Định hướng giá trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay - Lý luận và thực tiễn

Tóm tắt:

Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, việc xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức (CBCCVC) có chất lượng là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Việc xây dựng đội ngũ CBCCVC đòi hỏi một

quá trình và cần có định hướng giá trị đúng đắn, bởi định hướng giá trị sẽ tạo nên nền tảng gắn kết sức mạnh của

một nền công vụ, cơ sở của quản trị nhà nước tốt, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay. Từ

lý luận và thực tiễn có được, các tác giả đề xuất 3 nội dung và 4 giải pháp cho định hướng giá trị của CBCCVC ở

Việt Nam.

pdf 6 trang phuongnguyen 13920
Bạn đang xem tài liệu "Định hướng giá trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay - Lý luận và thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Định hướng giá trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay - Lý luận và thực tiễn

Định hướng giá trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay - Lý luận và thực tiễn
59
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
Giới thiệu 
Một trong những quan điểm có tính đột phá của Đảng 
về phát triển đất nước giai đoạn đổi mới, chủ động hội nhập 
quốc tế là xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt 
Nam, xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong 
kinh tế. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là xây dựng 
đội ngũ CBCCVC đáp ứng yêu cầu đó. Đã có một số công 
bố liên quan tới vấn đề này, tuy vậy định hướng giá trị là 
một vấn đề đang thu hút sự quan tâm của xã hội. Từ lý 
luận và thực tiễn có được, bài báo đề xuất một số nội dung 
và giải pháp cho định hướng giá trị của CBCCVC ở Việt 
Nam. 
Cơ sở lý luận về định hướng giá trị cho đội ngũ CBCCVC
Giá trị đội ngũ CBCCVC và giá trị văn hóa, con người
Giá trị con người, định hướng giá trị: giá trị (value) hiểu 
một cách khái quát là khái niệm chỉ ý nghĩa của các hiện 
tượng vật chất cũng như tinh thần mà mỗi cộng đồng người 
quan tâm, dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu hay lợi ích nhất 
định. Trong các giá trị xã hội, giá trị con người là giá trị đặc 
biệt. Giá trị con người là khái niệm phản ánh về phẩm chất, 
đạo đức, năng lực của con người, trên cơ sở những đánh giá 
về các mối quan hệ mà cá nhân con người ứng xử với nhau, 
ứng xử với cộng đồng, với môi trường sống (cả tự nhiên 
và xã hội) và với bản thân. Chỉ những giá trị tiêu biểu của 
con người mới trở thành chuẩn mực, mang tính nguyên tắc, 
khuôn mẫu được cộng đồng xã hội thừa nhận. Định hướng 
giá trị chính là sự lựa chọn những giá trị có ý nghĩa, bằng 
các phương thức trao truyền văn hóa để hiện thực hóa các 
giá trị đó, nhằm phát triển con người và xã hội.
Đội ngũ cán bộ, công chức là thành tố quan trọng, cấu 
thành của một nền công vụ (cùng với thể chế công vụ; tổ 
chức, bộ máy; hệ thống công sở và ngân sách; công nghệ 
quản trị và công nghệ thông tin trong hoạt động công vụ...). 
Đội ngũ cán bộ, công chức là chủ thể trực tiếp thực thi các 
hoạt động công vụ. Họ là những người được nhà nước ủy 
quyền để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước 
trong quản lý xã hội, phục vụ lợi ích nhà nước và xã hội theo 
một mục đích nhất định. Giá trị của đội ngũ công chức là 
nền tảng quan trọng của văn hóa công vụ, tác động đến hiệu 
quả quản lý nhà nước của một nền công vụ.
Nội dung giá trị đội ngũ CBCCVC thể hiện ở lý tưởng 
xã hội; văn hóa đạo đức, lối sống, chuẩn mực ứng xử; trung 
thực, trách nhiệm, kỷ luật; chuyên nghiệp, bản lĩnh.
