Định giá chuyển giao về tài sản vô hình của công ty đa quốc gia
mục tiêu bài viết là tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan về việc định giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia dựa trên nguyên tắc một cánh tay đối với tài sản vô hình. Thông qua tổng hợp, phân tích các nghiên cứu trước đây được thực hiện chủ yếu ở các nước phát triển và kinh nghiệm một số nước đang phát triển. Từ đó, đưa
ra các ý tưởng cho nghiên cứu trong tương lai.
Bạn đang xem tài liệu "Định giá chuyển giao về tài sản vô hình của công ty đa quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Định giá chuyển giao về tài sản vô hình của công ty đa quốc gia

TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN46 Số 136 - tháng 2/2019 ÑÒNH GIAÙ CHUYEÅN GIAO VEÀ TAØI SAÛN VOÂ HÌNH CUÛA COÂNG TY ÑA QUOÁC GIA ThS. PHùNG ANH THƯ* ThS. NGUYỄN VĩNH KHƯơNG* * Đại Học Nguyễn Tất Thành; Trường Đại học Kinh tế-Luật_ĐHQG TP.HCM Mục tiêu bài viết là tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan về việc định giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia dựa trên nguyên tắc một cánh tay đối với tài sản vô hình. Thông qua tổng hợp, phân tích các nghiên cứu trước đây được thực hiện chủ yếu ở các nước phát triển và kinh nghiệm một số nước đang phát triển. Từ đó, đưa ra các ý tưởng cho nghiên cứu trong tương lai. Từ khóa: Giá chuyển giao, công ty đa quốc gia Valuation for transfer of the intangible assets of the multinational corporations The objective of the article is to review previous relevant studies on the transfer pricing of multinational corporations based on the one-arm principle of intangible assets. Through synthesis and analysis of previous studies conducted mainly in developed countries and experience in some developing countries, the article thereon, gives ideas for future research. keywords: Transfer price, multinational corporation 1. Giới thiệu Định giá chuyển giao của công ty đa quốc gia được coi là công cụ quốc tế về chiến lược và quản lý thuế được các công ty đa quốc gia (MNCs) sử dụng để tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu nghĩa vụ thuế của công ty ở các quốc gia được điều hành thông qua một hoặc nhiều chi nhánh, đơn vị (Huizinga & Laeven, 2008, Borkowski, 2010, Plesner Rossing & Rohde, 2010). Các công ty đa quốc gia có thể chọn khai thác sự khác biệt về chính sách thuế, các quy định về giá chuyển giao, thuế nhập khẩu, và các hạn chế về chuyển lợi nhuận để chuyển lợi nhuận từ một khu vực này sang khu vực khác để giảm thiểu thuế, do đó làm mất đi số tiền thuế thu được ở các quốc gia (Borkowski, 1997; Sikka & Willmott, 2010, Taylor & Richardson, 2012, Richardson và cộng sự, 2013, Ylönen & Laine, 2015, Chan và cộng sự, 2015, Dyreng và cộng sự, năm 2015). Cơ quan quản lý thuế nhận thấy giá chuyển giao là hình thức phổ biến nhất của việc tránh thuế của các công ty đa quốc gia (Chan và cộng sự, 2015). Mặc dù giá chuyển giao thường được xác định là công cụ quan trọng để tránh đánh thuế nhưng thông tin chi tiết về cách định giá chuyển giao được sử dụng trong các giao dịch nội bộ (Ylönen & Laine, 2015). Các công ty đa quốc gia ít khi cung cấp bất kỳ thông tin có ý nghĩa quan trọng về thực tiễn định giá chuyển giao của họ trong báo cáo tài chính (Tang & Zhao, 2001; Sikka & Willmott, 2010). Kiểm toán viên phải tiến hành kiểm tra và điều tra nghiêm ngặt đối với các công ty đa quốc gia để đảm bảo rằng