Định loài sán lá gan nhỏ opisthorchis viverrini nhiễm trên người bằng kỹ thuật pcr trên hệ gen ty thể tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Sán lá gan nhỏ là vấn đề y tế công cộng quan trọng tại các vùng Đông Á và Đông Âu, bệnh

gây ra bởi loài Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis và loài Opisthorchis lobatus mới.

Hiện tại, có hơn 600 triệu người có nguy cơ nhiễm các sán lá này trên phạm vi toàn cầu. Hầu hết bệnh nhân

nhiễm sán không có triệu chứng, chỉ có 5‐10% số ca nhiễm nặng biểu hiện các triệu chứng không đặc hiệu. Tuy

nhiên, nhiễm nặng và kéo dài có thể dẫn đến một loạt bệnh gan mật (viêm đường mật, viêm túi mật, vàng da do

tắc mật), đặc biệt trên cả mô hình thực nghiệm và dịch tễ học cho bằng chứng nhiễm các sán này là một trong các

nguyên nhân dẫn đến ung thư biểu mô đường mật.

Phương pháp nghiên cứu: Với thiết kế cắt ngang mô tả. Sử dụng kỹ thuật giám định loài PCR trên gen ty

thể xác định và phân biệt loài Clonorchis sinensis và Opisthorchis viverrini.

Kết quả: Kỹ thuật PCR đã xác định loài sán nhiễm trên người là loàiOpisthorchis viverrini.

Kết luận: Việc xác định đặc hiệu là rất cần thiết để hiểu biết về tính đa dạng loài sán lá gan nhỏ tại Việt

Nam cũng như xây dựng bản đồ phân bố trong khu vực Mê Kông, đề ra các biện pháp phòng chống thích hợp

pdf 6 trang phuongnguyen 5940
Bạn đang xem tài liệu "Định loài sán lá gan nhỏ opisthorchis viverrini nhiễm trên người bằng kỹ thuật pcr trên hệ gen ty thể tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Định loài sán lá gan nhỏ opisthorchis viverrini nhiễm trên người bằng kỹ thuật pcr trên hệ gen ty thể tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