Giá trị đội ngũ CBCCVC và giá trị văn hóa, con người: 
giá trị đội ngũ CBCCVC là giá trị văn hóa, con người mang 
tính đặc thù. Bởi thứ nhất, bản chất của văn hóa là hệ thống 
các giá trị mang tính lịch sử do con người sáng tạo vì nhu 
cầu, để thích ứng, tồn tại và phát triển. Là sản phẩm của 
con người, song chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo lập 
môi trường nhân văn để trong đó con người hoàn thiện nhân 
cách. Nói đến văn hóa là nói đến con người, con người văn 
hóa là chủ thể và sản phẩm của mọi sáng tạo. Nói cách khác, 
giá trị văn hóa bao hàm giá trị con người, giá trị con người là 
cốt lõi của giá trị văn hóa. Thứ hai, văn hóa biểu hiện năng 
lực con người trên mọi phương diện, trong đó có năng lực 
Định hướng giá trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức 
ở nước ta hiện nay - Lý luận và thực tiễn
Lê Thị Lan Anh1, Nguyễn Thị Hương2*
1Trường Đại học Dược Hà Nội
2Viện Văn hóa và Phát triển
Ngày nhận bài 24/2/2020; ngày chuyển phản biện 28/2/2020; ngày nhận phản biện 24/3/2020; ngày chấp nhận đăng 30/3/2020
Tóm tắt:
Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, việc xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức, 
viên chức (CBCCVC) có chất lượng là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Việc xây dựng đội ngũ CBCCVC đòi hỏi một 
quá trình và cần có định hướng giá trị đúng đắn, bởi định hướng giá trị sẽ tạo nên nền tảng gắn kết sức mạnh của 
một nền công vụ, cơ sở của quản trị nhà nước tốt, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay. Từ 
lý luận và thực tiễn có được, các tác giả đề xuất 3 nội dung và 4 giải pháp cho định hướng giá trị của CBCCVC ở 
Việt Nam.
Từ khóa: cán bộ, công chức, viên chức; chất lượng; định hướng giá trị; giá trị.
Chỉ số phân loại: 5.11
*Tác giả liên hệ: Email:huongkaht@gmail.com
60
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
tổ chức quản lý xã hội. Văn hóa công vụ là văn hóa tổ chức 
xã hội đặc thù, được phản ánh qua giá trị đội ngũ CBCCVC. 
Trong mối quan hệ này, giá trị con người nói chung, 
giá trị của đội ngũ CBCCVC nói riêng - không phải là một 
thành tố độc lập bên cạnh, hay ngang hàng với giá trị văn 
hóa, mà là bộ phận của giá trị văn hóa, nằm trong giá trị văn 
hóa - biểu hiện cốt lõi của văn hóa. Cho nên nói đến giá trị 
văn hóa, thì đã bao hàm cả giá trị con người. Khi nói giá trị 
con người, hay giá trị, chuẩn mực con người là nhằm nhấn 
mạnh tầm quan trọng, cối lõi của giá trị con người trong giá 
trị văn hóa [1]. 
Vai trò định hướng giá trị cho đội ngũ CBCCVC
Trong nguồn nhân lực xã hội của các quốc gia trên thế 
giới, đội ngũ công chức là bộ phận đặc biệt quan trọng, 
quyết định sự phát triển xã hội. Định hướng giá trị cho đội 
ngũ CBCCVC là một trong những cơ sở quan trọng để xây 
dựng đội ngũ. Vai trò của định hướng giá trị thể hiện ở các 
nội dung sau:
Một là, định hướng giá trị là cơ sở để xây dựng niềm tin, 
lý tưởng xã hội và khát vọng làm việc, cống hiến của đội 
ngũ CBCCVC vì sự phát triển bền vững và hội nhập của đất 
nước. Động lực làm việc của CBCCVC thể hiện tinh thần 
yêu nước, trung thành với Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên 
định đường lối của Đảng, chấp hành nghiêm luật pháp của 
Nhà nước. Mỗi cán bộ, công chức luôn phải nâng cao tinh 
thần trách nhiệm, chủ động, tích cực, tự giác hoàn thành 
nhiệm vụ. Định hướng giá trị, chuẩn mực không những tác 
động đến xây dựng đội ngũ CBCCVC, mà còn ảnh hưởng, 
chi phối sâu sắc đến cuộc sống cộng đồng xã hội. Bởi hệ giá 
trị, chuẩn mực con người nói chung, đội ngũ CBCCVC nói 
riêng, phản ánh những điều mong muốn và trải nghiệm của 
cá nhân và cộng đồng.
