Đinh hướng đổi mới đào tạo bác sĩ phẫu thuật Việt Nam trongtương lai
Thực hành phẫu thuật ở Việt Nam và nhiều nước khác trên Thế giới đã trải qua những thay đổi lớn trong
thời gian qua. Những ảnh hưởng của suy thoái, khó khăn về kinh tế, việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
khỏe và lấy quan điểm bệnh nhân là trung tâm đã góp phần tạo nên những thay đổi trong cách tiếp cận giáo
dục. Việc giới thiệu các nguyên tắc đào tạo dựa trên bằng chứng là chìa khóa trong việc thúc đẩy sự thay
đổi trong chương trình đào tạo sau đại học về ngoại khoa. Tập trung vào đào tạo đảm bảo cung cấp bằng
chứng dựa trên nhu cầu chăm sóc của bệnh nhân phẫu thuật. Nguyên tắc đào tạo có xu hướng chuyển từ
mô hình học nghề sang mô hình đào tạo dựa trên năng lực với các thành phần đánh giá rõ ràng và nhu cầu
tuân thủ thông qua các tiêu chuẩn nghiêm ngặt để công nhận. Nghiên cứu này sẽ tổng kết lịch sử phát triển
các thay đổi quan trọng trong chương trình đào tạo và đánh giá bác sĩ phẫu thuật trong các năm qua và sẽ
cố gắng làm nổi bật các xu hướng trong giáo dục y tế cũng như các yếu tố mang tính thể chế, chính sách
phức tạp tại Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đinh hướng đổi mới đào tạo bác sĩ phẫu thuật Việt Nam trongtương lai

TCNCYH 114 (5) - 2018 123 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐINH HƯỚNG ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO BÁC SĨ PHẪU THUẬT VIỆT NAM TRONGTƯƠNG LAI Bùi Mỹ Hạnh Trường Đại học Y Hà Nội Thực hành phẫu thuật ở Việt Nam và nhiều nước khác trên Thế giới đã trải qua những thay đổi lớn trong thời gian qua. Những ảnh hưởng của suy thoái, khó khăn về kinh tế, việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và lấy quan điểm bệnh nhân là trung tâm đã góp phần tạo nên những thay đổi trong cách tiếp cận giáo dục. Việc giới thiệu các nguyên tắc đào tạo dựa trên bằng chứng là chìa khóa trong việc thúc đẩy sự thay đổi trong chương trình đào tạo sau đại học về ngoại khoa. Tập trung vào đào tạo đảm bảo cung cấp bằng chứng dựa trên nhu cầu chăm sóc của bệnh nhân phẫu thuật. Nguyên tắc đào tạo có xu hướng chuyển từ mô hình học nghề sang mô hình đào tạo dựa trên năng lực với các thành phần đánh giá rõ ràng và nhu cầu tuân thủ thông qua các tiêu chuẩn nghiêm ngặt để công nhận. Nghiên cứu này sẽ tổng kết lịch sử phát triển các thay đổi quan trọng trong chương trình đào tạo và đánh giá bác sĩ phẫu thuật trong các năm qua và sẽ cố gắng làm nổi bật các xu hướng trong giáo dục y tế cũng như các yếu tố mang tính thể chế, chính sách phức tạp tại Việt Nam. Từ khóa: đào tạo y khoa, bác sĩ phẫu thuật Địa chỉ liên hệ: Bùi Mỹ Hạnh, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 5/5/2018 Ngày được chấp thuận: 27/7/2018 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Bác sĩ là một nghề thực hành trong một hệ thống y tế và đặc biệt phải quản lý việc chăm sóc cho từng người bệnh/nhóm người bệnh mình tiếp xúc sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn mà luôn thể hiện được nguyên tắc lấy an toàn chất lượng của người bệnh làm trung tâm [1]. Để thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi các bác sĩ phải là những người đa năng lực (meta-competencies), hiểu biết, cam kết không ngừng học tập phát triển cho bản thân và cho chính hệ thống họ tham gia phục vụ [2]. Tuy vậy, vấn đề chất lượng đào tạo bác sĩ phẫu thuật tại Việt Nam ngày càng có nguy cơ đi xuống thể hiện bởi sự thiếu đáp ứng của bác sĩ phẫu thuật trong một bối cảnh đầy biến động