Định loài sán lá gan nhỏ opisthorchis viverrini nhiễm trên người bằng kỹ thuật pcr trên hệ gen ty thể tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 540 
ĐỊNH LOÀI SÁN LÁ GAN NHỎ OPISTHORCHIS VIVERRINI 
NHIỄM TRÊN NGƯỜI BẰNG KỸ THUẬT PCR TRÊN HỆ GEN TY THỂ  
TẠI HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ 
Nguyễn Văn Chương*, Bùi Văn Tuấn*, Huỳnh Hồng Quang* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Sán lá gan nhỏ là vấn đề y tế công cộng quan trọng tại các vùng Đông Á và Đông Âu, bệnh 
gây ra bởi loài Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis và loài Opisthorchis lobatus mới. 
Hiện tại, có hơn 600 triệu người có nguy cơ nhiễm các sán lá này trên phạm vi toàn cầu. Hầu hết bệnh nhân 
nhiễm sán không có triệu chứng, chỉ có 5‐10% số ca nhiễm nặng biểu hiện các triệu chứng không đặc hiệu. Tuy 
nhiên, nhiễm nặng và kéo dài có thể dẫn đến một loạt bệnh gan mật (viêm đường mật, viêm túi mật, vàng da do 
tắc mật), đặc biệt trên cả mô hình thực nghiệm và dịch tễ học cho bằng chứng nhiễm các sán này là một trong các 
nguyên nhân dẫn đến ung thư biểu mô đường mật.  
Phương pháp nghiên cứu: Với thiết kế cắt ngang mô tả. Sử dụng kỹ thuật giám định loài PCR trên gen ty 
thể xác định và phân biệt loài Clonorchis sinensis và Opisthorchis viverrini.  
Kết quả: Kỹ thuật PCR đã xác định loài sán nhiễm trên người là loàiOpisthorchis viverrini. 
Kết  luận: Việc xác định đặc hiệu là rất cần thiết để hiểu biết về tính đa dạng loài sán lá gan nhỏ tại Việt 
Nam cũng như xây dựng bản đồ phân bố trong khu vực Mê Kông, đề ra các biện pháp phòng chống thích hợp. 
Từ khóa: Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis 
ABSTRACT 
IDENTIFICATION OF Opisthorchis viverrini BY A MITOCHONDRIAL‐BASED MULTIPLEX PCR  
IN HUONG HOA DISTRICT, QUANG TRI PROVINCE 
Nguyen Van Chuong, Bui Van Tuan, Huynh Hong Quang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 540 – 545 
Backgrounds:  Liver  fluke  infection  caused  by Opisthorchis  viverrini, Opisthorchis  felineus, Clonorchis 
sinensis,  and  new Opisthorchis  lobatus  is  a major  public  health  problem  in East Asia  and Eastern Europe. 
Currently,  more  than  600  million  people  are  at  risk  of  infection  with  these  trematodes. Most  people  with 
opisthorchiasis  or  clonorchiasis have no  symptoms,  only 5‐10%  of  infected people with heavy  load have non‐
specific  symptoms. Nonetheless,  heavy,  long‐standing  infection  is  associated with  a  number  of  hepatobiliary 
diseases (cholangitis, obstructive jaundice, cholecystitis), especially, both experimental and epidemiologic evidence 
strongly implicates these fluke infection in the aetiology of one of the liver cancer subtypes as cholangiocarcinoma.  
Methods:  A  cross  sectional  study  was  conducted. A mitochondrial‐based multiplex  PCR was  used  to 
identify and discriminate of Clonorchis sinensis and Opisthorchis viverrini species.  
Result: Themultiplex PCR technique in identification of adults fluke from infected patients was Opisthorchis 
viverrini.  
Conclusion: Specific  identification  is necessary  for understanding of  the  liver  fluke diversity  in Vietnam, 
mapping of its distribution in Mekong region, and propose proper control measures. 
