Định hướng các mô hình kinh doanh để phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn hội nhập quốc tế

TÓM TẮT

Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của nền kinh tế Việt Nam. Thực tiễn

trong nhiều năm qua cho thấy, kinh tế tư nhân luôn mang lại hiệu quả và đóng góp trực tiếp đến

sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam. Để tạo điều kiện cho sự phát triển

của kinh tế tư nhân, khá nhiều mô hình kinh doanh đã được pháp luật quy định. Tuy nhiên, mỗi mô

hình kinh doanh đều có đặc thù riêng và để chúng có thể thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh

tế tư nhân trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng tại Việt Nam hiện nay thì cần thiết xem xét

đến vấn đề định hướng hoạt động cho các mô hình kinh doanh này.

pdf 13 trang phuongnguyen 11200
Bạn đang xem tài liệu "Định hướng các mô hình kinh doanh để phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Định hướng các mô hình kinh doanh để phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn hội nhập quốc tế

Định hướng các mô hình kinh doanh để phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn hội nhập quốc tế
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
90 
ĐỊNH HƯỚNG CÁC MÔ HÌNH KINH DOANH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH 
TẾ TƯ NHÂN GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP QUỐC TẾ 
ORIENTATION OF BUSINESS MODELS FOR PRIVATE ECONOMIC DEVELOPMENT 
IN THE PERIOD OF INTERNATIONAL INTERGRATION 
Ngày nhận bài: 23/05/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 17/08/2018 
Nguyễn Vinh Hưng 
TÓM TẮT 
Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của nền kinh tế Việt Nam. Thực tiễn 
trong nhiều năm qua cho thấy, kinh tế tư nhân luôn mang lại hiệu quả và đóng góp trực tiếp đến 
sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam. Để tạo điều kiện cho sự phát triển 
của kinh tế tư nhân, khá nhiều mô hình kinh doanh đã được pháp luật quy định. Tuy nhiên, mỗi mô 
hình kinh doanh đều có đặc thù riêng và để chúng có thể thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh 
tế tư nhân trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng tại Việt Nam hiện nay thì cần thiết xem xét 
đến vấn đề định hướng hoạt động cho các mô hình kinh doanh này. 
Từ khóa: Kinh tế tư nhân, doanh nghiệp, kinh tế, hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường. 
ABSTRACT 
Private economy plays an important and integral part to the Vietnam economy. Over the past 
years, the private economy has always shown effectiveness and directly contributed to the stability 
and sustainable development of the Vietnam economy. To facilitate the development of private 
economy, many business models are stipulated in the law of Vietnam. However, each business 
models has its own unique features, therefore in order to promote the strong development of the 
private economy over the course of international integration in Vietnam nowadays, it is necessary 
to take into account the issues concerning operational orientation of such business models. 
Keywords: Private economy, enterprise, economy, international integration, market economy. 
1. Đặt vấn đề 
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế 
được tổ chức đơn giản, quy mô tồn tại, phạm 
vi hoạt động khá nhỏ nên dễ dàng được triển 
khai và phổ biến tại mọi địa bàn khác nhau. 
Điều này càng phù hợp với một quốc gia vốn 
dĩ có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu 
đời như Việt Nam. 
Hiện nay, hội nhập quốc tế đang là xu 
hướng phát triển tất yếu của hầu hết các quốc 
gia trên thế giới. Khi tham gia hội nhập sâu 
rộng với quốc tế thì lĩnh vực kinh tế là một 
trong các lĩnh vực đầu tiên chịu tác động và 
ảnh hưởng mạnh mẽ. Nhằm tạo thuận lợi cho 
sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân 
trong giai đoạn hội nhập quốc tế, từ khá lâu, 
Đảng và Nhà nước đã chủ trương và phát triển 
đa dạng các mô hình kinh doanh để phục vụ 
nhu cầu đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Mặc dù 
vậy, từ thực tiễn kinh doanh cho thấy các mô 
hình kinh doanh vẫn đang tồn tại khá nhiều 
hạn chế, bất cập và chưa thật sự phù hợp với 
đặc thù của thành phần kinh tế tư nhân. Bài 
viết nghiên cứu về những hạn chế, bất cập của 
các mô hình kinh doanh tại Việt Nam hiện 
nay, từ đó, góp phần định hướng các mô hình 
kinh doanh cho phù hợp để thúc đẩy sự phát 
triển của thành phần kinh tế tư nhân trong giai 
đoạn hội nhập quốc tế. 