Hai là, định hướng giá trị là cơ sở để xây dựng văn hóa 
đạo đức của công chức. Văn hóa đạo đức của công chức 
thể hiện ở lối sống, nếp sống, thói quen trong sinh hoạt, khi 
thực hành công vụ. Mỗi CBCCVC phải là một tấm gương 
sáng cho xã hội noi theo. Định hướng giá trị là cơ sở của 
chức năng quy phạm hóa con người, điều chỉnh hành vi của 
cá nhân con người CBCCVC. Cá nhân con người trong đội 
ngũ trước hết phải tuân theo hệ giá trị, chuẩn mực chung, 
đồng thời cũng phải tuân theo những nguyên tắc ứng xử đối 
với con người, xã hội theo nhiệm vụ xã hội đã được phân 
công. Đây là một trong những cơ sở để chống lại nhận thức 
và hành vi tiêu cực, cửa quyền, tham nhũng.
Ba là, định hướng giá trị là xác định hệ giá trị, chuẩn 
mực - hệ quy chiếu để mỗi CBCCVC tự xem xét bản thân, 
nâng cao tính tự giác, tinh thần kỷ luật, hợp tác, tự chịu 
trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao. Định hướng giá trị 
đội ngũ CBCCVC, vì thế còn là điều kiện, môi trường quan 
trọng cho thành viên đội ngũ phát triển các giá trị cá nhân. 
Điều này cho thấy, trong mối quan hệ với hệ giá trị, chuẩn 
mực văn hóa, con người - một mặt cá nhân phải hướng đến 
quy phạm hóa, nhưng mặt khác, tùy theo cá nhân và nhóm 
cộng đồng xã hội mà có thể phát triển các giá trị riêng, giá 
trị đặc trưng. Giá trị của đội ngũ CBCCVC mang ý nghĩa 
đặc trưng trong hệ giá trị xã hội.
Bốn là, định hướng giá trị của đội ngũ CBCCVC góp 
phần xây dựng văn hóa công vụ. Đội ngũ công chức, viên 
chức trong một quốc gia là chủ thể quan trọng của văn hóa 
công vụ*. Cùng với hệ giá trị của một nền công vụ, giá trị 
đội ngũ phản ánh trình độ của nền công vụ đó trong quản 
lý đất nước. Chính vì vậy, xây dựng hệ giá trị của đội ngũ 
góp phần khẳng định truyền thống, bản sắc riêng của mỗi 
Value orientation for civil 
servants and public employees 
in Vietnam today: 
Theory and practice
Thi Lan Anh Le1, Thi Hương Nguyen2*
1Hanoi University of Pharmacy
2Institute of Culture and Development
Received 24 February 2020; accepted 30 March 2020
Abstract:
To satisfy the requirements of the new development 
stage, developing qualified civil servants and public 
employees has been an especially important and urgent 
problem. This issue has required a process and accurate 
value orientation, creating the foundation for connecting 
strength of the civil service and forming a basis for State 
administration, thereby meeting the requirement of the 
national development in the current context. From these 
results, the authors proposed 3 contents and 4 solutions 
for value orientation of the civil servants and public 
employees in Vietnam at present.
Keywords: civil servants and public employees, quality, 
value, value orientation. 
Classification number: 5.11
*Quan niệm về cấu trúc của văn hóa công vụ, gồm: hệ giá trị, chuẩn mực của tổ 
chức công vụ được tuyên bố và chia sẻ; hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa 
trong các cơ quan công quyền; đội ngũ cán bộ, công chức...
61
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
nền công vụ trong những giai đoạn lịch sử của một quốc gia. 
Hệ giá trị con người nói chung và giá trị đội ngũ CBCCVC 
nói riêng trong một xã hội mang tính khách quan. Một xã 
hội muốn tồn tại, phát triển phải xây dựng được hệ giá trị, 
chuẩn mực để định hướng, bắt buộc các thành viên phải 
thực hành, nếu không xã hội sẽ rối loạn. Giá trị, chuẩn mực 
của CBCCVC là giá trị của chủ thể một nền công vụ, vì thế 
có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ giá trị văn hóa, con 
người.