Key words: Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis 
* Viện Sốt rét KST‐CT Quy Nhơn g 
Tác giả liên lạc: TS. Huỳnh Hồng Quang     ĐT: 0905103496  Email: huynhquangimpe@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  541
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh  sán  lá  gan  nhỏ  (SLGN)  là một  trong 
những bệnh ký sinh  trùng  lây  truyền qua  thức 
ăn  quan  trọng,  với  3  loài  chính  Opisthorchis 
viverrini  (O.viverrini),  Clonorchis  sinensis  (C. 
sinensis) và Opisthorchis  felineus (O.  felineus), gây 
ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người, 
đặc biệt dẫn đến ung  thư biểu mô đường mật. 
SLGN  hiện  là  mối  nguy  cơ  và  đe  dọa  đến 
khoảng 600  triệu người  trên phạm vi  toàn cầu, 
đặc biệt tại khu vực Đông Á và Đông Âu(3). Loài 
O.  viverrinilưu  hành  chủ  yếu  ở  các  quốc  gia 
Đông Nam Á, gồm Thái Lan, Lào, Việt Nam và 
Campuchia; C. sinensis thường gặp ở vùng nông 
thôn  tại Hàn Quốc  và  Trung Quốc(6).  Tại Việt 
Nam, bệnh SLGL nhỏ  lưu hành  ít nhất 25  tỉnh, 
thành, trong đó 15 tỉnh phía bắc và 10 tỉnh miền 
Trung‐Tây Nguyên(7,8) với  tỷ  lệ nhiễm  từ 0,2  ‐ 
37%. Hầu hết người bệnh SLGN không có triệu 
chứng, chỉ có 5‐10% số ca nhiễm nặng xuất hiện 
các triệu chứng không đặc hiệu như đau hạ sườn 
phải, khó  tiêu và suy nhược. Tuy nhiên, nhiễm 
trùng nặng và kéo dài có  liên quan đến một số 
loại bệnh gan mật, gồm có viêm đường mật, tắc 
mật vàng da, gan lớn, xơ gan viêm túi mật và sỏi 
túi mật,  thậm  chí gây ung  thư biểu mô  đường 
mật hoặc ung thư đường mật(2,7).  
Người bị mắc bệnh SLGN là do ăn phải một 
số  loài cá nước ngọt có chứa ấu trùng sán chưa 
được nấu chín, hoặc ăn sống dạng gỏi cá. Vốn dĩ 
thói quen của một số vùng ven biển miền Trung, 
thích  ăn  các  món  cá  nước  ngọt  dưới  dạng 
“shasimi” (ăn với mù tạt hoặc dạng gỏi) hoặc xử 
lý  chưa  chín  (tái) như một yếu  tố nguy  cơ  cao 
nhiễm mầm  bệnh  SLGN. Huyện Hướng Hóa, 
tỉnh Quảng Trị với 6 xã vùng  rìa giáp với biên 
giới Lào qua sông Sepon với đa dạng nhiều loài 
cá nước ngọt  có  thể  là nguồn  thực phẩm hàng 
ngày cho người dân hai bên sông, cùng với tập 
quán ăn gỏi cá nước ngọt nên khả năng có  lưu 
hành bệnh SLGN  là  rất  lớn(6). Với ý  tưởng xác 
định loài SLGN lưu hành cũng như đề xuất biện 
pháp  phòng  chống  thích  hợp,  đề  tài  này  tiến 
hành nhằm mục tiêu xác định loài SLGN ký sinh 
ở  người  và  ở  các  vật  chủ  trung  gian  tại  điểm 
nghiên cứu bằng ký thuật phân tử.  
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Địa điểm và thời gian 
Xã  Thanh  và  Xy,  huyện Hướng Hóa,  tỉnh 
Quảng Trị (xã giáp với biên giới Lào); 
Từ tháng 4/2013 đến tháng 6/2013. 
Đối tượng nghiên cứu 
Người dân trong 2 xã được chọn, chọn từ 5 
tuổi trở lên; 
Mẫu SLGN thu thập được trên người và trên 
vật chủ trung gian cá. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu. 
Theo phương pháp nghiên cứu ngang mô tả. 
Cỡ mẫu nghiên cứu  tỷ  lệ nhiễm SLG nhỏ,  theo 
công thức: 
      p.(1 ‐ p) 
n = Z2(1‐  /2)  
          d2 
Trong đó: 
n : Cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được; 
p: Tỷ  lệ nhiễm SLGN  từ một điều  tra  thăm 
dò trước (pilot survey) = 13,5%    
