khách quan, minh bạch. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu sự bất đối xứng thông tin thông qua quá trình thiết lập, ban hành các quy định về kế toán, về chính sách kinh tế, trong đó, kế toán có sự tương tác với quy định mang tính pháp lý trong nền kinh tế thị trường. Theo quan điểm của Gipper và cộng sự (2013), nhân tố pháp lý có ảnh hưởng đáng kể đến chuẩn mực kế toán được thiết lập, ban hành và thực hiện. Ảnh hưởng pháp lý xảy ra khi có sự thay đổi các quy định từ các cơ quan ban hành có nghĩa là một quy định pháp lý được ban hành phải đạt được mục tiêu, phù hợp với chính sách kinh tế, xã hội và các nguyên tắc kế toán (Kothari và cộng sự, 2010). Các cơ quan ban hành các quy định pháp lý phải đảm bảo mang lại lợi ích xã hội, hoàn thiện sự thất bại thị trường (Posner, 1974). Mặc khác, thông tin kế toán là thông tin dễ sai lệch bởi tính chủ quan của người lập, hoặc do động cơ hay mục đích của nhà quản trị trong việc công bố thông tin do đó để đảm bảo lợi ích xã hội, nhà nước tập trung vào việc ban hành tất cả các quy định liên quan đến kế toán nhằm đạt được thông tin kế toán tốt nhất, đáp ứng nhu cầu thông tin cho tất cả các thành phần kinh tế, đồng thời giảm thiểu thông tin bất bối xứng. Hoạt động của doanh nghiệp đặt trong cộng đồng và xã hội có nghĩa là hoạt động của doanh nghiệp này có thể ảnh hưởng đến ... cậy tổng hợp và phương sai trích của các thang đo Thang đo Số biến quan sát Cronbach’s Alpha Độ tin cậy tổng hợp (αc) Phương sai trích (pvc) Giá trị hội tụ Lạm phát 3 0,820 0,821 0,605 Thỏa mãn Chính sách thuế 4 0,855 0,856 0,602 Tỷ giá hoái đối 3 0,858 0,861 0,676 Chính sách giáo dục quốc gia 3 0,850 0,850 0,654 Môi trường văn hóa 4 0,865 0,866 0,618 Môi trường pháp lý 4 0,804 0,805 0,509 Thể chế xã hội 4 0,872 0,873 0,633 Chính sách định giá chuyển giao của các doanh nghiệp 3 0,875 0,878 0,706 (Nguồn: Tổng hợp của tác giả) Kết quả phân tích hệ số tương quan trong Bảng 3 giữa các cặp nhân tố nghiên cứu cho thấy các giá trị p-value đều nhỏ hơn 0,05 và hệ số tương quan của từng cặp khái niệm là khác biệt so với 1 ở độ tin cậy 95% nên các thang đo đạt giá trị phân biệt. Thang đo được xem là đạt giá trị hội tụ khi các trọng số chuẩn hóa của các thang đo lớn hơn 0,5 và có ý nghĩa thống kê (Gerbring và Anderson, 1988). Fornell và Larcker (1981) cho rằng để thang đo đạt giá trị hội tụ thì phương sai trích (AVE – Average Variance Extracted) tối thiểu phải là 0,5. Theo kết quả phân tích ở Bảng 23 cho thấy: các giá trị AVE của các thang đo đều lớn hơn 0,5 nên có thể kết luận các nhân tố đạt giá trị hội tụ. TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019 111 Bảng 3: Hệ số tương quan của các khái niệm Mối quan hệ Hệ số tương quan Sai lệch chuẩn C.R. P MTVH TCXH 0,224 0,033 6,765 *** MTVH CST 0,106 0,030 3,483 *** MTVH MTPL 0,088 0,034 2,600 0,009 MTVH TGHĐ 0,303 0,035 8,734 *** MTVH CSGD 0,209 0,033 6,283 *** MTVH LP 0,188 0,034 5,525 *** MTVH CSCG 0,288 0,031 9,277 *** TCXH CST 0,148 0,034 4,327 *** TCXH MTPL 0,240 0,040 5,967 *** TCXH TGHĐ 0,204 0,035 5,853 *** TCXH CSGD 0,325 0,039 8,267 *** TCXH LP 0,295 0,040 7,430 *** TCXH CSCG 0,261 0,032 8,119 *** CST MTPL 0,196 0,039 5,040 *** CST TGHĐ 0,184 0,034 5,405 *** CST CSGD 0,258 0,037 6,991 *** CST LP 0,277 0,039 7,142 *** CST CSCG 0,219 0,031 7,135 *** MTPL TGHĐ 0,120 0,037 3,201 0,001 MTPL CSGD 0,323 0,043 7,452 *** MTPL LP 0,318 0,045 7,118 *** MTPL CSCG 0,269 0,036 7,493 *** TGHĐ CSGD 0,225 0,036 6,256 *** TGHĐ LP 0,219 0,037 5,879 *** TGHĐ CSCG 0,258 0,031 8,213 *** CSGD LP 0,427 0,045 9,536 *** CSGD CSCG 0,296 0,034 8,748 *** LP CSCG 0,289 0,035 8,314 *** (Nguồn: Tính toán của tác giả) Như vậy, tất cả các thang đo trong nghiên cứu này đều đạt yêu cầu về độ tin cậy và giá trị: Tính đơn hướng, Độ tin cậy tổng hợp, Giá trị hội tụ và Giá trị phân biệt. Do đó, các thang đo này được sử dụng tiếp theo để kiểm định mô hình nghiên cứu. Kết quả kiểm định cho thấy: mô hình có giá trị Chi bình phương = 909,015; bậc tự do df = 338; Cmin/df = 2,689 với giá trị p–value = 0,000. Đồng