Cơ sở thực tiễn định hướng giá trị cho đội ngũ CBCCVC ở 
nước ta hiện nay 
Về số lượng, chất lượng đội ngũ
Cán bộ, công chức là những người đã được các cơ quan 
nhà nước tuyển dụng, sử dụng, bố trí vào bộ máy công 
quyền. Việt Nam hiện có đội ngũ công chức, viên chức 
nhiều nhất Đông Nam Á. Theo Tổng cục Thống kê, tính 
đến ngày 1/7/2017, Việt Nam có hơn 3,8 triệu CBCCVC và 
người hưởng lương (tăng 11,3% so với năm 2012). Trong 
đó, khối đơn vị hành chính có số cán bộ, công chức và người 
hưởng lương vào khoảng 1 triệu người (tăng gần 6% so với 
năm 2012). Số CBCCVC thuộc khối sự nghiệp công lập 
như giáo dục, y tế, văn hóa thể thao... là 2,5 triệu người 
(tăng hơn 14,7% so với năm 2012). Con số này ở đơn vị tổ 
chức chính trị, đoàn thể, hiệp hội là trên 237.000 người [2]. 
Từ đó có thể thấy rằng, nếu tính trên 26,9 triệu người lao 
động, hiện Việt Nam cứ khoảng 7 lao động phải “nuôi” một 
công chức, viên chức và người hưởng lương.
Với số lượng CBCCVC và người hưởng lương lớn như 
vậy, nên tháng 4/2015, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 
39/NQ-TW về tinh giản biên chế và đặt ra lộ trình tinh giản 
biên chế cụ thể đến năm 2021 [3] như sau:
- Tỷ lệ tinh giản biên chế tối thiểu là 10% biên chế của 
bộ, ban, ngành, tổ chức, chính trị - xã hội, tỉnh, thành phố 
trực thuộc trung ương.
- Đối với đơn vị sự nghiệp công lập có nguồn thu sự 
nghiệp, khuyến khích chuyển đổi thêm 10% số lượng viên 
chức sang cơ chế tự chủ; thay thế nguồn trả lương từ ngân 
sách nhà nước bằng việc trả lương từ nguồn thu sự nghiệp.
- Chỉ tuyển dụng mới không quá 50% số biên chế 
CBCCVC đã tinh giản biên chế; không quá 50% số biên 
chế đã được giải quyết nghỉ hưu hoặc thôi việc.
Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, năm 2019, số lượng người 
làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập hưởng lương 
từ ngân sách nhà nước giảm so với năm 2015 (khối Chính 
phủ quản lý): tại 63/63 địa phương giảm 4,26%; tại 20/22 
bộ, cơ quan ngang bộ (trừ Bộ Công an, Bộ Quốc phòng) và 
8/8 cơ quan thuộc Chính phủ giảm 11,85%. Từ năm 2015 
đến ngày 20/12/2019, đã thực hiện tinh giản biên chế 50.547 
người [4]. Với các con số trên, số lượng CBCCVC và người 
hưởng lương ở nước ta hiện tại vẫn lớn.
Thực trạng đội ngũ CBCCVC, về mặt tích cực, có ý kiến 
cho rằng: “Chất lượng đội ngũ CBCCVC từng bước được 
nâng lên, cơ cấu hợp lý hơn; việc sắp xếp tổ chức bộ máy 
của hệ thống chính trị, bộ máy hành chính nhà nước ngày 
càng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; công tác 
quản lý cán bộ, công chức có nhiều đổi mới, tiến bộ” [5]. 
Hội nghị Trung ương 7, khóa XII của Đảng đã đánh giá như 
sau: 
Về mặt tích cực: “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập 
trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, 
lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn 
tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn 
đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng 
động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng 
làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo 
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính 
trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán 
bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa 
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc 
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả 
năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo 
tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ 
trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành 
với Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân 
dân. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, 
có đóng góp tích cực cho đất nước. Một số cán bộ lãnh đạo, 
quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế 
thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả” [6].
Về mặt tiêu cực, hạn chế: “Nhìn tổng thể, đội ngũ cán 
bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu 
cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các 
ngành còn hạn chế. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người 
dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán 
bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu 
ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa 
đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong 
đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc 
không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ 
năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc 
tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, 
ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý 
tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, 
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu 
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh 
đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu 
gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang 
tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng 
vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít 
cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn 
62
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính 
sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, 
tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý 
kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, 
chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, 
chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy 
tội..., trong đó  ... ng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối, hiệu lực, 
hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; công 
tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập..., chính sách tinh giản 
biên chế chưa đi vào thực chất, không theo đúng quy định 
và chưa đạt mục tiêu đề ra; thực hiện quy định về quản lý 
biên chế ở một số bộ, ngành, địa phương chưa nghiêm, thiếu 
sự thống nhất [5].
Cải cách nền hành chính và những yêu cầu đặt ra đối 
với đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay
Cùng với các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã ban 
hành và thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành 
chính nhà nước (CCHCNN) giai đoạn 2001-2010 và giai 
đoạn 2011-2020. Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã có 
Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg ban hành Quy chế thực 
hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan 
HCNN ở địa phương, và hàng chục văn bản liên quan đến 
thực hiện CCHC. 
CCHC ở Việt Nam là một sự thay đổi có kế hoạch, theo 
một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà 
nước có thẩm quyền, nhằm làm cho hệ thống hành chính 
nhà nước thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ quản lý xã 
hội. CCHC không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành 
chính, mà chỉ làm cho hệ thống bộ máy nhà nước trở nên 
hiệu quả hơn, phục vụ xã hội tốt hơn. Từ năm 2001 đến nay, 
Việt Nam đã và đang thực hiện hai giai đoạn Chương trình 
tổng thể CCHCNN. Trên thực tế, chúng ta vẫn chưa hoàn 
thiện được khung khổ thể chế cho việc quản lý kinh tế - xã 
hội trong phát triển kinh tế thị trường. Đánh giá trên đây cho 
thấy, tổ chức bộ máy hành chính các cấp vẫn cồng kềnh, dù 
đã thực hiện tinh giản biên chế nhiều đợt; chất lượng đội 
ngũ CBCCVC chưa đáp ứng yêu cầu, kết quả quản lý theo 
ISO 9001-2000 còn thấp.
Để phát triển bền vững đất nước, chủ động hội nhập, yếu 
tố có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là xây dựng đội ngũ cán 
bộ, công chức có năng lực chuyên môn và đạo đức công vụ. 
Trong đó, định hướng giá trị cho đội ngũ CBCCVC là một 
vấn đề cấp thiết.
Quan điểm và nội dung, giải pháp định hướng giá trị cho đội 
ngũ CBCCVC
Về quan điểm định hướng giá trị
Định hướng về xây dựng và phát triển văn hóa, con 
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất 
nước, Đảng ta nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ quan 
trọng là “Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, 
viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự 
Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, 
có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, 
kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa 
vụ công dân. Ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư 
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, 
công chức, đảng viên” [7]. Từ việc khẳng định con người 
phải thật sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - 
xã hội, quan điểm khẳng định coi trọng đội ngũ cán bộ, công 
chức trong Đảng, trong bộ máy nhà nước. Xây dựng đội ngũ 
cán bộ, công chức có đức, có tài là nhân tố quan trọng để 
xây dựng hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước trong 
sạch, vững mạnh. 
Cụ thể hóa quan điểm của Đảng về tầm quan trọng của 
đội ngũ cán bộ, công chức, trong xây dựng văn hóa công vụ, 
ngày 27/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt và ban 
hành Đề án văn hóa công vụ [8] với mục tiêu: “Nâng cao 
văn hóa công vụ, góp phần hình thành phong cách ứng xử, 
lề lối làm việc chuẩn mực của đội ngũ CBCCVC; đảm bảo 
tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, 
hiệu quả trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ; đáp 
ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, xã hội”. Đề án văn hóa công 
vụ cũng nêu rõ yêu cầu về chuẩn mực văn hóa công vụ đối 
với đội ngũ cán bộ, công chức về các phương diện:
- Tinh thần, thái độ làm việc của CBCCVC;
- Chuẩn mực giao tiếp, ứng xử của CBCCVC;
- Chuẩn mực về đạo đức, lối sống của CBCCVC;
- Trang phục của CBCCVC.
Quan điểm của Đảng và chính sách của Chính phủ 
như đã nêu trên là cơ sở để định hướng giá trị cho đội ngũ 
CBCCVC ở nước ta hiện nay. Nội dung định hướng giá trị 
cho đội ngũ CBCCVC phải hướng đến xây dựng và phát 
triển văn hóa công vụ vì một nền hành chính Việt Nam hiện 
đại, hội nhập trong quản trị đất nước. 