d: Sai số tuyệt đối, chọn 0,04. 
Z(1 ‐  /2): Hệ số tin cậy = 1,96 (với   = 0,05, độ 
tin cậy CI = 95% ) 
Vậy  cỡ mẫu  sẽ  là: n  ≈  280,3  cho mỗi  điểm 
nghiên cứu. 
Cộng thêm những người mất mẫu + 10% số 
ca, vậy cỡ mẫu cuối cùng  là 300 cho mỗi điểm. 
Tính trung bình mỗi hộ 4 người, chọn 75 hộ cho 
mỗi điểm. 
Nội dung nghiên cứu 
Nghiên cứu tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá gan 
bằng kỹ thuật Kato‐katz; 
Thu  thập  sán  trưởng  thành  trên  người  và 
định loại bằng hình thái học và giám định PCR; 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 542 
Kỹ thuật nghiên cứu 
Xét nghiệm phân Kato‐Katz: Các mẫu phân 
thu thập được; 
Kỹ thuật định loại SLGN bằng hình thái học 
(phân loại Nguyễn Thị Lê, 1995); 
Kỹ  thuật  giám  định  loài  SLGN  bằng  PCR: 
ADN  tổng số của  từng con sán riêng biệt được 
tách  chiết  bằng  QIAamp  DNA  Extraction  kit 
(QIAGEN  Inc, USA). Mồi  được  sử dụng  trong 
phản ứng này  là các cặp mồi đặc hiệu được sử 
dụng  để  chẩn  đoán  phân  biệt  O.  viverrini  với 
C.sinensis (Le và cs, 2006), cho sản phẩm PCR xác 
định O.viverrini có độ dài là 1357 bp và C.sinensis 
là 612 bp; 
Phân tích và xử lý số liệu 
Nhập số  liệu vào phần mềm Epidata và xử 
lý trên chương trình Stata. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Thực trạng SLGN tại các điểm nghiên cứu 
Bảng 1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm SLGN chung ở 2 
xã qua xét nghiệm phân 
Địa điểm Số XN Số ca phát hiện 
trứng sán 
Số trứng trên 
1 gam phân 
Thanh 302 35 (11,59%) 33,38 
Xy 304 34 (11,18%) 29,52 
Cộng 606 69 (11,39%) 31,4 
Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm sán tại 2 xã là 11,39%, 
trong  đó  tại  xã  Thanh  là  11,59%  và  xã  Xy  là 
11,18%.  Cường  độ  nhiễm  sán  tại  xã  Thanh  là 
33,38  trứng/gam  phân,  tại  xã  Xy  là  29,52 
trứng/gam phân. 
Kết quả điều  tra  loài SLGN  ở người và  ở 
vật chủ trung gian 
Bảng 2. Kết quả XN đãi phân thu thập SLGN 
trưởng thành 
Địa điểm Số ca XN phân Số ca có sán 
(+) 
Lượng sán thu 
được 
Xã Thanh 5 2 44 
Xã Xy 6 1 19 
Cộng 11 3 63 
Nhận xét: Trong số 35 ca (xã Thanh) và 34 ca 
(xã Xy) nhiễm SLGN, chỉ chọn 5 ca  (xã Thanh) 
và 6 ca (xã Xy) đưa đi đãi phân để xác định hình 
thái học và phân học phân tử định loài SLGN. Số 
ca  được  cho  uống  thuốc  và  đãi  phân  tìm  sán 
trưởng thành là 11 ca, song chỉ có 3 ca thu thập 
được sán  trưởng  thành,  tổng số sán  lá gan nhỏ 
thu thập được là 63 con. 
Định loài bằng hình thái học 
Hình 1. Hình thể SLGN trưởng thành 
Nhận xét: Xác định hình  thái 6 mẫu sán cho 
thấy  cơ  thể  sán  mảnh,  màu  hồng  nhạt  khi 
nhuộm  Carmine,  giác miệng  ở  đầu  nhỏ,  giác 
bụng  tròn  nằm  ở  1/3  phía  dưới,  tử  cung  gấp 
khúc nhiều lần, chứa đầy trứng, đặc biệt là tinh 
hoàn phân nhánh hình thùy nằm ở phía cuối cơ 
thể. Dựa vào khóa phân loại, căn cứ hình thái và 
kích  thước  của  sán,  loài  sán  ở xã Thanh và Xy 
thuộc  loài Opisthorchis viverrini  (Cobbold, 1875), 
giống  Opisthorchis  (Looss,  1907),  họ 
Opisthorchidae  (Braun,  1901),  bộ  Opisthorchiida 
(La Rue, 1957). 
Giám định SLGN bằng kỹ thuật PCR 
Hình  2. Kết  quả  điện  di  sản  phẩm  PCR  của mẫu 
SLGN sử dụng cặp mồi OvF‐OvR Giếng 1: Chứng  
(‐) Giếng 2: Chứng (+) O. viverrini, 1357bp Giếng 3‐