2. Thực trạng hoạt động của các mô hình 
kinh doanh tại Việt Nam 
2.1. Đặc trưng của kinh tế tư nhân tại Việt 
Nam 
Nguyễn Vinh Hưng, Khoa Luật – Trường Đại học 
Quốc gia Hà Nội 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018 
91 
Hiện nay, “hầu hết các nước trên thế giới 
đều có nền kinh tế mở nền kinh tế thế giới 
hiện đại ngày càng gắn kết chặt chẽ các quốc 
gia với nhau” (Phạm Quang Vinh, 2011, 
135). Mặt khác, việc “phát triển đa dạng các 
thành phần kinh tế đang là nhiệm vụ rất quan 
trọng của từng quốc gia trên thế giới. Bởi chỉ 
có đa dạng các thành phần kinh tế mới có thể 
tạo điều kiện tốt nhất để khơi thông, thu hút 
đầu tư và nguồn vốn trong xã hội. Từ đó, góp 
phần xây dựng, phát triển nền kinh tế và mở 
rộng sự giao lưu hợp tác kinh tế với nước 
ngoài” (Nguyễn Vinh Hưng, 2018, 72 ). 
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập 
trung, Việt Nam chỉ tồn tại hai thành phần 
kinh tế chủ đạo: kinh tế nhà nước và kinh tế 
tập thể. Phải kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI 
(12/1986), kinh tế tư nhân mới được thừa 
nhận. Khác với kinh tế nhà nước hay kinh tế 
tập thể, kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế 
do tư nhân trực tiếp tham gia các hoạt động 
sản xuất, kinh doanh, thương mại. Trên thực 
tế hiện nay, thành phần kinh tế tư nhân đang 
phát triển rất mạnh mẽ và là một bộ phận 
không thể thiếu của nền kinh tế thị trường tại 
Việt Nam. 
Theo thống kê trong năm 2017, “kinh tế 
tư nhân đã đóng góp 42,9% tỷ trọng nền kinh 
tế, tăng thêm 4% so với năm 2016. Đồng 
thời, dự báo, năm 2020 đạt khoảng 50%, năm 
2025 đạt 55% và đến năm 2030 chiếm 60-
65% tỷ trọng nền kinh tế” (Báo điện tử Dân 
trí, 2018). 
Nghiên cứu gần đây cho thấy: “theo số 
liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực kinh tế 
tư nhân hiện có khoảng 500 nghìn doanh 
nghiệp, chiếm gần 90% số doanh nghiệp của 
cả nước. Trong giai đoạn 2006 - 2015, so với 
khu vực kinh tế nhà nước và khu vực có vốn 
đầu tư nước ngoài (FDI), khu vực kinh tế tư 
nhân đóng góp hơn 40% GDP cả nước, 30% 
giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% 
tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch 
vụ, 64% tổng lượng hàng hóa và 100% giá trị 
sản lượng hàng hóa vận chuyển. Trong thời 
gian tới, khu vực kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục 
đóng góp khoảng 30% ngân sách và khoảng 
40% GDP của cả nước. Đặc biệt, khu vực 
kinh tế tư nhân thu hút khoảng 51% lực 
lượng lao động cả nước và tạo khoảng 1,2 
triệu việc làm cho người lao động mỗi năm, 
góp phần không nhỏ tái cấu trúc nền kinh tế, 
tăng thu nhập cho người dân” (Khánh 
Nam, 2016). Nghiên cứu khác cho rằng, 
“thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn 
đầu tư nước ngoài luôn đạt tốc độ tăng 
trưởng cao hơn thành phần kinh tế nhà nước; 
đóng góp phần chủ yếu vào mức tăng trưởng 
của nền kinh tế” (Phạm Văn Dũng, 2011, 5). 
Có thể nhận thấy, “từ khi đất nước thực 
hiện đường lối đổi mới toàn diện sau Đại hội 
Đảng lần thứ VI (12/1986) và nhất là khi 
Việt Nam mở cửa thị trường để tiến hành hội 
nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới thì 
thành phần kinh tế tư nhân ngày càng phát 
triển mạnh mẽ” (Nguyễn Vinh Hưng, 2018, 
72). Kinh tế tư nhân đã và đang có những 
đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung của 
nền kinh tế Việt Nam. Trên thực tế cho thấy, 
quy mô, tỷ trọng của kinh tế tư nhân ngày 
càng lớn mạnh và có vị trí, vai trò ngày càng 
quan trọng trong tổng thể nền kinh tế Việt 
Nam. Từ đó có thể đi đến khẳng định, trong 
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt 
Nam hiện nay, kinh tế tư nhân vẫn đang là 
thành phần kinh tế chủ đạo và trực tiếp mang 
lại đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế. 