và thách thức. Vì vậy, nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng đào tạo bác sĩ phẫu thuật tại Việt Nam trong quá khứ, hiện tại. 2. Đề xuất một số định hướng chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật Việt Nam trong tương lai. II. NỘI DUNG TỔNG QUAN 1. Thực trạng chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật quá khứ và hiện tại 1.1. Thực trạng khung chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật hiện nay Chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật tại Việt Nam đã không thay đổi trong những năm qua. Những vấn đề cụ thể về một hướng đi cho chương trình đào tạo chưa được lập kế hoạch. Hầu hết các cơ sở đào tạo chưa nhận thức và chưa gắn kết một cách hệ thống toàn bộ quá trình đào tạo một người bác sĩ phẫu thuật với cách tiếp cận những gì đầu ra bác sĩ có được phải do chính những trải nghiệm và những chuẩn năng lực đầu ra của từng giai 124 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC đoạn, từng môn học và từng hoạt động giáo dục trong cơ sở đào tạo [3]. Những nhu cầu đào tạo không được các cơ sở đào tạo cập nhật và thể hiện sự điều chỉnh ngay trong từng nội dung, từng hoạt động dạy - học và đánh giá. Nếu xem xét kĩ các quy chuẩn của một chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật và đối sánh với chương trình thực tế tại Việt Nam sẽ thấy có những khoảng trống quá lớn. Sự hài lòng/không hài lòng của người sử dụng và thậm chí của chính những giảng viên, lãnh đạo cơ sở đào tạo-người tạo ra sản phẩm đều nhận thấy rõ ở tất cả các nghiên cứu cũng như từ kết quả khảo sát của nghiên cứu này theo các nội dung tiếp cận đảm bảo chất lượng của Liên đoàn giáo dục y khoa thế giới (Word Federal Medical Education – WFME) phối hợp với bộ tiêu chuẩn tiêu chí của Bộ Giáo dục và đào tạo, gồm: (1) sứ mệnh, mục tiêu, chuẩn năng lực; (2), Tổ chức quản lý; (3) Chương trình giáo dục, kế hoạch chiến lược của chương trình đào tạo), (4) Lượng giá người học và đánh giá chương trình đào tạo, (5) chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho chương trình đào tạo, (6) Người học, (7) nghiên cứu khoa học - công nghệ; (8) Hợp tác quan hệ; (9) cơ sở vật chất của chương trình đào tạo và (10) Tài chính cho thấy: chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật của Việt Nam được xây dựng theo đúng theo tiếp cận của một chương trình đào tạo trong đại học và hoàn toàn dựa trên môn học (subject-based) đặc biệt là mất đến 6 tháng (25% tổng số thời gian) cho học hoàn toàn lí thuyết trong trường [4]. Ngay cả đến lúc học lâm sàng trong bệnh viện thì phần giảng lý thuyết lâm sàng cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Tính tích hợp và đào tạo theo tiếp cận dựa trên năng lực chưa có những định dạng cụ thể [4]. Các tên gọi cho các cấu phần của chương trình đào tạo cơ bản đã phản ảnh được quá trình học tập để trở thành một người BS phẫu thuật theo mục tiêu đào tạo bao gồm các học phần khoa học cơ bản, y học cơ sở, y học lâm sàng. Các phần học trước khi lâm sàng mất 6 tháng và tiếp sau đó là học lâm sàng bệnh viện 18 tháng và kết thúc bằng duy nhất hai hình thức là thi lý thuyết và thực hành [5]. Phần lâm sàng của chương trình bác sĩ phẫu thuật dành phần lớn thời gian cho các ca mổ, thực hiện thủ thuật nhưng toàn bộ các kĩ năng này đều không gắn với các khái niệm về năng lực đặc biệt một số năng lực, phẩm chất cần được tích hợp, xuyên suốt trong cả 5 mốc năng lực của chương trình đào tạo không thể hiện một cách rõ ràng và phù hợp [5]. Chương