chính quyền địa phương nhận được khoản thu thích hợp từ các giao dịch chuyển giá. Tuy nhiên, tiến hành kiểm tra như vậy thường là một thách thức, vì các giao dịch giữa các doanh nghiệp trong nước và các bên liên quan đến nước ngoài không phải lúc nào cũng tuân theo nguyên NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 47Số 136 - tháng 2/2019 tắc của điều kiện kinh doanh vì một bên có ảnh hưởng đáng kể đối với các bên khác (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), 2010)]. Ernst & Young (2012) thấy rằng hơn ba phần tư các công ty tại Trung Quốc với điều chỉnh kiểm toán về chuyển giá phải trả tiền phạt là hai mươi lăm phần trăm ngoài thuế, tuy nhiên, hàng năm Trung Quốc vẫn mất 4.7 tỷ đô la từ chuyển giá liên quan đến việc tránh thuế (Chan và cộng sự, năm 2015). Martini và cộng sự (2012) cho thấy nếu các công ty đa quốc gia (MNCs) thường tập trung hóa, thì quốc gia có thu nhập thấp thường thu hút đầu tư cao hơn. Các giao dịch xuyên biên giới giữa công ty mẹ và chi nhánh hoặc công ty con tăng đáng kể do sự tăng trưởng nhanh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sau sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài, xung đột giữa các công ty đa quốc gia và cơ quan quản lý thuế ở cả nước sở tại và cả quốc gia nơi công ty mẹ đặt trụ sở, vì các các công ty đa quốc gia cố gắng phân bổ lại thu nhập của họ từ các cơ quan thuế cao hơn cho các cơ sở thuế thấp hơn để giảm thiểu tổng gánh nặng thuế và tối đa hóa lợi nhuận (Borkowski, 2001; Conover & Nichols, 2000, Li, 2005; Swenson, 2001, Dyreng và cộng sự, năm 2015, Richardson và cộng sự, 2013). Desai và cộng sự (2006) nhấn mạnh rằng các giao dịch giữa các bên liên quan ở các cơ quan có thẩm quyền về thuế khác nhau tạo cơ hội đáng kể để tham gia vào việc tránh đánh thuế xuyên quốc gia (Taylor & Richardson, 2012). Hơn nữa, vì các chuyển đổi liên quan cung cấp cho các công ty đa quốc gia cơ hội đáng kể để giảm thuế, hạ thấp cơ sở tính thuế thu nhập doanh nghiệp và gia tăng phân biệt đối xử với các công ty trong nước (Gramlich và cộng sự, 2004. Huizinga & Laeven, 2008, Benshalom, 2013). Để chống lại việc chuyển giá nhằm mục đích tránh thuế, các cơ quan thuế thực thi các công cụ lập pháp và quy định, bao gồm điều chỉnh kiểm toán liên quan về thuế (Li, 2005). Ngoài việc điều chỉnh thuế, một số cơ quan thuế cũng có thể áp dụng những hình phạt nặng đối với việc cung cấp thông tin về giá cả không đầy đủ và không kịp thời (Cools và cộng sự, 2008). Các nguyên tắc định giá chuyển đổi của OECD được coi là tài liệu tham khảo chính để giải quyết các trường hợp định giá chuyển giao (Cools và cộng sự, 2008). Các hoạt động định giá của các công ty đa quốc gia có thể liên quan đến việc chuyển giao cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình, và phải dựa trên nguyên tắc một cánh tay (arm’s- length principle). Nguyên tắc này TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN48 Số 136 - tháng 2/2019 nghĩa là mức giá đàm phán giữa hai bên không có quan hệ trong điều kiện mua bán tương tự. Mức giá này có thể được xác định dựa trên giá thị trường hoặc chi phí sản xuất. Tuy nhiên, cơ quan thuế ở các nước đang phát triển thường thiếu thông tin và chuyên môn cần thiết để tính toán mức giá thuận mua vừa bán này. Tất cả các giao dịch liên quan đến việc chuyển giao các tài sản vô hình trong công ty phải được đánh giá ở mức giá mà công ty đa quốc gia đã sử dụng khi giao