Liên quan trực tiếp đến vấn đề phát triển 
kinh tế tư nhân không thể không đề cập đến 
yếu tố tâm lý kinh doanh và truyền thống 
thương mại tại Việt Nam. Với đặc điểm và 
truyền thống của Việt Nam vốn là một quốc 
gia chuyên về sản xuất nông nghiệp. “Suốt 
thời kỳ phong kiến, nền kinh tế Việt Nam 
kéo dài trong tình trạng tự nhiên, tự cấp, tự 
túc. Ở đó, nông nghiệp là nền tảng kinh tế, 
công thương nghiệp phát triển phụ thuộc vào 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
92 
nông nghiệp và là hoạt động kinh tế phụ trợ 
cho nông nghiệp. Tầng lớp công thương 
chuyên nghiệp còn quá ít so với dân cư cả 
nước” (Nguyễn Trí Dĩnh và cộng sự, 2007, 
285). Chính vì vậy, hiểu biết về kinh doanh 
của người Việt xưa nay khá hạn hẹp vì vốn dĩ 
chỉ quen với các hoạt động sản xuất nông 
nghiệp manh mún, nhỏ lẻ. Điều này đã gây 
tác động và ảnh hưởng không nhỏ đến yếu tố 
tâm lý kinh doanh của các nhà đầu tư hiện 
nay. 
Đến khi Việt Nam phát triển thành phần 
kinh tế tư nhân và mở cửa thị trường hội 
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng thì các hoạt 
động sản xuất, kinh doanh, thương mại tại 
Việt Nam mới thực sự phát triển. Thế nhưng 
do chịu ảnh hưởng nặng nề của tâm lý kinh 
doanh truyền thống, khi các nhà đầu tư của 
Việt Nam tiến hành các hoạt động kinh 
doanh, thương mại thì yếu tố quen biết, sự tin 
cậy giữa các thành viên lại làm ảnh hưởng 
đến khá nhiều quyết định của họ. Mặt khác, 
với hiểu biết, kinh nghiệm làm kinh doanh 
thương mại còn khá hạn chế nên một bộ phận 
không nhỏ người Việt thường chỉ muốn kinh 
doanh trong phạm vi vừa hoặc nhỏ và lấy 
công làm lãi là chủ yếu. Những yếu tố này 
góp phần làm cho kinh tế tư nhân tại Việt 
Nam thường phát triển theo khuynh hướng tự 
phát, manh mún, nhỏ lẻ hoặc không có sự tổ 
chức, bài bản cụ thể. 
Từ yếu tố tâm lý kinh doanh như vậy, nên 
dẫn đến việc khá nhiều người thường hay 
quyết định đầu tư, kinh doanh nhưng lại thiếu 
sự cân nhắc, tính toán hoặc chọn lọc cẩn 
thận. Khi phân tích truyền thống thương mại 
của Việt Nam trong khá nhiều năm thì cần 
phải nói đến thói quen kinh doanh theo kiểu 
“bầy đàn”, “phong trào”, “chộp giật” hay 
“thân quen” vốn dĩ đã bám sâu trong suy 
nghĩ và ảnh hưởng tới sự quyết định của một 
bộ phận không nhỏ người Việt Nam. Điều 
này được minh chứng qua các thời kỳ bùng 
nổ của thị trường vàng, chứng khoán, bất 
động sản, tiền ảo hay kinh doanh các nghề 
mới lạ nổi lên mạnh mẽ trong từng giai đoạn 
ngắn tại Việt Nam. Trong các thời kỳ phát 
triển “nóng” của các loại thị trường trên đã 
tạo sức hút và lôi kéo khá đông đảo các tầng 
lớp nhân dân hưởng ứng tham gia. Một bộ 
phận không nhỏ người dân đã vô tình biến 
mình thành những “người làm theo” để gia 
nhập trào lưu “chụp giật” mà thường thiếu sự 
hiểu biết cân nhắc và tính toán lâu dài. Vì 
trên thực tế, nhiều người tham gia hoàn toàn 
do từ sự tham lam và bị những người xung 
quanh dụ dỗ, lôi kéo hoặc bị ảnh hưởng từ 
yếu tố phong trào. Gần đây, nghiên cứu cho 
biết “kinh doanh theo kiểu phong trào lại 
đang diễn ra rất phổ biến” (Trường Đại học 
Kinh tế quốc dân, 2011, 27). Đến khi các loại 
thị trường trên suy thoái thì rất nhiều người 
tham gia bị mất tài sản cũng chỉ vì sự nông 
nổi, thiếu hiểu biết và từ lòng tham của chính 
họ. Điều này là minh chứng cho thấy, tâm lý 
kinh doanh của một bộ phận không nhỏ 
người Việt hiện nay vẫn còn dễ dàng bị lôi 
kéo, dụ dỗ từ những người xung quanh. Cũng 
có thể nói, người Việt thường có xu hướng 
“đầu tư theo tâm lý đám đông” (Báo Tiền 
phong, 2017). Qua đó, sự tin tưởng và thân 
quen đã ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết 
định kinh doanh của người Việt. Vì thế, 
“nhiều khi người Việt kinh doanh khá mạo 
hiểm nhưng lại luôn tin tưởng từ những 
người cùng phường, cùng hội” (Nguyễn Vinh 
Hưng, 2017, 74 - 76). 
Còn đối với các doanh nghiệp kinh doanh 
tại Việt Nam, có nhận xét cho rằng: “doanh 
nghiệp Việt Nam hiện nay đa phần là bầy 
đàn, thấy người ta làm sao thì mình làm vậy, 
không biết sáng tạo” (Alan Phan, 2013). 