trình vẫn quá nặng về lý thuyết và ít những nội dung giáo dục trải nghiệm những thách thức nghề nghiệp đang không ngừng thay đổi. Những năng lực về khả năng nghiên cứu, tư duy phản biện, ra quyết định dựa trên bằng chứng cũng như năng lực tự học, dạy và đánh giá bản thân, người khác trong thực hành lâm sàng không có quy định rõ rang [3]. Hầu hết các nước đều có chương trình đào tạo phẫu thuật nhiều hơn ít nhất là hai năm trong số các chương trình đào tạo bác sĩ chuyên khoa. Việt Nam là nước có chương trình đào tạo phẫu thuật theo hình thức ngắn nhất. Kết quả đầu ra của bác sĩ phẫu thuật ngày càng phức tạp cũng có thể được cải thiện bằng cách đào tạo liên tục ngay cả sau khi có bằng cấp cho cả thực hành chuyên khoa và cấp cứu. Bác sĩ bệnh viện cho mọi cấp độ cần được khuyến khích bổ nhiệm với vai trò người kèm cặp, chỉ bảo, lượng giá và xác nhận thường xuyên [3]. Mặc dù đa số học viên chọn chuyên ngành dựa trên điểm số đầu vào cũng như mong TCNCYH 114 (5) - 2018 125 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC muốn cá nhân nhưng việc trải nghiệm đào tạo phải được coi đấy là trải nghiệm vị trí công việc đúng với bản chất của đào tạo bác sĩ phẫu thuật. Việc tuyển chọn vào các vị trí vừa làm - vừa học để cung cấp các dịch vụ phẫu thuật nên được quyết định bởi nhu cầu của người dân. Cần phải có những quy định những phạm vi thực hiện các thủ thuật, phẫu thuật cho các mức năng lực của cơ sở cung cấp dịch vụ phẫu thuật khác nhau. Như vậy, định nghĩa "chương trình đào tạo" bác sĩ phẫu thuật còn phải gắn kết cơ hữu với quy định về phạm vi hành nghề của họ trong thực hành chuyên khoa. Ngay sau khi kết thúc chương trình đào tạo, bác sĩ phẫu thuật cần trải nghiệm ngay ở vị trí làm việc cọ sát nhiều với các ca cấp cứu và ngoại khoa tổng quát để phát triển tối đa các năng lực chung đặc biệt các năng lực liên quan đến những kĩ năng không phẫu thuật. Chiến lược theo từng giai đoạn phát triển nghề nghiệp liên tục cũng phải được tiêu chuẩn hoá [6]. Trọng tâm của đào tạo phải được gắn với nhu cầu của người bệnh và các dịch vụ. Tất cả các bên liên quan phải tham gia và đồng thuận với những quyết định về mô hình, chương trình đào tạo. Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng đây không phải là “không đứng lớp” giảng dạy phẫu thuật mà nhưng chỉ đơn thuần là thay đổi các điểm chốt chứng nhận năng lực thực hành nghề nghiệp và vấn đề hợp đồng đào tạo với người có vai trò chính làm việc thường xuyên ở bệnh viện [2]. 1.2. Lượng giá học tập Trong chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật hiện tại, đánh giá quá trình chỉ được coi là kiểm tra lý thuyết và thực hành. Phương thức kiểm tra này đa phần chỉ xác định về một số khả năng liên quan đến kiến thức lý thuyết và rất ít thực hành. Việc đào tạo bác sĩ phẫu thuật không có giám sát thường xuyên, không có chương trình tự học có kèm cặp hướng dẫn đã làm cho việc không quản lý được những năng lực về hành vi, thái độ và tính chuyên nghiệp trong thực hành lâm sàng của người học. Các chuẩn năng lực đầu ra không có bằng chứng đã được đánh giá từ bộ câu hỏi trắc nghiệm hay đề thi có tính giá trị và độ tin cậy. Đặc biệt không chỉ ra được những năng lực do trường công bố được đánh giá như thế nào trong suốt quá trình và tại thời điểm chuẩn bị cho người học chuyển sang hành nghề thực tế [7]. Hầu hết mọi người đều quen với khái niệm kiểm tra lý thuyết nhưng bản chất nếu thi tự luận như hiện nay thì ngay cả trong bài thi tốt nghiệp cũng không đảm bảo đo lường được