dịch với một tổ chức độc lập bên ngoài (OECD, 2010). Tuy nhiên, việc thiếu sự chuyển đổi tương đương từ đó để phát triển giá bán theo thời gian sẽ làm phức tạp công việc định giá (Desai và cộng sự, 2006). Tình hình còn phức tạp hơn do thiếu sự thực thi pháp luật, chuyển giao các quy định về giá ở các nước đang phát triển. Chính vì vậy, nhóm tác giả tổng kết các nghiên cứu về định giá chuyển giao về tài sản vô hình. Bài viết sẽ tổng hợp, phân tích các nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến chủ đề và chỉ ra những khó khăn trong việc sử dụng nguyên tắc một cánh tay và so sánh cho việc định giá và các điều chỉnh thuế liên quan cho việc định giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia đối với tài sản vô hình. 2. khái niệm về định giá chuyển giao Giá chuyển giao là giá trị cho các sản phẩm nội bộ giữa các công ty (sản phẩm và dịch vụ trung gian) được mua từ các đơn vị của công ty (độc lập), nghĩa là giá nội bộ của sản phẩm được tạo ra trong công ty. Một trong những chức năng chính của giá chuyển giao là sự phối hợp quản lý của bộ phận bán và mua. Phân bổ chi phí là một hình thức chuyển nhượng đặc biệt, đó là giá chuyển giao dựa trên chi phí của bộ phận công ty sản xuất và tổng chi phí được phân bổ bằng với chi phí phát sinh. Vì vậy, nếu một số tiền lớn hơn được phân bổ cho một bộ phận, một bộ phận khác sẽ phải đối mặt với số tiền thấp hơn được phân bổ. Chức năng của giá chuyển giao Các chức năng quan trọng nhất của giá chuyển giao (để sử dụng nội bộ) là: 1. Phân bổ lợi nhuận để đánh giá lợi nhuận và phân tích kết quả hoạt động; 2. Sự phối hợp, ảnh hưởng và hướng dẫn của các bộ phận; 3. Tính toán, hạch toán và quyết định giá; 4. Mục đích thông tin cho đối tượng bên ngoài, đặc biệt là đối với bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; 5. Đơn giản hóa (giá chuyển giao được áp dụng như biện pháp đo lường chuẩn hóa ngân sách). 3. Các nghiên cứu liên quan trước đây Sự gia tăng chưa từng thấy trong các giao dịch xuyên biên giới trên toàn thế giới đã dẫn tới sự gia tăng chuyển giao tài sản vô hình giữa các công ty đa quốc gia (Pinto, 2012, Cooper và cộng sự, 2013). Các nghiên cứu còn lại về các vấn đề về giá chuyển giao bao gồm các chuyển đổi xuyên quốc gia về tài sản hữu hình và tài sản vô hình, và các nghiên cứu thực tiễn về các phương thức định giá của các công ty xuyên quốc gia (Borkowski, 1996; Bakker, 2009, Lo và cộng sự, 2010; Plesner Rossing, 2013; Yao, 2013). Borkowski (1997) đã khảo sát các cơ quan Chính phủ ở 47 quốc gia để làm sáng tỏ mối quan ngại của Chính phủ về giá chuyển giao và yêu cầu của các quy định để chống lại các thao túng giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia. Các nhà nghiên cứu cho rằng việc xây dựng một chính sách giá chuyển giao chuẩn hóa và yêu cầu tăng cường sự công bố về mức độ và ảnh hưởng của giá chuyển giao đối với thu nhập chịu thuế và thuế phải nộp trong báo cáo tài chính của các công ty đa quốc gia có thể hữu ích trong việc giảm bớt việc điều chỉnh giá chuyển giao (Sikka & Willmott, 2010; Otusanya, 2011, Taylor & Richardson, 2012, Ylönen & Laine, 2015). Gần đây, Boll (2014) đã đề xuất nhiều nghiên cứu hàn lâm hơn cho việc phát triển và tăng cường phân tích các quy trình kiểm toán và quản lý thuế. Chuẩn mực quốc tế về phát triển giá chuyển giao đối với tài sản vô hình được chuyển giao giữa công ty mẹ và các công ty con là nguyên tắc một cánh tay. Mục tiêu