Nhận định trên có vẻ hơi khắt khe nhưng 
cũng phải thừa nhận trong một chừng mực, 
điều đó lại khá phù hợp với thực tế của các 
doanh nghiệp đang kinh doanh hiện nay của 
Việt Nam. Vì vậy, có thể nhận xét, yếu tố 
tâm lý kinh doanh và truyền thống thương 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018 
93 
mại đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định 
lựa chọn các loại hình doanh nghiệp kinh 
doanh của thành phần kinh tế tư nhân tại Việt 
Nam. 
2.2. Thực trạng các mô hình kinh doanh tại 
Việt Nam hiện nay 
Hiện nay, ngoài các loại hình doanh 
nghiệp được quy định trong Luật Doanh 
nghiệp năm 2014, tại Việt Nam hiện còn tồn 
tại một số mô hình kinh doanh như: 
+ Cá nhân kinh doanh hay còn được gọi là 
thương nhân đơn lẻ (sole trader hay sole 
proprietorship): xét về lịch sử, “đây là thành 
phần kinh doanh cổ xưa nhất và cũng là chủ 
thể kinh doanh đơn giản nhất” (Ngô Huy 
Cương, 2013, 119). Bởi lẽ, đây là thành phần 
kinh doanh chỉ do một cá nhân làm chủ và tự 
chịu trách nhiệm. Tại Việt Nam hiện nay, cá 
nhân kinh doanh là thành phần kinh doanh 
phổ biến và phạm vi hoạt động cũng khá đa 
dạng. Loại hình chủ thể kinh doanh này tồn 
tại ở khắp mọi nơi và trong khá nhiều lĩnh 
vực ngành, nghề khác nhau. 
+ Chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh 
Hộ gia đình: có thể nói, Hộ gia đình tham gia 
sản xuất, kinh doanh là một mô hình chủ thể 
kinh doanh khá đặc thù của Việt Nam. Điều 
này xuất phát từ nền tảng kinh tế Việt Nam 
còn khó khăn, lạc hậu nên việc cả gia đình 
cùng nhau làm sản xuất, kinh doanh thường 
khá phổ biến tại nhiều vùng nông thôn, miền 
núi. Khác với các mô hình doanh nghiệp, Hộ 
gia đình là loại hình chủ thể kinh doanh 
không được quy định trong luật Doanh 
nghiệp mà được quy định trong Bộ luật Dân 
sự. Theo đó, Điều 106 của Bộ luật Dân sự 
năm 2005 định nghĩa Hộ gia đình như sau: 
“Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản 
chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động 
kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư 
nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh 
doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể 
khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh 
vực này” (Quốc Hội, 2005). Tương tự mô 
hình cá nhân kinh doanh thì Hộ gia đình cũng 
phát triển rộng rãi ở các vùng nông thôn và 
hoạt động trong khá nhiều lĩnh vực, ngành, 
nghề kinh doanh khác nhau. 
+ Loại hình chủ thể kinh doanh Tổ hợp 
tác: khá giống với mô hình kinh doanh Hộ 
gia đình, Tổ hợp tác cũng là mô hình chủ thể 
sản xuất, kinh doanh tương đối đặc thù của 
Việt Nam. Bởi đây cũng là mô hình sản xuất, 
kinh doanh nhỏ, lẻ và thường phổ biến tại các 
vùng nông thôn trong các lĩnh vực sản xuất 
nông, lâm, ngư nghiệp. Mặc dù Tổ hợp tác 
tiếp tục được Bộ luật Dân sự năm 2015 quy 
định thế nhưng Bộ luật này lại không đưa ra 
định nghĩa về Tổ hợp tác. Tuy nhiên, căn cứ 
khoản 1, Điều 111 của Bộ luật Dân sự năm 
2005 trước đây quy định về Tổ hợp tác như 
sau: “Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở 
hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban 
nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá 
nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức 
để thực hiện những công việc nhất định, cùng 
hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ 
thể trong các quan hệ dân sự”. Trên thực tế, 
mô hình Tổ hợp tác khá thích hợp khi sản 
xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực, ngành 
nghề không đòi hỏi phải có nhiều vốn cũng 
như nhiều lao động tham gia. 