thời, các chỉ tiêu khác cũng đạt yêu cầu của kiểm định như: TLI = 0,915; CFI = 0,924 và RMSEA = 0,057. Điều này TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 112 cho thấy: mô hình này phù hợp với dữ liệu thu thập từ thị trường. Hình 3: Kết quả SEM chuẩn hóa 6. Các khuyến nghị từ kết quả mô hình Thứ nhất, việc điều hành Chính phủ cần phải ưu tiên kiểm soát lạm phát, phải ổn định được sức mua của đồng tiền. Bởi lẽ, ổn định đồng tiền Việt Nam là điều các nhà đầu tư luôn quan tâm trong việc bảo toàn vốn đầu tư bằng ngoại tệ. Ảnh hưởng của sự mất giá đồng tiền Việt Nam so với các đồng tiền mạnh khác là điều lo ngại của các nhà đầu tư nước ngoài và là động cơ thúc đầy các FDIEs thực hiện thủ thuật chuyển giá khi đầu tư vào Việt Nam. Do đó, giải pháp ổn định tiền tệ cũng góp phần hạn chế động lực chuyển giá của FDIEs, đồng thời có tác dụng thu hút thêm nhiều nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tương lai. Thứ hai, Nhà nước cần phải hoàn thiện chính sách thuế, trong đó chú trọng hoàn thiện chính sách thuế, thuế suất, đặc biệt là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và cơ sở tính thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu ở mức độ cao sẽ tạo ra sự khuyến khích đối với hành vi chuyển giá. Bên cạnh đó mức thuế cao trong các sắc thuế khác như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt cao cũng tạo ra động lực để các FDIEs chuyển giá. Vì thế, cần rà soát tổng thể hệ thống thuế có thể giảm các loại thuế hoặc điều chỉnh cho phù hợp. Thứ ba, Nhà nước cần phải hoàn thiện chính sách tỷ giá, bởi lẽ, khi đồng tiền một quốc gia mất giá ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo toàn vốn đầu tư và lợi nhuận của các nhà đầu tư cũng là nguyên nhân thúc đẩy hành vi chuyển giá của FDIEs. Thời gian gần đây, Chính phủ đã và đang thực hiện nhiều giải pháp xóa bỏ “cơ chế 2 tỷ giá” (tỷ giá liên ngân hàng và tỷ giá tự do) trong giao dịch giữa đồng Việt Nam và USD; gia tăng dự trữ ngoại tệ để khi cần thiết phải điều tiết thị trường nhằm tránh tỷ giá biến động bất thường. Do đó, cần có chính sách tỷ giá phù hợp như: (i) Gia tăng tích lũy ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ phải tương xứng với tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu. Từng bước xây dựng cơ chế, hành lang pháp lý, môi trường hoạt động nhằm đưa nghiệp vụ thị trường mở lên đúng vị trí của nó trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Cần lựa chọn phương pháp khả thi cho việc xây dựng cơ cấu dự trữ ngoại tệ chủ yếu đối với những đồng tiền mạnh như USD, Yen, Euro,... (ii) Thực hiện chính sách lãi suất phù hợp với cơ chế thị trường, chính sách tỷ giá hối đoái theo thị trường có sự điều tiết linh hoạt với biên độ phù hợp. (iii) Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối, phát triển thị trường tài chính, không ngừng chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. (iv) Hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng đô la hóa nhưng không phải bằng biện pháp hành chính mà bằng công cụ quản lý nhà nước hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện kiểm soát giá cả, lạm TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019 113 phát và mức bội chi ngân sách nhà nước liên quan đến các chính sách đầu tư quốc gia. Thứ tư, Nhà nước cần phải xây dựng chính sách giáo dục phù hợp, trong đó, kiện toàn tổ chức bộ máy, phát triển nguồn nhân lực làm công tác kiểm soát chuyển giá. Chuyển giá thường tập trung vào các FDIEs là thành viên công ty đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm hoạt động trên toàn cầu. Bên cạnh đó, cùng với sự giúp sức của hàng loạt công ty tư vấn, những chuyên gia giàu kinh nghiệm nên công tác đấu tranh với chuyển giá đòi hỏi cán bộ làm công tác kiểm soát chuyển giá phải có kiến thức chuyên sâu, giàu kinh nghiệm là vô cùng cần thiết. Cần có định hướng đào tạo tập trung vào kiến thức về giá chuyển nhượng, kỹ năng phân tích hồ sơ khai thuế, kỹ năng thanh tra, kiểm tra và phong cách làm việc; đồng thời có kiến thức về các lĩnh vực mà các