cơ bản của nguyên tắc này là đảm bảo rằng các thoả thuận được tiến hành giữa các doanh NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 49Số 136 - tháng 2/2019 nghiệp trực thuộc ít nhất cũng tương tự như các công việc được tiến hành bởi các doanh nghiệp độc lập trong một môi trường cạnh tranh hoàn hảo. Khi các điều kiện giữa các doanh nghiệp trực thuộc khác với doanh nghiệp độc lập, cơ quan thuế được trao quyền điều chỉnh lợi nhuận thu được từ các doanh nghiệp trực thuộc, dựa trên Điều 9 (2) Công ước về Thuế của OECD (Pogorelova, 2009). Do đó, nguyên tắc một cánh tay mang lại “cây gậy quốc tế” cho các cơ quan thuế để đánh giá sự công bằng của giá chuyển giao. Cơ quan thuế sẽ chấp nhận giá chuyển giao đã xảy ra giữa các bên liên quan miễn là các bên liên quan có thể chứng minh rằng các bên độc lập sẽ có giá tương tự trong các tình huống tương tự (Cools và cộng sự, 2008; Yao, 2013). OECD cho rằng khi các bên độc lập thực hiện giao dịch, “lực thị trường” sẽ xác định các điều kiện của cả quan hệ thương mại và tài chính, chẳng hạn như giá cả và điều kiện của hàng hoá và dịch vụ đang được chuyển giao. Mặt khác, khi các doanh nghiệp liên kết tham gia vào các giao dịch với nhau, các “lực thị trường” bên ngoài sẽ không ảnh hưởng đến những giao dịch đó. Điều này gây ra mối quan tâm đặc biệt vì giá cả và lợi nhuận có thể được thiết lập để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp liên kết, và kết quả là doanh thu thuế của các nước tiếp nhận có thể bị méo mó (OECD, 2010). Mặc dù nguyên tắc một cánh tay đã được thông qua như là một tiêu chuẩn quốc tế để giải quyết các trường hợp định giá chuyển giao (Borkowski, 2001), Keuschnigg và Devereux (2013) lập luận rằng nguyên tắc một cánh tay không đưa ra chuẩn mực mạnh mẽ trong đánh thuế của các công ty đa quốc gia. Nguyên tắc một cánh tay có thể tạo ra những tổn thất về phúc lợi vì các cơ quan thuế có khuynh hướng làm sai lệch giá chuyển giao cao và tiền thu được thấp. Matsui (2011) cho thấy áp dụng thống nhất nguyên tắc một cánh tay của giá chuyển giao có thể dẫn đến sự thất bại về sự điều phối giữa các quốc gia do các giao dịch nội bộ giữa các công ty đa quốc gia. Falcao (2010) cho rằng việc tìm kiếm các giao dịch tương đương thích hợp trong tình huống so sánh là rất cần thiết, đặc biệt ở các nước đang phát triển vì không có đủ khả năng để sản xuất hàng hoá và dịch vụ cung cấp dữ liệu cần thiết để phát triển các đối sánh chuẩn hóa. Các quốc gia đang phát triển có thể nhập các đối sánh chuẩn hóa từ các nước phát triển như Mỹ, Anh hoặc Nhật Bản, nhưng các vấn đề về ứng dụng sẽ phát sinh do sự khác biệt về cung và cầu, điều kiện thị trường và kinh doanh trong các giao dịch giữa các bên liên quan ở các nước phát triển và đang phát triển. Pinto (2012) so sánh sự khác biệt trong thực tiễn về giá chuyển giao giữa Canada và Trung Quốc và kết luận rằng việc lựa chọn thực tiễn giá chuyển giao ở một quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế và văn hoá, các hệ thống chính trị và kinh tế, do đó làm cho giá chuyển giao toàn cầu các hướng dẫn do OECD đưa ra ít liên quan hơn. Pinto (2012) cũng nhấn mạnh rằng khi chuyển giao tài sản vô hình xảy ra giữa các doanh nghiệp liên kết với nhau, các vấn đề về định giá phát sinh vì rất khó để tìm ra giá cả tương đương vì tài sản vô hình thường tự phát triển bởi các doanh nghiệp liên kết, các nhóm, và không được chuyển giao cho các bên độc lập. Visconti (2012) lập luận rằng việc xử lý thuế đối với giá chuyển giao đối với các tài sản vô hình đã trở thành một trong những mối quan tâm thuế quan trọng nhất của quốc tế. Việc áp dụng nguyên tắc định giá chuyển giao trên cơ sở giá tự do có thể so sánh được (comparable uncontrolled transaction (CUT)) do OECD đưa ra có thể gây ra những vấn đề với tài sản vô hình, vì các giao dịch này thường được đàm phán trong các nhóm quốc tế. Các thương hiệu hay bằng sáng chế nổi tiếng thường thuộc về các công ty lớn, vì vậy, có vẻ phức tạp và thường không có ý nghĩa khi các giao dịch này được so sánh với các cuộc đàm phán nhỏ và không kiểm soát được. Một vấn đề phức tạp khác được trình bày khi các thực thể trong một nhóm công ty đa quốc gia tham gia phát triển tài sản vô hình chung với nhau và sau đó sử dụng các giá trị vô hình đó, bất kể sự tham gia vào sự phát triển ban đầu. Những sự kiện này làm cho nhiệm vụ tách biệt và phân bổ sự tham gia tương đối của mỗi thành viên nhóm trong một nhóm đa quốc gia là rất TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN50 Số 136 - tháng 2/2019 khó khăn và thường không chính xác (Przysuski, Lalapet & Swaneveld, 2004). Mặc dù, giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia và sự phức tạp về mặt kiểm toán thuế liên quan đã được xác định là có hậu quả nghiêm trọng hơn đối với các nước đang phát triển nhưng có rất ít bằng chứng nghiên cứu về các vấn đề định giá chuyển tiền của công ty đa quốc gia. Borkowski (1997) khảo sát các cơ quan Chính phủ từ 47 quốc gia, nhưng không điều tra những lo ngại của kiểm toán viên về các thao tác định giá chuyển giao của công ty đa quốc gia. Tuy nhiên, Martini và cộng sự (2012) cho rằng công ty mẹ khai thác phạm vi giá cả theo thời gian để giảm thiểu gánh nặng thuế cho công ty đa quốc gia. Tương tự, Baldenius và cộng sự (2004) cho rằng nếu các công ty tách riêng giá chuyển giao nội bộ theo nguyên tắc một cánh tay sử dụng cho mục đích thuế thì giá chuyển giao sẽ bị ảnh hưởng bởi các mức thuế khác nhau. Mulyani (2010) là một nghiên cứu gần đây về việc tuân thủ giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia ở Indonesia đã sử dụng khảo sát và phỏng vấn bán cấu trúc trong năm 2008 để điều tra các vấn đề liên quan đến việc tuân thủ thuế. Ngược lại, mục đích chính của nghiên cứu hiện nay là để điều tra nhận thức của kiểm toán viên Indonesia về các mục tiêu kiểm toán. Các nghiên cứu trước đây về giá chuyển giao cho thấy rằng giá chuyển giao bị ảnh hưởng bởi hành vi cá nhân và tập thể bên trong và bên ngoài tổ chức (Armstrong, 1998; Cools và cộng sự, 2008; Sikka & Willmott, 2010; Ylönen & Laine, 2015). Nghiên cứu này đóng góp vào sự hiểu biết về bản chất và vai trò tổ chức của kế toán trong các công ty đa quốc gia và các công ty con bằng cách khái quát hóa vai trò của kế toán và hiệu quả của kế toán dựa trên các quy trình ra quyết định của tổ chức. Hơn nữa, nghiên cứu này cung cấp mô tả phong phú về thực tiễn công việc của kiểm toán viên về thuế và tương tác liên quan đến quá trình kiểm toán thuế. Mặc dù có một số khác biệt trong quy định cụ thể của quốc gia để áp dụng nguyên tắc giá trị cho giá chuyển giao của công ty đa quốc gia, nhưng nguyên tắc cơ bản của OECD tiếp tục là khái niệm cơ bản trong quy định về giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia toàn cầu (Cools and Emmanuel, 2007; EY, 2012; Plesner Rossing, 2013). Plesner Rossing (2013) nhận thấy rằng