Định giá chuyển giao về tài sản vô hình của công ty đa quốc gia

mục tiêu bài viết là tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan về việc định giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia dựa trên nguyên tắc một cánh tay đối với tài sản vô hình. Thông qua tổng hợp, phân tích các nghiên cứu trước đây được thực hiện chủ yếu ở các nước phát triển và kinh nghiệm một số nước đang phát triển. Từ đó, đưa

ra các ý tưởng cho nghiên cứu trong tương lai.

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Định giá chuyển giao về tài sản vô hình của công ty đa quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Định giá chuyển giao về tài sản vô hình của công ty đa quốc gia

Định giá chuyển giao về tài sản vô hình của công ty đa quốc gia
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN46 Số 136 - tháng 2/2019
ÑÒNH GIAÙ CHUYEÅN GIAO VEÀ TAØI SAÛN 
VOÂ HÌNH CUÛA COÂNG TY ÑA QUOÁC GIA
ThS. PHùNG ANH THƯ*
ThS. NGUYỄN VĩNH KHƯơNG*
* Đại Học Nguyễn Tất Thành; Trường Đại học Kinh tế-Luật_ĐHQG TP.HCM 
Mục tiêu bài viết là tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan về việc định giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia dựa trên nguyên tắc một cánh tay đối với tài sản vô hình. Thông qua tổng hợp, phân tích các nghiên cứu trước đây được thực hiện chủ yếu ở các nước phát triển và kinh nghiệm một số nước đang phát triển. Từ đó, đưa 
ra các ý tưởng cho nghiên cứu trong tương lai.
Từ khóa: Giá chuyển giao, công ty đa quốc gia
Valuation for transfer of the intangible assets of the multinational corporations
The objective of the article is to review previous relevant studies on the transfer pricing of multinational 
corporations based on the one-arm principle of intangible assets. Through synthesis and analysis of previous 
studies conducted mainly in developed countries and experience in some developing countries, the article 
thereon, gives ideas for future research.
keywords: Transfer price, multinational corporation
1. Giới thiệu
Định giá chuyển giao của công ty đa quốc gia 
được coi là công cụ quốc tế về chiến lược và quản lý 
thuế được các công ty đa quốc gia (MNCs) sử dụng 
để tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu nghĩa vụ thuế 
của công ty ở các quốc gia được điều hành thông 
qua một hoặc nhiều chi nhánh, đơn vị (Huizinga & 
Laeven, 2008, Borkowski, 2010, Plesner Rossing & 
Rohde, 2010). Các công ty đa quốc gia có thể chọn 
khai thác sự khác biệt về chính sách thuế, các quy 
định về giá chuyển giao, thuế nhập khẩu, và các 
hạn chế về chuyển lợi nhuận để chuyển lợi nhuận 
từ một khu vực này sang khu vực khác để giảm 
thiểu thuế, do đó làm mất đi số tiền thuế thu được 
ở các quốc gia (Borkowski, 1997; Sikka & Willmott, 
2010, Taylor & Richardson, 2012, Richardson và 
cộng sự, 2013, Ylönen & Laine, 2015, Chan và cộng 
sự, 2015, Dyreng và cộng sự, năm 2015).
Cơ quan quản lý thuế nhận thấy giá chuyển giao 
là hình thức phổ biến nhất của việc tránh thuế của 
các công ty đa quốc gia (Chan và cộng sự, 2015). 
Mặc dù giá chuyển giao thường được xác định là 
công cụ quan trọng để tránh đánh thuế nhưng 
thông tin chi tiết về cách định giá chuyển giao 
được sử dụng trong các giao dịch nội bộ (Ylönen 
& Laine, 2015). Các công ty đa quốc gia ít khi cung 
cấp bất kỳ thông tin có ý nghĩa quan trọng về thực 
tiễn định giá chuyển giao của họ trong báo cáo 
tài chính (Tang & Zhao, 2001; Sikka & Willmott, 
2010). Kiểm toán viên phải tiến hành kiểm tra và 
điều tra nghiêm ngặt đối với các công ty đa quốc 
gia để đảm bảo rằng chính quyền địa phương nhận 
được khoản thu thích hợp từ các giao dịch chuyển 
giá. Tuy nhiên, tiến hành kiểm tra như vậy thường 
là một thách thức, vì các giao dịch giữa các doanh 
nghiệp trong nước và các bên liên quan đến nước 
ngoài không phải lúc nào cũng tuân theo nguyên 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 47Số 136 - tháng 2/2019
tắc của điều kiện kinh doanh vì một bên có ảnh 
hưởng đáng kể đối với các bên khác (Tổ chức Hợp 
tác và Phát triển Kinh tế (OECD), 2010)]. Ernst & 
Young (2012) thấy rằng hơn ba phần tư các công ty 
tại Trung Quốc với điều chỉnh kiểm toán về chuyển 
giá phải trả tiền phạt là hai mươi lăm phần trăm 
ngoài thuế, tuy nhiên, hàng năm Trung Quốc vẫn 
mất 4.7 tỷ đô la từ chuyển giá liên quan đến việc 
tránh thuế (Chan và cộng sự, năm 2015).