Nội dung và giải pháp 
Về nội dung: 
Cách đây 7 thập niên, Quy chế công chức Việt Nam đầu 
tiên đã quy định: “Công chức Việt Nam phải đem tất cả sức 
lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm 
lợi ích của nhân dân mà làm việc... Công chức Việt Nam 
63
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng 
kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có 
hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ 
máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, 
chính, chí công vô tư” [9]. Chuẩn mực đạo đức công vụ của 
cán bộ, công chức Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh, 
Chính phủ Việt Nam coi là “cái nền”, “cái gốc” của bộ máy 
quản lý nhà nước. 
 Trước đây, người ta thường nói đến “đức” và “tài”, 
nhưng nay nên bổ sung thêm giá trị của đội ngũ cán bộ, 
công chức [10]. Đức - tài - bản lĩnh là các giá trị được khái 
quát từ thực tiễn quản lý của quốc gia trong lịch sử cũng 
như hiện tại. Trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển của 
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi người cán 
bộ, công chức không những phải có đức, có năng lực, mà 
phải có bản lĩnh trong việc tiếp nhận những giá trị mới, công 
nghệ mới để quản trị hiệu quả đất nước.
Để vận hành được và phù hợp với thực tiễn hiện nay, 
chúng ta cần cụ thể hóa hơn các giá trị định hướng. Bài viết 
đề xuất nội dung định hướng giá trị cho đội ngũ CBCCVC 
như sau:
- Định hướng giá trị lý tưởng xã hội của đội ngũ: hơn ai 
hết, cán bộ, công chức phải là những người có lý tưởng xã 
hội, khát vọng thực hiện mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ 
nghĩa xã hội”. Đây chính là động lực làm việc, cống hiến 
của đội ngũ CBCCVC, thể hiện bản lĩnh chính trị, trình độ 
trí tuệ, tầm nhìn tương lai của dân tộc. Những nền công vụ 
ưu tú, hiệu quả như Singapore cho thấy đây là tiêu chí được 
quan tâm đầu tiên khi họ tuyển công chức, bởi kỹ năng, kiến 
thức có thể đào tạo, tích lũy được, nhưng thái độ, niềm tin 
là khó thay đổi [11]. 
Luật Cán bộ, công chức (2008), tại Điều 8, đã quy định 
về nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước 
và nhân dân: 1. Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, 
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ 
danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia. 2. Tôn trọng nhân dân, 
tận tụy phục vụ nhân dân. 3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, 
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. 4. Chấp 
hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của 
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Định hướng văn hóa đạo đức, lối sống, chuẩn mực ứng 
xử: theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng của 
người cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng: “Cũng 
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì 
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người 
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài 
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [12]. Nhà 
cải cách Lý Quang Diệu cũng từng khái quát: “Có đức mà 
không có tài thì dễ trì trệ. Có tài mà không có đức thì dễ hỗn 
loạn. Thực tiễn ở đời hỗn loạn còn khổ hơn trì trệ” [10]. Sự 
suy thoái về giá trị, chuẩn mực con người Việt Nam, đặc 
biệt là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, như Đảng đã chỉ ra 
27 biểu hiện trong tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu 
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ (Nghị 
quyết Trung ương 4 khóa XII). Thực tế này đã và đang “làm 
giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm 
và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một 
nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ” 
[13]. Đạo đức, lối sống, chuẩn mực ứng xử của công chức 
phản ánh đạo đức công vụ, đạo đức cách mạng. Đây là vấn 
đề quan trọng có ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của 
một nền công vụ.
- Định hướng phẩm chất trung thực, trách nhiệm, chuyên 
nghiệp, kỷ luật và bản lĩnh: bối cảnh hội nhập quốc tế hiện 
đang đặt ra những giá trị trong quản trị đất nước, đó là dân 
chủ hóa về công nghệ, thông tin, kinh tế - xã hội, chính trị - 
xã hội. Việt Nam đang thực hiện chuyển đổi nền hành chính 
công truyền thống “cơ chế xin - cho” sang nền hành chính 
phát triển, hội nhập. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và nâng 
cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo cho đất nước phát 
triển bền vững trong cơ chế kinh tế thị trường, định hướng 
XHCN. 