Bên cạnh các mô hình kinh doanh trên thì 
pháp luật của Việt Nam hiện nay quy định 
chính thức các loại hình doanh nghiệp sau: 
+ Doanh nghiệp tư nhân (private 
enterprise): “đây là loại hình doanh nghiệp 
dân doanh và do một chủ sở hữu duy nhất” 
(Nguyễn Vinh Hưng, 2017). Ngay từ khi 
Việt Nam bắt đầu xây dựng nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luật 
Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 đã được ban 
hành. Thời kỳ mới xuất hiện, loại hình doanh 
nghiệp tư nhân khá gần gũi với tầng lớp 
thương nhân tại Việt Nam thời kỳ đầu đổi 
mới. Tuy nhiên, cho đến nay, loại hình doanh 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
94 
nghiệp tư nhân ngày càng kém thu hút nhà 
đầu tư lựa chọn bởi loại hình doanh nghiệp 
này tồn tại khá nhiều hạn chế. Vì thế, một số 
năm gần đây, nếu so với loại hình công ty 
một chủ sở hữu khác điển hình như công ty 
trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì k ... nh viên. Vì đây đều là các ngành, 
nghề, lĩnh vực kinh doanh có khả năng gây 
tổn hại, ảnh hưởng rất lớn cho người sử dụng 
các dịch vụ của chúng nên rất cần đòi hỏi các 
chủ thể kinh doanh các dịch vụ kể trên phải 
chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản. Có như 
vậy, khi kinh doanh các dịch vụ trên, những 
người chủ kinh doanh mới có thể tự nâng cao 
ý thức cũng như tinh thần trách nhiệm tốt 
hơn. Từ đó, đối với công ty trách nhiệm hữu 
hạn hai thành viên trở lên thì nên khuyến 
khích và tạo nhiều điều kiện để loại hình 
công ty này phát triển tại Việt Nam nhưng 
cần đặc biệt chú ý đến vấn đề cho phép kinh 
doanh các ngành, nghề kể trên. 
+ Đối với loại hình công ty cổ phần, có 
thể khẳng định, đây là loại hình công ty rất 
thích hợp trong nền kinh tế thị trường hiện 
đại và khá phù hợp với thành phần kinh tế tư 
nhân tại Việt Nam (Nguyễn Vinh Hưng, 
2018, 74). Bởi như đã phân tích, công ty cổ 
phần có khả năng thu hút đầu tư mạnh mẽ và 
giới hạn rủi ro tài chính cho các cổ đông. Tuy 
vậy, trên thực tế thì kinh nghiệm kinh doanh, 
quản lý hay hiểu biết về pháp luật của đại bộ 
phận không nhỏ người tham gia kinh doanh 
hiện vẫn rất hạn chế. Điều này gây ra không 
ít khó khăn cho các nhà đầu khi kinh doanh 
theo mô hình của công ty cổ phần. Bởi công 
ty cổ phần lại là loại hình công ty được tổ 
chức và vận hành rất chặt chẽ và khoa học. 
Vì thế, để kinh doanh loại hình công ty này 
đòi hỏi phải có sự am hiểu các quy định pháp 
luật tương đối tốt. Tuy nhiên, như đã trình 
bày, việc am hiểu pháp luật của công ty cổ 
phần thực sự không phải là điều dễ dàng, 
thuận lợi đối với hầu hết nhà kinh doanh của 
Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, liên quan đến 
công ty cổ phần thì cần phải xem xét thêm 
vấn đề “đạo đức kinh doanh của một bộ phận 
người tham gia kinh doanh hiện nay rất yếu 
kém” (Thu Thùy, 2013). Trong thời gian gần 
đây, những vụ lừa đảo, hay kinh doanh thiếu 
đạo đức, vi phạm pháp luật vẫn diễn ra và 
ngày càng có khuynh hướng nhiều và tinh vi 
hơn trước. Trong đó, điều đáng nói là phần 
lớn những chủ thể kinh doanh này đang tồn 
tại dưới hình thức của công ty cổ phần. Bởi 
khi tham gia vào công ty cổ phần thì các cổ 
đông được hưởng chế độ trách nhiệm hữu 
hạn về tài sản. Cổ đông có thể giới hạn trước 
khả năng thua lỗ và khoản lỗ không bao giờ 
ảnh hưởng đến các nguồn tài sản khác của cổ 
đông. Chính vì thế, không ít cổ đông lợi dụng 
tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn để kinh 
doanh chủ quan, thiếu tinh thần trách nhiệm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018 
99 
và đã gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho 
khách hàng. 
Chúng tôi cho rằng, để loại hình công ty 
cổ phần có thể phù hợp và thúc đẩy sự phát 
triển của thành phần kinh tế tư nhân thì pháp 
luật cần sửa đổi, bổ sung và xây dựng thêm 
nhiều chế tài xử phạt mạnh mẽ, nghiêm khắc 
đối với các hoạt động kinh doanh vi phạm 
pháp luật của công ty cổ phần. Ngoài ra, 
cũng giống với các lĩnh vực, ngành, nghề 
kinh doanh của loại hình công ty trách nhiệm 
hữu hạn thì đối với công ty cổ phần, pháp 
luật cũng nên xem xét đến phạm vi các lĩnh 
vực hoạt động kinh doanh của cả công ty 
này. Trên thực tế, thời gian trước đây, Điều 
17 và Điều 19 của Pháp lệnh Luật sư năm 
2001 từng có quy định, khi kinh doanh các 
dịch vụ pháp lý thì bắt buộc phải kinh doanh 
dưới hình thức là các văn phòng luật hoặc 
phải thành lập theo mô hình công ty luật hợp 
danh và mô hình này được tổ chức gần như 
theo mô hình công ty hợp danh trong Luật 
Doanh nghiệp. Hoặc quy định hiện nay đối 
với Văn phòng Thừa phát lại, nếu do một 
Thừa phát lại thành lập thì được tổ chức và 
hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư 
nhân, còn nếu do hai Thừa phát lại trở lên 
thành lập thì sẽ tổ chức và hoạt động theo mô 
hình công ty hợp danh (Thủ tướng Chính 
phủ, 2009, khoản 4, Điều 1 của Quyết định 
số 224). Điều này chứng tỏ, pháp luật ngày 
càng quan tâm hơn đến vấn đề định hướng 
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh theo đặc 
thù của từng loại hình công ty. Như vậy, 
càng cần thiết phải định hướng các ngành, 
nghề, lĩnh vực kinh doanh của loại hình công 
ty cổ phần. 