Martini và cộng sự (2012) cho thấy nếu các công 
ty đa quốc gia (MNCs) thường tập trung hóa, thì 
quốc gia có thu nhập thấp thường thu hút đầu tư 
cao hơn. Các giao dịch xuyên biên giới giữa công ty 
mẹ và chi nhánh hoặc công ty con tăng đáng kể do 
sự tăng trưởng nhanh trong đầu tư trực tiếp nước 
ngoài. Sau sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài, 
xung đột giữa các công ty đa quốc gia và cơ quan 
quản lý thuế ở cả nước sở tại và cả quốc gia nơi 
công ty mẹ đặt trụ sở, vì các các công ty đa quốc 
gia cố gắng phân bổ lại thu nhập của họ từ các cơ 
quan thuế cao hơn cho các cơ sở thuế thấp hơn 
để giảm thiểu tổng gánh nặng thuế và tối đa hóa 
lợi nhuận (Borkowski, 2001; Conover & Nichols, 
2000, Li, 2005; Swenson, 2001, Dyreng và cộng sự, 
năm 2015, Richardson và cộng sự, 2013). Desai và 
cộng sự (2006) nhấn mạnh rằng các giao dịch giữa 
các bên liên quan ở các cơ quan có thẩm quyền 
về thuế khác nhau tạo cơ hội đáng kể để tham gia 
vào việc tránh đánh thuế xuyên quốc gia (Taylor & 
Richardson, 2012). Hơn nữa, vì các chuyển đổi liên 
quan cung cấp cho các công ty đa quốc gia cơ hội 
đáng kể để giảm thuế, hạ thấp cơ sở tính thuế thu 
nhập doanh nghiệp và gia tăng phân biệt đối xử với 
các công ty trong nước (Gramlich và cộng sự, 2004. 
Huizinga & Laeven, 2008, Benshalom, 2013).
Để chống lại việc chuyển giá nhằm mục đích 
tránh thuế, các cơ quan thuế thực thi các công cụ 
lập pháp và quy định, bao gồm điều chỉnh kiểm 
toán liên quan về thuế (Li, 2005). Ngoài việc điều 
chỉnh thuế, một số cơ quan thuế cũng có thể áp 
dụng những hình phạt nặng đối với việc cung cấp 
thông tin về giá cả không đầy đủ và không kịp thời 
(Cools và cộng sự, 2008). Các nguyên tắc định giá 
chuyển đổi của OECD được coi là tài liệu tham 
khảo chính để giải quyết các trường hợp định giá 
chuyển giao (Cools và cộng sự, 2008). Các hoạt 
động định giá của các công ty đa quốc gia có thể 
liên quan đến việc chuyển giao cả tài sản hữu hình 
và tài sản vô hình, và phải dựa trên nguyên tắc một 
cánh tay (arm’s- length principle). Nguyên tắc này 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN48 Số 136 - tháng 2/2019
nghĩa là mức giá đàm phán giữa hai bên không có 
quan hệ trong điều kiện mua bán tương tự. Mức giá 
này có thể được xác định dựa trên giá thị trường 
hoặc chi phí sản xuất. Tuy nhiên, cơ quan thuế ở 
các nước đang phát triển thường thiếu thông tin và 
chuyên môn cần thiết để tính toán mức giá thuận 
mua vừa bán này. Tất cả các giao dịch liên quan đến 
việc chuyển giao các tài sản vô hình trong công ty 
phải được đánh giá ở mức giá mà công ty đa quốc 
gia đã sử dụng khi giao dịch với một tổ chức độc 
lập bên ngoài (OECD, 2010). Tuy nhiên, việc thiếu 
sự chuyển đổi tương đương từ đó để phát triển giá 
bán theo thời gian sẽ làm phức tạp công việc định 
giá (Desai và cộng sự, 2006). Tình hình còn phức 
tạp hơn do thiếu sự thực thi pháp luật, chuyển giao 
các quy định về giá ở các nước đang phát triển. 
Chính vì vậy, nhóm tác giả tổng kết các nghiên 
cứu về định giá chuyển giao về tài sản vô hình. Bài 
viết sẽ tổng hợp, phân tích các nghiên cứu có liên 
quan trực tiếp đến chủ đề và chỉ ra những khó khăn 
trong việc sử dụng nguyên tắc một cánh tay và so 
sánh cho việc định giá và các điều chỉnh thuế liên 
quan cho việc định giá chuyển giao của các công ty 
đa quốc gia đối với tài sản vô hình.