nguyên tắc một cánh tay thường dựa trên các phán đoán của cả công ty đa quốc gia và quan điểm của cơ quan thuế về cách áp dụng nguyên tắc một cánh tay và tài liệu trong các tình huống cụ thể và thường xuyên phức tạp vì chuỗi giá trị của công ty đa quốc gia thường thiếu sự minh bạch. Những phát hiện của nghiên cứu cung cấp thông tin hữu ích cho việc quản lý các công ty đa quốc gia liên quan đến nguyên tắc một cánh tay. Các công ty đa quốc gia có thể hiểu rõ hơn về sự tập trung kiểm toán thuế thay đổi theo hướng dẫn của OECD và cách thức các doanh nghiệp có các đặc điểm khác nhau đánh giá rủi ro trong việc kiểm toán giá chuyển giao cũng như các xu hướng trong tương lai ở các nền kinh tế đang phát triển (Chan và cộng sự, 2015). 4. kết luận Nghiên cứu này có thể mang lại lợi ích cho các công ty đa quốc gia để nâng cao hiểu biết của họ về việc tinh chỉnh chiến lược giá chuyển giao, cải thiện về quy trình kế toán và tăng sự minh bạch thông tin, và giảm nguy cơ bị phạt. Tổng quan các nghiên cứu cũng mở ra cơ hội cho các nghiên cứu trong tương lai. Các nhà nghiên cứu thấy rằng cấu trúc thuế hiệu quả không thể loại trừ được việc tránh thuế, điều này có thể liên quan đến quá trình tuân thủ bao gồm việc vận dụng giá chuyển giao (Shah, 1996; Sikka & Willmott, 2010). Vì việc sử dụng giá chuyển giao để tránh thuế là đáng kể (Richardson và cộng sự, 2013. Sikka & Willmott, 2010) và vì có rất ít kiến thức sẵn có, cần phải nghiên cứu thêm để tìm hiểu chi tiết về phương thức định giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia các công ty trong các môi trường khác nhau. Có thể có những nghiên cứu trong tương lai sử dụng các phương pháp và phương pháp tương tự có thể có giá trị, tập trung vào kiểm tra các cuộc kiểm toán tài sản vô hình theo quan điểm của các công ty đa quốc gia. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 51Số 136 - tháng 2/2019 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Armstrong, M. A. (1998), “The political economy of international transfer pricing, 1945–1994: state, capital and the decomposition of class”, Critical Perspectives on Accounting, Vol. 9 No. 4, pp. 391-432; 2. Benshalom, I. (2013), “Rethinking the Source of the Arm’s-Length Transfer Pricing Problem”, Virginia Tax Review, Vol. 32 No. 3, pp. 425-459; 3. Boll, K. (2014), “Shady car dealings and taxing work practices: An ethnography of a tax audit process”, Accounting, Organizations and Society, Vol. 39 No. 1, pp. 1-19; 4. Borkowski, S. C. (1996), “An analysis (meta-and otherwise) of multinational transfer pricing research”, The International Journal of Accounting, Vol. 31 No. 1, pp. 39-53; 5. Borkowski, S. C. (1997), “The transfer pricing concerns of developed and developing countries”, The International Journal of Accounting, Vol. 32 No. 3, pp. 321-336; 6. Borkowski, S. C. (2001), “Transfer pricing of intangible property: Harmony and discord across five countries”, The International Journal of Accounting, Vol. 36 No. 3, pp. 349-374; 7. Borkowski, S. C. (2010), “Transfer pricing practices of transnational corporations in PATA countries”, Journal of International Accounting, Auditing and Taxation, Vol. 19 No. 1, pp. 35-54; 8. Boyatzis, R. E. (1998), Transforming qualitative information: Thematic analysis and code development, Sage, Thousand Oaks, CA; 9. Chan, K. H., Lo, A. W. and Mo, P. L. (2015), “An empirical analysis of the changes in tax audit focus