Về giải pháp: 
Nhằm tạo nên nền tảng gắn kết sức mạnh của một nền 
công vụ, cơ sở của quản trị nhà nước tốt, đáp ứng yêu cầu 
phát triển đất nước phù hợp với yêu cầu thực tiễn, ngày 
25/11/2019, Quốc hội đã ban hành Luật Sửa đổi một số điều 
của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức [14]. Đây 
được xem là một giải pháp thiết thực, hữu hiệu và cần thiết. 
Tiếp theo, các giải pháp sau cần được triển khai đồng bộ:
Thứ nhất, thực hiện hiệu quả công tác quản lý chất lượng 
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Đây là công cụ cơ bản 
trong phát triển và nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức, 
cho nên công tác quản lý chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phải 
được xác định là vấn đề có tính chiến lược. Một số ý kiến 
cho rằng, một trong những vấn đề cốt lõi của công tác quản 
lý chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ là phải hoàn thiện 
bộ tiêu chuẩn chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và bộ tiêu chí 
đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC.
Thứ hai, định hướng giá trị đội ngũ từ việc xây dựng, 
hoàn thiện khung giá trị văn hóa công vụ Việt Nam. Theo 
Bùi Huy Khiên (2016) [15], hệ giá trị văn hóa công vụ như 
một tấm gương để công chức soi vào đó nhận thức về đúng 
- sai, đẹp - xấu trong mỗi hành vi công vụ của mình. Tác 
giả này cũng đề xuất các nội dung của những giá trị cơ bản, 
gồm: văn hóa trách nhiệm; văn hóa pháp quyền; đề cao tinh 
thần phục vụ nhân dân; công khai minh bạch; tính công tâm, 
công bằng trong hoạt động công vụ; dân chủ và sự tham gia 
của các thành viên xã hội. 
64
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
Thứ ba, thực hiện định hướng giá trị thông qua hoạt 
động giáo dục, tuyên truyền về quy phạm pháp luật, đạo 
đức và các cuộc vận động tự tu dưỡng đạo đức công vụ. 
Tuyên truyền, phổ biến các nội dung của văn hóa công vụ 
cho CBCCVC nhằm nâng cao nhận thức về tinh thần, thái 
độ làm việc, các chuẩn mực giao tiếp, ứng xử, đạo đức lối 
sống, góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức triển 
khai thực hiện, như Đề án văn hóa công vụ đã đề ra. Theo 
đó, phải thực hiện việc xử lý nghiêm, kịp thời và công bằng 
những sai phạm của CBCCVC.
Thứ tư, tạo động lực cho CBCCVC, đây là một trong 
những cơ sở quan trọng của việc định hướng giá trị cho đội 
ngũ này. Động lực là những năng lượng cơ bản để đội ngũ 
CBCCVC thực hiện đạo đức công vụ, mà trước hết là các 
điều kiện và cơ chế chính sách đáp ứng nhu cầu lợi ích về 
vật chất và tinh thần của CBCCVC, thúc đẩy họ làm việc 
hiệu quả. Mỗi CBCCVC được làm việc phù hợp với khả 
năng, sở trường, trong một môi trường thân thiện, thuận lợi.
Kết luận
Giá trị đội ngũ CBCCVC là thành tố cốt lõi của một nền 
văn hóa công vụ. Định hướng giá trị cho đội ngũ CBCCVC 
là thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của 
người cán bộ, đảng viên: “Cán bộ là cái gốc của mọi công 
việc, công việc thành công hay thất bại là do cán bộ”. Người 
cũng khẳng định nếu người cán bộ “có đức mà không có tài 
làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô 
dụng”. 