Cục Thuế địa phương đang quản lý như: ngành cơ khí chính xác, ngành dệt may, điện tử, ô tô, Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp, giúp cho chính bản thân các doanh nghiệp nhận thức đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ nộp thuế của mình cũng như hiểu rõ nội dung của các quy định pháp luật về thuế nói chung và chuyển giá nói riêng. Thứ năm, Nhà nước cần phải hoàn thiện thể chế xã hội liên quan đến việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của địa phương và thu hút nguồn vốn FDI, song song với việc cải cách thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống hạ tầng thuận tiện, tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài đến các địa phương trong cả nước với những ưu đã mà không làm thiệt đến môi trường đầu tư chung cả nước, cần phải phát huy tính chủ động, vận dụng sáng tạo các quy định của nhà nước để xây dựng một hệ thống các giải pháp kiểm soát chuyển giá phù hợp với các FDIEs hoạt động tại Việt Nam, tôn trọng các tổ chức dân sự để các tổ chức này cùng tham gia vào quản trị xã hội để nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước. Thứ sáu, cần phải có hệ thống pháp luật vững chắc tạo thuận lợi cho cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp áp dụng thực hiện trên nguyên tắc công khai, minh bạch, chi phí vận hành và tuân thủ thấp, hướng tới tuân thủ các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, Chính phủ cần hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá, nhưng phải đảm bảo việc điều hành hiệu quả, kiểm soát lạm phát, hướng tới tỷ giá thả nổi. Củng cố lại cơ sở pháp lý về quản lý hoạt động chuyển giá, ban hành và hướng dẫn đầy đủ các phương pháp xác định giá chuyển giao phù hợp với trình độ phát triển kinh doanh trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Phải nâng cao tính pháp lý của hoạt động chuyển giá để có thể quy định các chế tài và hình thức xử phạt cũng như quy định các “ngưỡng an toàn” cho hoạt động chuyển giá, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi áp dụng, nhưng cũng xử lý nghiêm khắc khi có vi phạm. Trước mắt cần bổ sung một số điều luật về chống chuyển giá vào Luật Quản lý thuế, cụ thể là: Biện pháp mạnh mẽ nhất được đề xuất là ấn định số thuế trên doanh số khi doanh nghiệp kê khai không hợp lý. Theo đó, khi phát hiện doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá, cơ quan thuế phải chứng minh được dấu hiệu đó để ấn định mức thuế. Tỷ lệ ấn định dựa trên so sánh giá giao dịch với giá tương đương ngoài thị trường; nếu không có giá tương đương thì áp dụng phương pháp ấn định giá mua hay giá bán trên tỷ lệ lợi nhuận trung bình của các doanh nghiệp tương tự. Thứ bảy, Những người thuộc các nền văn hoá khác nhau thì có quan điểm khác nhau đối với cùng một vấn đề. Có thể vấn đề này được chấp nhận ở nền văn hoá này nhưng không nhất thiết phải được chấp nhận ở nền văn hoá khác. Văn hoá của mỗi dân tộc có những nét đặc thù khác biệt nhau, ảnh hưởng của văn hoá đối với mọi chức năng kinh TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 114 doanh quốc tế như tiếp thị, quản lý nguồn nhân công, sản xuất tài chính... ở nhiều nơi, đặc biệt những nơi có tính tự hào dân tộc cao như Nhật Bản, các công ty địa phương cạnh tranh thành công hơn so với công ty nước ngoài do sử dụng văn hoá truyền thống dân tộc để quảng cáo. Khi gặp các môi trường văn hóa bất lợi ở nước đang đầu tư thì các doanh nghiệp thực hiện việc định giá chuyển giao, do việc thuê mướn nhân công, buôn bán của doanh nghiệp đều được điều chỉnh và sở hữu bởi con người. 7. Kết luận Trước các vấn đề đặt ra trong việc kiểm soát các hoạt động chuyển giá của FDIEs, dưới góc nhìn là các nhà quản lý nhà nước thì đây là một hành vi vi phạm pháp luật của Việt Nam nhưng dưới góc nhìn của FDIEs thì đây là một trong số các biện pháp giúp họ bảo toàn được lợi nhuận cho doanh nghiệp khi đầu tư vào Việt Nam. Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu chính là xác định những yếu tố chính nào ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách định giá chuyển giao của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDIEs tại Việt Nam. Kết quả phân tích 515 mẫu dữ liệu phù hợp được thu thập bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện khi khảo sát các đối tượng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam đã cho thấy rằng: tất cả 7 yếu tố được phân tích đều có ảnh hưởng tích cực đến chính sách định giá chuyển giao của FDIEs tại Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học để giúp tác giả có cơ sở khoa học hơn để đưa ra các khuyến nghị về chính sách nhằm góp phần giúp chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền đề ra các chính sách phù hợp để hạn chế được tình trạng định giá chuyển giao ở FDIEs trong thời gian tới. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh (VNU-HCM) mã số đề tài C2019-34-03 TÀI LIỆU THAM KHẢO Atul Dua (2005), Tranfer Pricing-Atax: Corporate and Securities Perspective, IPBA Journal, số 40, tr.22. Burns, J. (1980): Transfer Pricing in U. S. Multinational Corporations, Journal of International Business Studies, 11(2): 23-39. Bộ Tài Chính, Thông tư số 201/2013/TT-BTC hướng dẫn việc áp dụng thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) trong quản lý thuế. Bộ Tài Chính, Thông tư số 66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Bộ Tài Chính, Thông tư số 74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ (2016), Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy định về Greene, J. and M.G. Duerr (1970): Intercompany Transactions in the Multinational Firm, New York: The Conference Board. Gipper, B., Lombardi, B. J., Skinner D. J., (2013). The politics of accounting standard- setting: A review of empirical research. Australian Journal of Management, 38(3) 523– 551. TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019 115 Gruber, H. (2003), Intangible income, Intercompany transactions, income shifting and the choice of location, National Tax Journal 56 (1, Part 2), 221-242. Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976). Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs, and ownership structure. Journal of Financial Economics, 3(4), 305-360. Johnson, W. A. & R. J. Kirsch (1991) International Transfer Pricing and Decision Making in United States Multinationals, International Journal of Management, June, 8(2): 554- 561. Kothari S. P., Ramanna K., Skinner D. J., (2010). Implications for GAAP from an analysis of positive research in accounting. Journal of Accounting & Economics, 50, 246–286. Ken Milani PhD., CPA, And Juan Rivera PhD., CPA (2004): The Rigorous Business of Budgeting for International Operations (Effects of Inflation in the Transfer Pricing). Nguyễn Hữu Ánh, Nguyễn Thị Phương Hoa, Nguyễn Thị Hồng Thúy (2016), Định giá chuyển giao và kiểm soát định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, NXB Đại học Kinh tế quốc dân. Nguyễn Thị Liên Hoa (2003): “Vấn đề chuyển giá trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số đề tài: CS-2004-14. Nguyễn Ngọc Thanh, Phan Đức Dũng, Nguyễn Thị Liên Hoa (2000a): “Các biện pháp chống chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại TP HCM” Đề tài nghiên cứu khoa học, Sở khoa học công nghệ môi trường TP. Hồ Chí Minh. Nguyễn Ngọc Thanh, Phan Đức Dũng, Nguyễn Thị Liên Hoa (2000b) “Vấn đề chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh.” Tài liệu tham khảo. Nhà xuất bản tài chính năm 2000. OECD (2010), Transfer Pricing Guidelines for Multinational Enterprises and Tax Administration. Phan Đức Dũng (1998): “Chính sách chuyển giá của các Công ty đa quốc gia,” Thời báo tài chính Việt Nam, Số 9 (Số 43) 15/9/1998. Quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết ban hành ngày 24/2/2017. Shulman, J.S. (1966): Transfer Pricing in Multinational Business, unpublished DBA Thesis, Harvard University. Tang, R.Y.W. (1981): Multinational Transfer Pricing: Canadian and British Perspectives, Toronto: Butterworths and Co. Ltd.
File đính kèm:
do_luong_cac_nhan_to_anh_huong_den_chinh_sach_dinh_gia_chuye.pdf