các chuẩn năng lực của lĩnh vực kiến thức ở mức độ áp dụng. Rõ ràng cách tiếp cận nội dung, nhồi nhét kiến thức, học tủ, học để thi của cả người dạy và học đã dẫn đến việc đánh giá khả năng đo lường của các chuẩn năng lực vì chuẩn năng lực cũng như năng lực đầu ra không đơn thuần chỉ là một danh động từ mà phải là một hành động thực, trong bối cảnh thực, có khả năng cho đo lường đuọc. Có thể về lý thuyết mọi người chỉ hiểu theo chiều là áp dụng kiến thức để giải thích các triệu chứng nhưng trong hoàn cảnh nào, với ai và như thế nào là một khả năng đa dạng và phức tạp chứ không phải mang tất cả những gì nhớ được ra để áp dụng [8]. Có nhiều phương pháp lượng giá được ứng dụng hoặc có khả năng ứng dụng trong lượng giá các học viên. Tuy nhiên, cơ sở dữ liệu dùng trong công cụ lượng giá đáng tin cậy và có giá trị trong lĩnh vực ngoại khoa thường thiếu tính hệ thống. Một số công cụ được thiết 126 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC lập trong các lĩnh vực khác nhau và một số khác chỉ là các công cụ dùng cho học tập tại thời điểm hiện tại. Ví dụ như các bài kiểm tra viết để lượng giá quá trình đào tạo và cấp chứng chỉ được coi là công cụ kiểm định rất tốt về kiến thức phẫu thuật nhưng lại không quan tâm đến năng lực. Các phương pháp lượng giá lí thuyết không có sự tương quan có ý nghĩa giữa kĩ năng kĩ thuật và quy trình thực hiện phẫu thuật và phải kết hợp nhiều phương pháp lượng giá khác nhau phối hợp mới đo lường tất cả các khía cạnh của năng lực ngoại khoa. Roberson và các đồng sự đã phát triển và xác nhận một công cụ dựa trên quan sát trực tiếp (OSCE - objective structured clinical exam) để đo lường để đo lường quá trình thực hiện. Những công cụ này cho thấy giá trị và sự tin cậy và xác minh rằng đánh giá tổng thể là công cụ mang lại ý nghĩa và có thể áp dụng cho lượng giá năng lực [8]. Năng lực kĩ thuật ngoại khoa có thể được chia thành sự lanh lẹ, sự định hướng không gian, và thực hiện phẫu thuật trôi chảy. Sự lanh lẹ trong tâm lý, sự trao đổi, vận động của các bộ phận chức năng. Lượng giá năng lực bác sĩ phẫu thuật trong đào tạo và thực hành là một vấn đề quan trọng mà y học hiện đại đang phải đối mặt. Ngoài yêu cầu giáo dục học viên thành thạo trong phẫu thuật, một vấn đề quan trọng khác của lượng giá kết quả đầu ra đó là phải bao phủ tất cả các khía cạnh của hệ thống chăm sóc sức khỏe phải trả lời câu hỏi lượng giá kết quả đầu ra có ảnh hưởng như thế nào? thực hành ở đâu? và các bác sĩ được bổ sung phần thiếu sót như thế nào? Các phép đo lường quá trình thực hiện của người thực hành đang được phát triển nhờ những nỗ lực trong chi trả bảo hiểm cho chăm sóc. Nhà cung cấp sẽ nhận thanh toán theo nhiều hình thức khác nhau để lượng giá chất lượng chăm sóc người bệnh và sử dụng thông tin đó nhằm cải thiện chăm sóc người bệnh một cách tổng thể. Các công ty bảo hiểm thương mại quốc tế đang nghiên cứu các phương pháp tiếp cận tương tự như thế này trong hoạt động chi trả, quản lý của mình [3]. Trọng tâm về kết quả đầu ra cũng đã lan rộng vào phương thức mà học viên được giảng dạy, đánh giá, và cấp bằng. Vào năm 2001, Hội đồng Kiểm định Giáo dục Y khoa sau Đại học Hoa Kỳ (The Accreditation Coun- cil for Graduate Medical Education – AGCME) khởi xướng Dự án về kết quả đầu ra. Đề xuất này có tính dài hạn và tập trung vào giáo dục kết quả đầu ra trong chương trình đào tạo hơn là nhấn mạnh vào khả năng, đó là một chương trình giáo dục đã được tổ chức và có sự đồng thuận các yêu cầu về chương trình một cách