Theo chúng tôi nên quy định các ngành, 
nghề, lĩnh vực kinh doanh với quy mô lớn và 
thường xuyên cần huy động nguồn vốn (ngân 
hàng, xây dựng, chứng khoán, vui chơi giải 
trí, hàng không, vận tải, hoặc lĩnh vực may 
mặc với quy mô sản xuất kinh doanh rất 
lớn) thì mới được phép thành lập với mô 
hình của công ty cổ phần. Đây đều là những 
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh lớn và yêu 
cầu mở rộng quy mô hoạt động diễn ra rất 
nhanh chóng. Cổ phiếu của các ngành này 
thường thu hút được đông đảo giới đầu tư 
mua, bán nên đó còn là nguồn hàng hóa giá 
trị trên thị trường chứng khoán. Nếu các 
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh trên tổ 
chức theo hình thức của công ty cổ phần thì 
mới thật sự hiệu quả và phát huy hết khả 
năng của loại hình công ty này. 
+ Về công ty hợp danh, khác với tất cả 
các loại hình công ty khác, công ty hợp danh 
là công ty duy nhất thuộc hình thức của loại 
hình công ty đối nhân. Điểm mạnh của công 
ty hợp danh chính là công ty này luôn đảm 
bảo an toàn về mặt pháp lý rất cao cho các 
khách hàng và chủ nợ. Nguyên tắc pháp định 
các thành viên hợp danh của công ty hợp 
danh phải liên đới và chịu trách nhiệm vô 
hạn về mọi nghĩa vụ tài sản của công ty. Điều 
đó có nghĩa, đến khi công ty hợp danh không 
thể thanh toán nợ thì chủ nợ có thể yêu cầu 
từng thành viên hợp danh phải thanh toán các 
khoản nợ của công ty. Trong các trường hợp 
này, tài sản của từng thành viên hợp danh có 
thể khánh kiệt cùng với sự thua lỗ của công 
ty hợp danh. Công ty hợp danh có thể gây ra 
nhiều bất lợi cho thành viên của nó nhưng bù 
lại, đây lại là sự yên tâm và bảo đảm rất cao 
cho các khách hàng hay chủ nợ khi giao dịch 
với công ty. Các ngân hàng hoặc các chủ nợ 
thường dễ dàng cho công ty hợp danh vay 
mượn hơn so với các loại hình công ty khác. 
Bên cạnh đó, do đặc thù là công ty đối nhân 
nên mối quan hệ thân thiết, quen biết và tin 
tưởng giữa các thành viên luôn được coi 
trọng. Đây cũng là các yếu tố then chốt, 
quyết định dẫn tới sự thành lập và tồn tại của 
công ty này. Quy mô của công ty hợp danh 
thường không quá lớn nên đây lại là thuận lợi 
đối với các nhà kinh doanh chỉ với dự định 
kinh doanh với quy mô vừa hoặc nhỏ và lại 
muốn duy trì mối quan hệ thân thiết giữa các 
thành viên với nhau. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
100 
Phù hợp với nhận định này, thời gian 
trước cũng đã có ý kiến cho rằng: “Trong 
điều kiện của nước ta hiện nay, việc pháp 
luật ghi nhận loại hình công ty đối nhân cũng 
là cần thiết, phù hợp với truyền thống của 
người Việt Nam là quan hệ họ hàng bền chặt. 