8: Mẫu SLGN  thu nhận  tại  điểm. Giếng  9: Thang 
chuẩn DNA (1kb DNA ladder). 
1kb 
1,5kb
O. 
viverrini 
~1357bp 
 1  2  3  4  5  6  7   8  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  543
Phản  ứng  PCR  thực  hiện  bằng  mồi  đặc 
hiệu C. sinensis (CsF‐CsR) với các mẫu sán, kết 
quả cho thấy không có sản phẩm PCR nào thu 
được  từ các mẫu sán này, ngoại  trừ một vạch 
DNA của C. sinensis đã được giám định bằng 
phân tử dùng làm chứng (+) (612 bp, giếng 3). 
Từ kết quả giám  định này  cho  thấy mẫu  sán 
thu nhận tại xã Thanh và xã Xy không phải là 
C. sinensis. 
BÀN LUẬN 
Bệnh  SLGN  gây  ảnh  hưởng  nghiêm  trọng 
đến  sức  khỏe  con  người,  song  các  hoạt  động 
phòng chống hiệu quả vẫn chưa được triển khai 
bao  phủ.  Bệnh  SLGN  lưu  hành  ở  những  tỉnh/ 
thành  có  tập  quán,  thói  quen  ăn  gỏi  cá  nước 
ngọt,  điều  kiện  vệ  sinh  môi  trường  kém.  Xã 
Thanh  và  xã  Xy,  là  2  xã  thuộc  huyện Hướng 
Hóa,  tỉnh  Quảng  Trị  giáp  với  Lào  qua  sông 
Sepon, người dân ở đây chủ yếu là dân tộc Vân 
Kiều và một số ít người Kinh hoặc Paco vào đây 
buôn bán hoặc  là cán bộ  tăng cường và bộ đội 
biên phòng. Việc quản  lý phân nói  riêng và vệ 
sinh môi trường nói chung còn “khoảng trống” 
(tỷ lệ hộ có hố xí chỉ khoảng 50%, nhưng đa số là 
hố xí đào chưa hợp vệ sinh). Tập quán ăn gỏi cá 
ở đây đã có từ lâu và người dân xem món ăn gỏi 
cá là món “khoái khẩu”. 
Tỷ lệ và cường độ nhiễm SLGN tại hai xã 
nghiên cứu 
Để xác định tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm 
SLGN, xét nghiệm phân kỹ thuật Kato‐Katz cho 
302 người  tại xã Thanh và 304 đối  tượng  tại xã 
Xy. Số liệu về tỷ lệ nhiễm SLGN chung tại 2 xã là 
11,39%, trong đó tại xã Thanh là 11,59% và xã Xy 
là  11,18%,  không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa 
thống kê. So với kết quả nghiên cứu của Nguyễn 
Văn Chương năm 1992 tại Phú Yên (36,97%) và 
năm 2002 tại Bình Định (20,17%) thì kết quả này 
thấp hơn, điều này tùy thuộc vào tỷ lệ ăn gỏi cá 
của người dân, hoặc điều kiện vệ sinh, Nhưng 
so với nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn và cộng sự 
năm 2007 tại xã Đăk Môn, huyện Đăk Glei, tỉnh 
Kon Tum(4,1) với tỷ lệ nhiễm SLGN là 10,45% thì 
kết quả này có cao hơn.  
Theo kết quả của bảng 3.5, cường độ nhiễm 
SLGN  tại  xã  Thanh  là  33,38  trứng  trên  1  gam 
phân, tại xã Xy  là 29,52 trứng trên 1 gam phân. 
Cường  độ  nhiễm  trung  bình  của  2  xã  là  31,4 
trứng/ gam phân. Khi  so  sánh với kết quả  của 
Nguyễn Văn Chương và Đỗ Thái Hòa, cho thấy 
cường độ nhiễm trung bình trong nghiên cứu tại 
xã Thanh và xã Xy thấp hơn so với ở Mỹ Chánh, 
Bình Định  (228  trứng/gam), An Mỹ  (225  trứng/ 
gam) và Nga An (229,5 trứng/ gam). Điều này có 
lẽ  do  tần  suất  ăn  gỏi  cá  các  đối  tượng  trong 
nghiên cứu này  thấp hơn  tần suất  tại các điểm 
nghiên cứu tác giả trên. 
Xác định loài SLGN tại xã Thanh và xã Xy 
Loài SLGN trên người 
Trong  số 69  trường hợp nhiễm SLGN xác 
định qua chuẩn vàng soi trứng trong phân đều 
được điều trị thuốc đặc hiệu, song để phục vụ 
có định loại sán, số ca được cho uống thuốc và 
đãi phân tìm SLGN trưởng thành là 11 ca, tuy 
nhiên  chỉ  có  3/11  ca  đó  thu  thập  được  sán 