cụ thể. Quy trình kiểm định của hội đồng Kiểm định Giáo dục Y khoa sau Đại học đã chuyển từ kiểm định nội dung của chương trình giảng dạy sang kiểm định sản phẩm đầu ra giáo dục của chương trình đó. Tối thiểu nhất, các chương trình này được ủy nhiệm sử dụng các phương pháp lượng giá kết quả đầu ra và không ngừng cải thiện sản phẩm giáo dục đó là thành thạo chương trình tốt nghiệp gồm 6 năng lực tổng quát của hội đồng Kiểm định Giáo dục Y khoa sau Đại học. Quá trình phản hồi chương trình liên quan đến rất nhiều mức độ lượng giá vượt ra ngoài tầm đánh giá kiến thức, thái độ, và kĩ năng; Quy trình phản hồi chương trình còn yêu cầu đánh giá những người đã tốt nghiệp, đội ngũ giảng viên, kết quả đầu ra của các khoa và các tổ chức. Chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật được kỳ vọng không chỉ xem xét gộp chung cơ sở dữ liệu quá trình thực hiện của học viên mà TCNCYH 114 (5) - 2018 127 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nó còn đo lường quá trình thực hiện chương trình bên ngoài. Những chỉ dẫn bên ngoài được xác định dành cho các chương trình bao gồm đo lường chất lượng lâm sàng theo các ma trận, kết quả khảo sát người bệnh, các tỉ lệ biến chứng. Mặc dù, kỳ vọng vào sự thay đổi trong đánh giá chương trình bác sĩ sẽ là một quy trình có cơ sở dữ liệu minh chứng từ phản hồi các luân khoa năng động và tiến triển cần thiết cho cả vấn đề kiểm định chương trình và kiểm định bên trong tổ chức [2]. 2. Định hướng chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật Việt Nam trong tương lai 2.1. Những cơ hội của giáo dục dựa trên năng lực Giáo dục y khoa dựa trên năng lực cung cấp một cơ hội để thay đổi tư duy và sửa đổi chương trình đào tạo còn nhiều thách thức đáng kể khi thực hiện. Đào tạo dựa trên năng lực yêu cầu thay đổi theo phương pháp tiếp cận bao gồm cả một sự gia tăng đáng kể trong việc quan sát trực tiếp với đánh giá quá trình thường xuyên của các kết quả quan sát và đo lường. Yêu cầu giảng dạy và lượng giá liên tục theo chiều dọc của sự tiến triển năng lực của từng học viên. Phát triển giảng viên sẽ đóng một vai trò rất quan trọng, đòi hỏi sự hiểu biết về các nguyên tắc cơ bản của việc giảng dạy, học và đánh giá, cũng như các lý thuyết làm cơ sở cho đào tạo dựa trên năng lực và thực hành đáng tin cậy. Giáo dục tập trung vào việc quan sát trực tiếp, đánh giá quá trình và phỏng vấn [7]. 2.2. Những thách thức trong giáo dục dựa trên năng lực Sự ra đời của đào tạo dựa trên năng lực không phải không có thách thức. Việc sử dụng thành công công cụ đào tạo dựa trên năng lực và tạo ra môi trường giảng dạy lâm sàng linh hoạt được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của học viên. Đào tạo dựa trên năng lực là một nhu cầu cá nhân trong chương trình đào tạo bác sĩ phẫu thuật để đáp ứng tốt hơn hai nhu cầu bao gồm: thực hiện một cách xuất sắc và thực hiện tốt nhất. Điều này yêu cầu phải có kế hoạch cải tiến và đổi mới, chẳng hạn như cơ cấu kiểu chu kỳ vào các thành tố trong môđun [3; 5]. Một trong những rào cản lớn nhất đối với sự liên kết này là thiếu lượng giá. Lượng giá là chìa khóa để thành công trong đào tạo dựa trên năng lực. Lượng giá là một quá trình cần được thực hiện cho học viên. Một hệ thống đánh giá phải bao gồm mục đích rõ ràng, định nghĩa rõ ràng về những gì đang được đánh giá, giám sát viên được đào tạo một cách thích hợp, kịp thời và minh bạch, và các quy trình đáng tin cậy để phổ biến và thu thập các đánh giá. Đào tạo và đánh giá phải được cùng công nhận là