Với tư tưởng, “một giọt máu đào hơn ao 
nước lã” những người họ hàng với nhau họ 
tin tưởng vào nhau hơn. Đặc biệt là trong 
điều kiện, có ít vốn, họ chỉ muốn liên kết lại 
với nhau để kinh doanh chung, lấy công ty 
làm lãi là chủ yếu, do đó rất thích hợp với 
loại hình công ty đối nhân” (Nguyễn Thị Khế 
và cộng sự, 1999, 195). Nghiên cứu trong 
thời gian gần đây: “từ niềm tin, thói quen, 
các thiết chế cho đến khả năng quản lý có 
nhiều cơ sở để dự báo mô hình kinh doanh 
chủ yếu của người Việt Nam trong một tương 
lai gần vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, sức 
mạnh của họ chủ yếu là niềm tin giữa những 
người trong gia đình, dòng họ, bạn bè” 
(Phạm Duy Nghĩa, 2004, 338). Điều này 
càng khẳng định tầm quan trọng, vai trò của 
các doanh nghiệp vừa hoặc nhỏ tại Việt Nam 
và cũng như triển vọng phát triển của chúng 
thời gian tới. Từ đó cho thấy công ty hợp 
danh cũng là loại hình công ty khá phù hợp 
để thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh 
tế tư nhân tại Việt Nam trong giai đoạn hiện 
tại và cả lâu dài. 
Chúng tôi cho rằng, để công ty hợp danh 
có thể phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của 
thành phần kinh tế tư nhân hơn nữa thì cần 
thiết nên quy định những ngành, nghề, lĩnh 
vực kinh doanh với quy mô vừa hoặc nhỏ và 
luôn đòi hỏi trách nhiệm rất cao về mặt pháp 
lý thì phải bắt buộc đăng ký hoạt động dưới 
mô hình của công ty hợp danh. Bởi như đã 
phân tích, công ty này có sự đảm bảo an toàn 
về mặt pháp lý rất cao. Khi kinh doanh trong 
các lĩnh vực vốn đòi hỏi sự đảm bảo rất cao 
về chất lượng và dịch vụ, những người chủ 
kinh doanh sẽ luôn ý thức và tự nâng cao 
trách nhiệm khi cung cấp các dịch vụ đó cho 
khách hàng. Nhờ đó, khách hàng sử dụng 
dịch vụ có thể yên tâm và được bảo vệ tốt 
hơn. Có như vậy, chúng ta mới phát huy tốt 
nhất các thế mạnh của loại hình công ty hợp 
danh và góp phần thúc đẩy sự phát triển của 
thành phần kinh tế tư nhân. 
4. Kết luận 
Kinh tế tư nhân là một bộ phận không thể 
tách rời của nền kinh tế Việt Nam trong giai 
đoạn toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trên 
thực tế, kinh tế tư nhân ngày càng thể hiện vị 
trí, vai trò cũng như ảnh hưởng, đóng góp to 
lớn. Có thể khẳng định, kinh tế tư nhân là 
một trong những động lực chủ đạo để phát 
triển nền kinh tế và đồng thời, kinh tế tư 
nhân có phát triển thì mới góp phần giúp cho 
kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh 
tế quốc tế. Vì vậy, nhằm khơi thông, thu hút 
nguồn vốn đầu tư để tăng trưởng và phát 
triển kinh tế thì việc quan tâm, hỗ trợ thành 
phần kinh tế tư nhân là rất cần thiết. Trong 
đó, việc mở rộng, đa dạng hóa các mô hình 
chủ thể kinh doanh và định hướng các loại 
hình doanh nghiệp phù hợp để thúc đẩy kinh 
tế tư nhân là vấn đề rất quan trọng. Sau khi 
nghiên cứu thực trạng môi trường kinh doanh 
tại Việt Nam, hay đặc điểm của thành phần 
kinh tế tư nhân cũng như điểm mạnh, điểm 
yếu của từng mô hình chủ thể kinh doanh thì 
có thể khẳng định, công ty hợp danh, công ty 
cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn hai 
thành viên trở lên đều là các loại hình công ty 
khá phù hợp trong nền kinh tế thị trường hội 
nhập quốc tế tại Việt Nam hiện nay và hơn 
nữa, các loại hình công ty này đều có thể 
thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế 
tư nhân. Tuy nhiên, để các loại hình công ty 
này phát triển ổn định, bền vững và góp phần 
thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân thì cần 
chú ý đến vấn đề định hướng kinh doanh các 
loại hình công ty trên. Thiết nghĩ, việc quy 
định cụ thể các ngành, nghề, lĩnh vực kinh 
doanh dưới hình thức công ty hợp danh, công 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018 
101 
ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn 
hai thành viên trở lên đều không làm hạn chế 
quyền tự do, sáng tạo trong kinh doanh. Bởi 
chỉ với mục đích định hướng các ngành, 
nghề, lĩnh vực kinh doanh đi theo đúng trật 
tự, hoạt động an toàn, hiệu quả và để phù hợp 
với thế mạnh của từng loại hình công ty và 
còn nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển ổn 
định, bền vững, lâu dài của thành phần kinh 
tế tư nhân tại Việt Nam trong giai đoạn phát 
triển kinh tế thị trường hội nhập quốc tế./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Báo điện tử Dân trí (2014). 99,9% doanh nghiệp Việt Nam là siêu nhỏ?!. Nguồn truy cập: 
 , 
truy cập ngày 22/3/2018. 
Báo điện tử Dân trí (2018). Tăng trưởng GDP năm 2017 đạt 6.81% nhờ kinh tế tư nhân. Nguồn 
truy cập: 
nhan-2017122906400637.htm , truy cập ngày 17/8/2018. 