on international transfer pricing”, Journal of International Accounting, Auditing and Taxation, Vol. 24, pp. 94-104; 10. Cools, M., Emmanuel, C. and Jorissen, A. (2008), “Management control in the transfer pricing tax compliant multinational enterprise”, Accounting, Organizations and Society, Vol. 33 No. 6, pp. 603-628; 11. Cooper, D. J., Dacin, T. and Palmer, D. A. (2013), “Fraud in accounting, organizations and society: Extending the boundaries of research”, Accounting, Organizations & Society, Vol. 38 No. 6-7, pp. 440-457; 12. Desai, M. A., Foley, C. F. and Hines, J. R. (2006), “The demand for tax haven operations”, Journal of Public Economics, Vol. 90 No. 3, pp. 513-531; 13. Dyreng, S., Lindsey, B. P., Markle, K. and Shackelford, D. A. (2015), “The Effect of Tax and Nontax Country Characteristics on the Global Equity Supply Chains of US Multinationals”, Journal of Accounting and Economics, Vol. 59, pp. 182-202; 14. EY. (2012), “Global transfer pricing tax authority survey: Perspectives, interpretations and regulatory change”, available at: ey.com/GL/en/Services/Tax/2012-global- trans- fer-pricing-tax-authority-survey-Perspectives-in- terpretations; 15. Falcão, T. (2010), “Contributing a Developing Country’s Perspective to International Taxation: United Nations Tender for Development of a Transfer Pricing Manual”, Intertax, Vol. 38 No. 10, pp. 502-508; 16. Gramlich, J. D., Limpaphayom, P. and Rhee, S. G. (2004), “Taxes, keiretsu affiliation, and income shifting”, Journal of Accounting and Economics, Vol. 37 No. 2, pp. 203-228; 17. Huizinga, H. and Laeven, L. (2008), “International profit shifting within multinationals: A multi- country perspective”, Journal of Public Economics, Vol. 92 No. 5, pp. 1164-1182; 18. Keuschnigg, C. and Devereux, M. P. (2013), “The arm’s length principle and distortions to multinational firm organization”, Journal of International Economics, Vol. 89 No. 2, pp. 432-440; 19. Martini, J. T., Niemann, R. and Simons, D. (2012), “Transfer Pricing or Formula Apportionment? Tax‐Induced Distortions of Multinationals’ Investment and Production Decisions”, Contemporary Accounting Research, Vol. 29 No. 4, pp. 1060-1086; 20. Matsui, K. (2011), “Intrafirm trade, arm’s-length transfer pricing rule, and coordination failure”, European Journal of Operational Research, Vol. 212 No. 3, pp. 570-582; 21. OECD. (2010), OECD transfer pricing guidelines for multinational enterprises and tax administrations, OECD Publishing, Paris, France; 22. Pinto, O. M. (2012), “A comparison of transfer pricing practices in Canada and China”, International Journal of Business and Social Science, Vol. 3 No. 23, pp. 36-44; 23. Pogorelova, L. (2009), “Transfer pricing and anti-abuse rules”, Intertax, Vol. 37 No. 12, pp. 683- 693; 24. Przysuski, M., Lalapet, S. and Swanevald, H. (2004), “Transfer pricing of intangible property- Part I: a Canadian-US comparison”, Corp. Bus. Tax’n Monthly, Vol. 5, pp. 10; 25. Visconti, R. M. (2012), “Exclusive patents and trademarks and subsequent uneasy transaction comparability: Some transfer pricing implications”, Intertax, Vol. 40 No. 3, pp. 212-219; 26. Ylönen, M. and Laine, M. (2015), “For logistical reasons only? A case study of tax planning and corporate social responsibility reporting”, Critical Perspectives on Accounting, 33, 5-23.
File đính kèm:
dinh_gia_chuyen_giao_ve_tai_san_vo_hinh_cua_cong_ty_da_quoc.pdf