quan trọng [2]. Phát triển nguồn giảng viên, công nhận và những động viên là điều cần thiết để tạo ra và hỗ trợ cho văn hóa lượng giá. Khuyến khích để lượng giá học viên có thể được xây dựng trong một hệ thống chẳng hạn như lượng giá liên kết với các hồ sơ năng lực giảng viên. Nên có đánh giá hai chiều, cho phép học viên đánh giá khả năng giảng dạy của giảng viên một cách định kỳ để hoàn thành theo chu kỳ. Dịch vụ lâm sàng và lượng giá phải được liên kết tương hỗ lẫn nhau, vì vậy dịch vụ trả tiền theo nhu cầu thực tập cần phải lượng giá giảng viên và ngược lại. Độ tin cậy của lượng giá cho phép học viên triển khai dịch vụ cung cấp trong lĩch vực mà họ có thẩm quyền. Như vậy, một học viên có quyền đưa ra thời gian trong mô hình cung cấp dịch vụ, sau khi đạt 128 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC được năng lực. Trách nhiệm giảng dạy lâm sàng cũng phải được cân bằng tốt hơn cho việc thực hiện thành công chương trình đào tạo dựa trên năng lực [6]. Để khuyến khích các giảng viên tham gia vào hoạt động, công cụ đánh giá phải rõ ràng, dễ hiểu và giảng viên phải tham gia vào sự phát triển lượng giá. Sử dụng các công cụ lượng giá điện tử trong đó có thể bao gồm trên internet hoặc máy tính một cách dễ dàng. Sự chuyển đổi này sẽ đòi hỏi một kinh phí tài chính ban đầu và sử dụng thành thạo công nghệ thông tin. Phối hợp các nỗ lực và chia sẻ các công cụ hay kỹ năng giữa các tổ chức hoặc giúp quản lý chi phí [7]. Phát triển giảng viên là chìa khóa để thực hiện thành công đào tạo dựa trên năng lực. Có nhiều thách thức quan trọng để chuẩn bị cho việc trang bị cho giảng viên lâm sàng trong khi đa số giảng viên thiếu đi khả năng đào tạo chính thống trong giảng dạy và lượng giá. Ngoài ra, họ cần phải phát triển một nhận thức rõ ràng và đánh giá cẩn thận các năng lực cốt lõi lâm sàng. Đây là điều cần thiết để hiểu rõ về các nguyên tắc đào tạo dựa trên năng lực. Giảng viên lâm sàng cần hỏi học cách để cải thiện độ tin cậy, sự phân biệt và độ chính xác của lượng giá. Phải có sự đồng thuận của giảng viên về các yếu tố năng lực thiết yếu được quan sát, và trên các tiêu chí chuẩn để phân loại các năng lực cá nhân. Khi năng lực được thực hiện phù hợp theo ngữ cảnh thì phải có đánh giá tổng hợp tập trung vào quan sát trực tiếp, và nó phải xảy ra thường xuyên. Phải có chiến lược tại chỗ để tăng tần suất quan sát trực tiếp của các học viên [6]. Một thách thức đáng chú ý là giảng viên hiện nay không được đào tạo theo cách kết hợp với khung năng lực nào. Họ phải được hỗ trợ để phát triển chiến lược cho việc giảng dạy và lượng giá năng lực cộng tác viên, vận động y tế và lãnh đạo để đào tạo học viên trở thành những người cung cấp chăm sóc người bệnh an toàn và chất lượng nhất [3]. Quá trình phát triển giảng viên cần dựa trên đánh giá nhu cầu định kì hàng năm, cả trong cấp độ hệ thống và ở cấp độ của các giảng viên. Các quản trị viên cấp cao và các giảng viên kỳ cựu trong tổ chức quản lý chương trình ở các cấp độ khác nhau thì sẽ tạo nên sự thành công trong đào tạo dựa trên năng lực khác nhau. Điều cần thiết là quá trình chuyển đổi sang mô hình giáo dục dựa trên năng lực là cần có sự linh hoạt để đáp ứng nhu cầu của người học đồng thời thúc đẩy sự thay đổi cần thiết trong cơ sở hạ tầng hiện có của một quy trình dựa trên hệ thống. Điều này có khả năng bị cản trở bởi một chiến lược đang còn thiếu nhằm hỗ trợ cho một mô hình hoàn toàn dựa trên năng lực [6; 7]. Việc thực hiện chuyển đổi mô hình đào tạo trong thực tế có thể sẽ gặp phải một số khó khăn, bất cập bởi những tác động có thể biết trước và không biết trước. Có thể điều chỉnh và cũng có thể khó thay đổi. Một số yếu tổ ảnh hưởng, yếu tố được các bên cho là nguyên nhân gây ra những khó khăn, bất cập cho việc chuyển đổi sang mô hình đào tạo dựa trên năng lực từ phía chủ quan của những đối tượng thuộc diện sẽ phải áp dụng kỳ thi sát hạch tay nghề (chưa sẵn sàng đáp ứng nhất là với những lĩnh vực tính chuyên nghiệp, năng lực cộng tác đa chuyên khoa) cũng như từ phía các cơ sở đào tạo (không muốn thay đổi, không muốn chấp nhận giải pháp tăng cường giảng viên, giảng viên kiêm nhiệm do tác động bởi tự chủ; tuyển dụng tràn lan TCNCYH 114 (5) - 2018 129 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC thiếu hiệu quả) và môi trường xã hội xung quanh (chưa có tiền lệ nên chưa nhận đươc sự quan tâm hỗ trợ của các ngành chức năng) [1]. Thách thức tiếp theo là sự nhất trí thay đổi từ một chương trình giảng dạy truyền thống, tiếp cận nội dung thành chương trình giảng dạy dựa trên năng lực tập trung vào người học. Sự chuyển đổi này đòi hỏi thay đổi rất nhiều về cách thức giảng dạy hướng theo nội dung thành phát triển các quá trình học tập mà từng chuẩn năng lực đều có thể được đo lường và phản ánh được các tiêu chuẩn chuyên môn thông qua sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học. Sự thiếu hụt nguồn cán bộ giảng dạy có đủ năng lực tham gia giảng dạy nhiều lĩnh vực trong cùng một module và/hoặc nhiều module sẽ làm chậm lại quá trình đổi mới [10]. Việc triển khai đổi mới chương trình đào tạo này còn có thể dẫn đến những xung đột về lợi ích giữa các nhóm làm nhiệm vụ quản lý và nhóm giảng viên chuyên môn trong các cơ sở đào tạo cũng như giữa các cơ sở đào tạo với các bệnh viện đào tạo thực hành. Đổi mới chương trình đào tạo theo tiếp cận chuẩn năng lực đầu ra gắn với nhu cầu thực tiễn cũng đồng nghĩa với việc khẳng định vai trò của chính của người học đối với hoạt động thực hành nghề nghiệp theo hợp đồng trách nhiệm ban đầu. Việc làm này sẽ tạo nguồn lực cho việc thực hiện chương trình bác sĩ trẻ đi về vùng xa vùng sâu, giúp khắc phục tình trạng thiếu bác sĩ. Tuy nhiên, nếu các bên liên quan không nhận thấy được ích lợi từ việc các bác sĩ phẫu thuật được tổ chức học tập tại bệnh viện, địa phương theo một chương trình đào tạo thực sự hướng đến cộng đồng để có những nguồn lực hỗ hợ, thu hút cũng có thể sẽ tạo nên sự ngại khó, ngại khổ, khoái thác trách nhiệm trong nhóm đối tượng bị tác động. Đồng thời cũng sẽ tạo ra tâm lý ngại phấn đấu hoặc dao động không an tâm công tác vì e ngại sẽ thiếu cơ hội phát triển nghề nghiệp. Để khắc phục tình trạng này cần thiết phải có sự điều chinh kịp thời đối với một số quy định hiện hành nhằm tạo cơ hội thuận lợi giúp các nhóm bác sĩ phẫu thuật mới tốt nghiệp dễ dàng phát triển hoàn thiện hơn trong giai đoạn thực hành tại những nơi khó khăn sau tốt nghiệp[10]. Đào tạo bác sĩ phẫu thuật khó có thể đáp ứng hết mà chỉ cân bằng giữa nhu cầu của chuyên môn, cá nhân và xã hội. Vì vậy, không phải tất cả bác sĩ phẫu thuật có thể chọn vào các chuyên ngành của họ, và sự mong đợi của học viên cần được quản lý phù hợp. III. KẾT LUẬN Giáo dục y khoa hiệu quả phù hợp với xu hướng của trách nhiệm giải trình cao hơn, phải tuân theo các tiêu chuẩn thực hành tốt nhất và các nguyên tắc của bằng chứng có sẵn. Sự ảnh hưởng của môi trường chính trị xã hội không ngừng phát triển, với áp lực kinh tế ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ chăm sóc phẫu