Định hướng giá trị cho đội ngũ CBCCVC ở nước ta 
nhằm tạo nên nền tảng gắn kết sức mạnh của một nền công 
vụ, cơ sở của quản trị nhà nước tốt, đáp ứng yêu cầu phát 
triển đất nước trong bối cảnh hiện nay. Thông qua kết quả 
đánh giá chất lượng đội ngũ CBCCVC hiện tại, 3 nội dung 
định hướng giá trị cho CBCCVC đã được khuyến nghị: 1) 
Định hướng giá trị lý tưởng xã hội của đội ngũ; 2) Định 
hướng văn hóa đạo đức, lối sống, chuẩn mực ứng xử; 3) 
Định hướng phẩm chất trung thực, trách nhiệm, chuyên 
nghiệp, kỷ luật và bản lĩnh. Đồng thời, bài viết cũng đề xuất 
4 giải pháp để định hướng giá trị CBCCVC: 1)Thực hiện 
hiệu quả công tác quản lý chất lượng đào tạo, bồi dưỡng 
CBCCVC; 2) Xây dựng, hoàn thiện khung giá trị văn hóa 
công vụ Việt Nam; 3) Thông qua hoạt động giáo dục, tuyên 
truyền về quy phạm pháp luật, đạo đức và các cuộc vận 
động tự tu dưỡng đạo đức công vụ; 4) Tạo động lực cho 
CBCCVC. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống 
đến hiện đại và con đường tới tương lai, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn 
nghệ, tr.56-58.
[2]bhttps://dantri.com.vn/kinh-doanh/cu-7-lao-dong-phai-nuoi-
1-cong-chuc-vien-chuc-va-nguoi-huong-luong-2018091910520925.
htm
[3] https://luatvietnam.vn/can-bo-cong-chuc/lo-trinh-tinh-gian-
bien-che-566-19342-article.html
[4]bhttps://ttbc-hcm.gov.vn/tang-them-738-luong-co-so-tu-
ngay-1-7-2020-10729.html
[5] Dương Xuân Ngọc (2019), Một số vấn đề về đội ngũ cán bộ, 
công chức, Hội đồng lý luận trung ương, 
--trao-doi/mot-so-van-de-ve-doi-ngu-can-bo-cong-chuc-phan-cuoi.
html.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nghị lần thứ 
bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn phòng Trung 
ương Đảng, tr.45-48.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ 
chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Văn phòng Trung 
ương Đảng, tr.53.
[8] Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định 1847/QĐ-TTg 
ngày 27/12/2018 về việc phê duyệt Đề án văn hóa công vụ, https://
luatvietnam.vn/hanh-chinh/quyet-dinh-1847-qd-ttg-2018-de-an-van-
hoa-cong-vu-169795-d1.html.
[9] Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh 76/
SL ban hành Quy chế công chức Việt Nam, https://m.thuvienphapluat.
vn/van-ban/lao-dong-tien-luong/Sac-lenh-76-SL-ban-hanh-Quy-che-
Cong-chuc-36567.aspx
[10] Lê Doãn Hợp (2018), Tiêu chuẩn cán bộ: đức và tài thời công 
nghiệp 4.0, https://moha.gov.vn/tin-tuc-su-kien/diem-tin/tieu-chuan-
can-bo-duc-va-tai-thoi-cong-nghiep-4-0-38667.html.
[11] Lê Minh Trường (2010), Thay đổi văn hóa công vụ Việt Nam: 
một cách nhìn của người nước ngoài, https://luatminhkhue.vn/thay-
doi-van-hoa-cong-vu-viet-nam--mot-cach-nhin-cua-nguoi-nuoc-
ngoai.aspx.
[12] Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật (2011), Hồ Chí 
Minh: Toàn tập, tập 5, tr.292.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Hội nghị lần 
thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về tăng cường xây 
dựng, chỉnh đốn Đảng, 
su/nghi-quyet-hoi-nghi-trung-uong-4-khoa-xii-ve-tang-cuong-xay-
dung-chinh-don-dang_28592.html.
[14] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), 
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật 
Viên chức, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/
Luat-can-bo-cong-chuc-va-luat-vien-chuc-sua-doi-2019-405729.
aspx.
[15] Bùi Huy Khiên (2016), “Xây dựng khung giá trị văn hóa 
công vụ Việt Nam - cách tiếp cận từ quản trị nhà nước tốt”, Tạp chí Tổ 
chức nhà nước, 
gia_tri_van_hoa_cong_vu_Viet_Nam_Cach_tiep_can_tu_quan_tri_
nha_nuoc_totall.html.

File đính kèm:

  • pdfdinh_huong_gia_tri_cho_doi_ngu_can_bo_cong_chuc_vien_chuc_o.pdf