trưởng  thành, với  tổng  số  sán  thu  được  là 63 
con. Thực hiện khâu định  loại bằng hình  thái 
học và phân tích sinh học phân tử, trong số 63 
mẫu  sán  đại diện  từ  3  cá  thể,  chọn  ra  6 mẫu 
(mỗi cá  thể 2 mẫu) dùng  trong định  loại hình 
thái và 6 mẫu  (mỗi cá  thể 2 mẫu) dùng  trong 
định loại theo PCR. 
Kết quả xác định 6 mẫu sán tại điểm nghiên 
cứu sán có cơ thể sán mảnh, màu hồng nhạt khi 
nhuộm  carmine,  giác  miệng  ở  đầu  nhỏ,  giác 
bụng tròn nằm ở phần ba phía dưới, tử cung gấp 
khúc nhiều lần, chứa đầy trứng, đặc biệt là tinh 
hoàn  hình  thùy  nằm  ở  phía  cuối  cơ  thể.  Đối 
chiếu  với  phân  loại,  căn  cứ  hình  thái  và  kích 
thước cho biết SLGN ở xã Thanh và xã Xy thuộc 
loài  O.  viverrini  (Cobbold,  1875),  giống 
Opisthorchis  (Looss,  1907),  họ  Opisthorchidae 
(Braun,  1901),  bộ Opisthorchiida  (La Rue,  1957). 
Kết quả hình thái học, cho thấy loài SLGN giống 
như  loài  sán  thu  thập  được  ở  xã  Đăk  Môn, 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 544 
huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum mà nhóm nghiên 
cứu từng phát hiện(4,1). 
Để  giám  định  về mặt  phân  tử  loài  sán O. 
viverrini  tại  điểm  nghiên  cứu  đồng  thời  cũng 
không thể loại trừ khả năng loài SLGN tại đây có 
thể là một chủng lai giữa Opisthorchis ‐ Clonorchis 
nên cần thiết tiến hành kỹ thuật PCR. Phản ứng 
PCR  được  thực  hiện  với  mồi  đặc  hiệu  cho 
O.viverrini  (OvF‐OvR)  với  DNA  tổng  số  được 
tách chiết từ các mẫu sán thu nhận tại xã Thanh 
và xã Xy, sản phẩm điện di cho thấy sản phẩm 
PCR  thu được  từ các mẫu SLGN có kích  thước 
bằng với kích thước mẫu sán O.viverrini đã được 
giám định bằng phân tử dùng làm chứng dương 
(kích  thước  1357  bp),  sản  phẩm  PCR  của  các 
mẫu sán được giám định loài là đoạn DNA hiển 
thị rất rõ và đơn băng, chứng tỏ chất liệu DNA 
của SLGN ở xã Thanh và xã Xy rất đặc hiệu với 
cặp mồi dùng giám định O.viverrini (OvF‐OvR), 
từ kết quả giám định này cho thấy mẫu sán thu 
nhận tại xã Thanh và xã Xy là O. viverrini. 
Phản ứng PCR được thực hiện bằng cặp mồi 
đặc  hiệu  cho  O.viverrini  (OvF‐OvR)  với  DNA 
tổng số(7)được  tách chiết  từ các mẫu SLGN  thu 
nhận tại xã Thanh và xã Xy, kết quả cho thấy sản 
phẩm PCR  thu  được  từ các mẫu SLGN này có 
kích thước bằng với kích thước của mẫu sán O. 
viverrini đã được giám định bằng phân tử dùng 
làm chứng dương  (kích  thước khoảng 1357 bp, 
giếng 3), sản phẩm PCR của các mẫu sán được 
giám  định  loài  là  đoạn DNA hiển  thị  rất  rõ và 
đơn băng, chứng tỏ khuôn DNA của SLG nhỏ ở 
xã Thanh và xã Xy  là hết sức đặc hiệu với cặp 
mồi dùng giám định O.viverrini  (OvF‐OvR). Từ 
kết quả giám định này cho thấy các mẫu sán thu 
nhận  tại  xã Thanh  và  xã Xy  là O.viverrini. Kết 
quả giám định PCR cho thấy loài sán O.viverrini 
ở đây cũng giống như ở xã Đăk Môn, huyện Đăk 
Glei, tỉnh Kon Tum. 
Đồng  thời  phản  ứng  PCR  được  thực  hiện 
bằng cặp mồi đặc hiệu cho C.sinensis  (CsF‐CsR) 
với DNA  tổng  số  được  tách  chiết  từ  các mẫu 
SLGN thu nhận tại xã Thanh và xã Xy, kết quả 
cho thấy không có sản phẩm PCR nào thu được 
từ các mẫu SLGN này ngoại trừ một vạch DNA 
của C.sinensis đã được giám định bằng phân tử 
dùng làm chứng dương (kích thước khoảng 612 