thuật là một yếu tố quan trọng của đào tạo phẫu thuật trong tương lai. Đánh giá liên tục các phương pháp đào tạo, tăng cường sử dụng các kỹ thuật giáo dục y tế sáng tạo, chương trình giảng dạy và các tiêu chuẩn công nhận kết quả ngày càng khắt khe là các yếu tố có khả năng tiếp tục phát triển trong tương lai. Điều quan trọng là cách thức mà giảng viên được công nhân với sự chú ý hướng tới cố vấn bao gồm lãnh đạo và chiến lược phát triển nhằm thúc đấy và phát triển để nuôi dưỡng một nền văn hóa học tập. 130 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Lời cảm ơn Tác giả xin trân trọng cám ơn Lãnh đạo Bộ Y tế, Ban Giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội, Trường Đại học Y Dược Hồ Chí Minh, Trường Đại học Y Dược Huế, Ban Giám đốc Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã giúp đỡ trong quá trình thực hiện nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Busing N và Harris K (2015). The Future of Postgraduate Medical Education in Canada. Acad Med, 90(9), 1258 - 1263. 2. Association of American Medical Colleges (2018). Medicare Direct Graduate Medical Education (DGME) Payments, Med Teach 28, 638 – 645. 3. Bùi Mỹ Hạnh (2013). Phát triển chương trình giáo dục đa khoa định hướng nghề nghiệp: Thực trạng, thách thức và giải pháp. Tạp chí Y học Thực hành, 6(872), 34 - 37. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010). Công văn hướng dẫn xây dựng và công bố chuẩn đầu ra ngành đào tạo, số 2196/BGDĐT- GDĐH. 5. Bộ Y tế (2013). Dự án Chương trình phát triển nguồn nhân lực, Báo cáo thực trạng chất lượng các trường đại học y và điều dưỡng. 6. Frank JR, Snell LS (2010). Competency -based medical education: theory to practice. Med Teach, 32, 638 – 645. 7. General Medical Council (2017). Excellence by design: standards for postgraduate curricula. 8. The CanMEDS Roles Framework Dia- gram (2007). The Royal College of Physicians and Surgeons of Canada. 9. ACGME International (2016). ACGME International Foundational program require- ments for graduate medical education. 10. Jason R. Frank (2005). The Can- MEDS 2005 Physician Competency Frame- work Better standards. Better physicians. Bet- ter care., Office of Education, ed, The Royal College of Physicians and Surgeons of Can- ada. Summary SURGEON EDUCATION IN VIETNAM: PAST, PRESENT AND FUTURE The practice of surgery in Vietnam, and many other countries, has undergone massive changes in the last time. The influences of economic depression and hardship, the provision of healthcare, and of holding the patient perspective as central to the delivery of healthcare have contributed to changes in educational approach. The introduction of evidence-based training prin- ciples is the key to promoting change in postgraduate education program in surgical field. The focus on training has shifted to ensure provision of evidence based on the demand of care of sur- gical patients. The philosophy of training tend to move from that of an apprenticeship model to a competency-based framework with clear evaluative components and the need for adherence through rigorous standards of accreditation. This study will review the history of the evolution of some important changes in surgeon training and evaluation over years, and will attempt to high- light trends in medical education as well as institutional factors and complex policies in Vietnam Key word: medical education, surgeon
File đính kèm:
dinh_huong_doi_moi_dao_tao_bac_si_phau_thuat_viet_nam_trongt.pdf