Báo điện tử Tiền phong (2017). “Chết” vì mua nhà đất theo tin đồn. Nguồn truy cập: 
 , truy cập 
ngày 16/6/2018. 
Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia (2018). Tình hình chung về đăng ký doanh 
nghiệp tháng 01/2018. Nguồn truy cập: 
https://dangkykinhdoanh.gov.vn/Default.aspx?tabid=91&ArticleID=3149&language=vi-
VN, truy cập: 17/8/2018. 
Ngô Huy Cương (2013). Giáo trình Luật Thương mại phần chung và thương nhân. Nhà xuất 
bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 119. 
Bùi Ngọc Cường (2010). Giáo trình Luật Thương mại, tập 1. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, 
tr. 59. 
Phạm Văn Dũng (2011). Các thành phần kinh tế nhận thức lý luận và thực tiễn Việt Nam. Tạp 
chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27, tr. 5. 
Nguyễn Trí Dĩnh và cộng sự (2007). Giáo trình lịch sử kinh tế. Trường Đại học Kinh tế Quốc 
dân, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, tr. 285. 
Nguyễn Thị Khế và cộng sự (1999). Luật kinh doanh. NXB Thống kê, tr. 195. 
Nguyễn Vinh Hưng (2015). Cần xây dựng loại hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế Việt 
Nam. Tạp chí Dân chủ pháp luật, 08/2015, tr. 33. 
Nguyễn Vinh Hưng (2016). Các nguyên tắc của công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp năm 
2014. Tạp chí Dân chủ pháp luật, 05/2016, tr. 22. 
Nguyễn Vinh Hưng (2016). Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên trong môi 
trường kinh doanh hiện nay. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16/2016, tr. 40 - 42. 
Nguyễn Vinh Hưng (2017). Doanh nghiệp tư nhân và sự phù hợp với môi trường thương mại 
tại Việt Nam. Tạp chí Nghề Luật, số 02, tr. 11 - 15. 
Nguyễn Vinh Hưng (2017). Từ truyền thống thương mại đến việc định hướng loại hình doanh 
nghiệp tham gia kinh doanh tại Việt Nam. Tạp chí Quản lý Kinh tế, số 83, tháng 
7+8/2017, tr. 74 - 76. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
102 
Nguyễn Vinh Hưng (2018). Phát triển loại hình doanh nghiệp phù hợp để thúc đẩy kinh tế tư 
nhân tại Việt Nam, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 264, tháng 01/2018, tr. 72 - 75. 
Francis Lemeunier (1993). Nguyên lý và thực hành Luật thương mại, Luật kinh doanh. Nhà 
xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 247. 
Khánh Nam (2016). Tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế đất 
nước. Nguồn truy cập từ địa chỉ: https://goo.gl/2Uhj2M, ngày truy cập 22/3/2018. 
Phạm Duy Nghĩa (2004). Chuyên khảo Luật Kinh tế. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 338. 
Phạm Duy Nghĩa (2009). Luật Doanh nghiệp: tình huống - phân tích - bình luận. Nhà xuất bản 
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 71. 
Alan Phan (2013). Muốn khuyến khích đầu tư phải củng cố niềm tin. Nguồn: 
https://goo.gl/fRdnqa, truy cập ngày 15/3/2018. 
Phạm Thị Giang Thu (chủ biên 2012). Giáo trình Luật chứng khoán. Trường Đại học Luật Hà 
Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr. 272. 
Thu Thùy (2013). Khi lương tâm chỉ bằng những chai rượu giả. Nguồn truy cập: 
 , 
truy cập ngày 24/3/2018. 
Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2011). Giáo trình Quản trị kinh doanh. Nhà xuất bản Đại 
học Kinh tế quốc dân, tr. 27. 
Đỗ Thị Kim Tiên (2013), Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng doanh 
nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ & pháp luật, số 09, tr. 42. 
Thủ tướng Chính phủ (2009). Quyết định sô 224/QĐ-TTg ngày 19/2/2009 của Thủ tướng 
Chính phủ về Phê duyệt đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố 
Hồ Chí Minh”. Khoản 4, Điều 1. 
Tổng cục Thống kê (2016). Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam 5 năm 2011 - 
2015. Nhà xuất bản Thống kê, tr. 165. 
Phạm Quang Vinh (2011). Giáo trình Kinh tế học Vĩ mô. Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia 
Hà Nội, tr. 135. 
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương - Cổng thông tin kinh tế Việt Nam (2010). Phát 
triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Nguồn truy cập: 
vn/Cac-loai-hinh-doanh-nghiep/Phat-trien-Doanh-nghiep-nho-va-vua-o-Viet-Nam.html , 
truy cập: 23/3/2018. 

File đính kèm:

  • pdfdinh_huong_cac_mo_hinh_kinh_doanh_de_phat_trien_kinh_te_tu_n.pdf