bp, giếng 3). Từ kết quả giám định này cho thấy 
các mẫu  sán  thu  nhận  tại  xã  Thanh  và  xã  Xy 
không phải  là C.sinensis. Từ kết quả giám  định 
cho thấy các mẫu sán thu nhận tại xã Thanh và 
xã Xy là O.viverrini.  
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ, cường độ nhiễm SLGN tại các điểm 
nghiên cứu 
Tại  xã Thanh  và  xã Xy  có  bệnh  SLGN  lưu 
hành,  tỷ  lệ nhiễm chung 11,39%,  trong đó  tỷ  lệ 
nhiễm  tại  xã  Thanh  là  11,59%,  tại  xã  Xy  là 
11,18%. Cường độ nhiễm SLGN tại xã Thanh là 
33,38  trứng/gam  phân,  tại  xã  Xy  là  29,52 
trứng/gam phân. 
Loài SLGN tại các điểm nghiên cứu 
Loài SLGN tại các điểm nghiên cứu thu thập 
trên người qua định  loại bằng hình  thái học và 
giám định sinh học phân tử là loài O. viverrini. 
KIẾN NGHỊ 
Đẩy mạnh  công  tác  tuyên  truyền  giáo dục 
nâng  cao  kiến  thức  phòng  chống  bệnh  SLGN 
cộng đồng tại xã Thanh và Xy. Vận động người 
dân từ bỏ tập quán ăn gỏi cá, nâng cao tỷ lệ hộ 
có hố xí hợp vệ sinh; 
Nghiên  cứu này  chưa giải  trình  tự đề xác 
định sự tương đồng về  loài O. viverrini tại hai 
điểm  này  nên  sẽ  là một  hạn  chế  trong  phân 
tích sâu về mặt gen học, đồng thời điểm này sẽ 
là  định hướng nghiên  cứu  tiếp  theo  để  đánh 
giá cũng như so sánh  tương đồng  trong ngân 
hàng gen.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương (2011). Thực trạng nhiễm 
sán lá gan nhỏ tại xã Đak Môn. huyện Đak Glei. tỉnh Kon Tum. 
Tạp chí Y học thực hành. 796. 165‐168. 
2. Honjo S, Srivatanakul P, Sriplung H,  et al, (2005). Genetic and 
environmental determinants of risk for cholangiocarcinoma via 
Opisthorchis  viverrini  in  a  densely  infested  area  in Nakhon 
Phanom. northeast Thailand. Int J Cancer. 117: 854–860. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  545
3. Keiser  J, Utzinger  J  (2005). Emerging  foodborne  trematodiasis. 
Emerg Infect Dis. 11: 1507–1514. 
4. Nguyễn  Văn  Chương, Nguyễn  Văn  Khá  và  cộng  sự  (2003). 
Nghiên cứu thực trạng nhiễm sán lá gan nhỏ và đánh giá hiệu 
quả của mộtsố biện pháp can thiệp ở 3 xã của huyện Phù Mỹ. 
tỉnh Bình Định. Hội nghị khoa học ngành Y tế ‐ Bình Định. Tr.23 
‐ 28. 
5. Nguyễn Văn  Đề, Lê Thanh Hoà và  cộng  sự  (2007). Xác  định 
thành phần  loài sán  lá thường gặp ở Việt Nam bằng sinh học 
phân tử “. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 11(2)80 ‐ 88. 
6. Sithithaworn  P,  Andrews  RH,  Nguyen  VD,  Wongsaroj  T, 
Sinuon  M,  Odermatt  P  (2012).  The  current  status  of 
opisthorchiasis and clonorchiasis  in the Mekong basin.Parasitol 
Int. 61:10–6. 
7. Sriamporn S, Pisani P, Pipitgool V, Suwanrungruang K, Kamsa‐
ard S, et al, (2004). Prevalence of Opisthorchis viverriniinfection 
and incidence of cholangiocarcinoma in Khon Kaen. Northeast 
Thailand. Trop Med Int Health. 9: 588–594. 
8. Trung DD, Van DN, Waikagul  J, Dalsgaard A, Chai  JY, Sohn 
WM  (2007).  Fishborne  zoonotic  intestinal  trematodes  in 
Vietnam.Emerg Infect Dis.13:1828–33. 
Ngày nhận bài báo:       16/5/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   23/6/2014 
Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

File đính kèm:

  • pdfdinh_loai_san_la_gan_nho_opisthorchis_viverrini_nhiem_tren_n.pdf