2. khái niệm về định giá chuyển giao
Giá chuyển giao là giá trị cho các sản phẩm nội 
bộ giữa các công ty (sản phẩm và dịch vụ trung 
gian) được mua từ các đơn vị của công ty (độc 
lập), nghĩa là giá nội bộ của sản phẩm được tạo ra 
trong công ty. Một trong những chức năng chính 
của giá chuyển giao là sự phối hợp quản lý của bộ 
phận bán và mua. Phân bổ chi phí là một hình thức 
chuyển nhượng đặc biệt, đó là giá chuyển giao dựa 
trên chi phí của bộ phận công ty sản xuất và tổng 
chi phí được phân bổ bằng với chi phí phát sinh. Vì 
vậy, nếu một số tiền lớn hơn được phân bổ cho một 
bộ phận, một bộ phận khác sẽ phải đối mặt với số 
tiền thấp hơn được phân bổ.
Chức năng của giá chuyển giao
Các chức năng quan trọng nhất của giá chuyển 
giao (để sử dụng nội bộ) là:
1. Phân bổ lợi nhuận để đánh giá lợi nhuận và 
phân tích kết quả hoạt động;
2. Sự phối hợp, ảnh hưởng và hướng dẫn của 
các bộ phận;
3. Tính toán, hạch toán và quyết định giá;
4. Mục đích thông tin cho đối tượng bên ngoài, 
đặc biệt là đối với bảng cân đối kế toán và báo cáo 
kết quả hoạt động kinh doanh;
5. Đơn giản hóa (giá chuyển giao được áp dụng 
như biện pháp đo lường chuẩn hóa ngân sách).
3. Các nghiên cứu liên quan trước đây
Sự gia tăng chưa từng thấy trong các giao dịch 
xuyên biên giới trên toàn thế giới đã dẫn tới sự 
gia tăng chuyển giao tài sản vô hình giữa các công 
ty đa quốc gia (Pinto, 2012, Cooper và cộng sự, 
2013). Các nghiên cứu còn lại về các vấn đề về giá 
chuyển giao bao gồm các chuyển đổi xuyên quốc 
gia về tài sản hữu hình và tài sản vô hình, và các 
nghiên cứu thực tiễn về các phương thức định giá 
của các công ty xuyên quốc gia (Borkowski, 1996; 
Bakker, 2009, Lo và cộng sự, 2010; Plesner Rossing, 
2013; Yao, 2013). Borkowski (1997) đã khảo sát các 
cơ quan Chính phủ ở 47 quốc gia để làm sáng tỏ 
mối quan ngại của Chính phủ về giá chuyển giao 
và yêu cầu của các quy định để chống lại các thao 
túng giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia. 
Các nhà nghiên cứu cho rằng việc xây dựng một 
chính sách giá chuyển giao chuẩn hóa và yêu cầu 
tăng cường sự công bố về mức độ và ảnh hưởng 
của giá chuyển giao đối với thu nhập chịu thuế và 
thuế phải nộp trong báo cáo tài chính của các công 
ty đa quốc gia có thể hữu ích trong việc giảm bớt 
việc điều chỉnh giá chuyển giao (Sikka & Willmott, 
2010; Otusanya, 2011, Taylor & Richardson, 2012, 
Ylönen & Laine, 2015). Gần đây, Boll (2014) đã đề 
xuất nhiều nghiên cứu hàn lâm hơn cho việc phát 
triển và tăng cường phân tích các quy trình kiểm 
toán và quản lý thuế.
Chuẩn mực quốc tế về phát triển giá chuyển giao 
đối với tài sản vô hình được chuyển giao giữa công 
ty mẹ và các công ty con là nguyên tắc một cánh 
tay. Mục tiêu cơ bản của nguyên tắc này là đảm bảo 
rằng các thoả thuận được tiến hành giữa các doanh 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 49Số 136 - tháng 2/2019
nghiệp trực thuộc ít nhất cũng tương tự như các 
công việc được tiến hành bởi các doanh nghiệp độc 
lập trong một môi trường cạnh tranh hoàn hảo. 
Khi các điều kiện giữa các doanh nghiệp trực thuộc 
khác với doanh nghiệp độc lập, cơ quan thuế được 
trao quyền điều chỉnh lợi nhuận thu được từ các 
doanh nghiệp trực thuộc, dựa trên Điều 9 (2) Công 
ước về Thuế của OECD (Pogorelova, 2009). Do đó, 
nguyên tắc một cánh tay mang lại “cây gậy quốc 
tế” cho các cơ quan thuế để đánh giá sự công bằng 
của giá chuyển giao. Cơ quan thuế sẽ chấp nhận giá 
chuyển giao đã xảy ra giữa các bên liên quan miễn 
là các bên liên quan có thể chứng minh rằng các 
bên độc lập sẽ có giá tương tự trong các tình huống 
tương tự (Cools và cộng sự, 2008; Yao, 2013).
OECD cho rằng khi các bên độc lập thực hiện 
giao dịch, “lực thị trường” sẽ xác định các điều kiện 
của cả quan hệ thương mại và tài chính, chẳng hạn 
như giá cả và điều kiện của hàng hoá và dịch vụ 
đang được chuyển giao. Mặt khác, khi các doanh 
nghiệp liên kết tham gia vào các giao dịch với nhau, 
các “lực thị trường” bên ngoài sẽ không ảnh hưởng 
đến những giao dịch đó. Điều này gây ra mối quan 
tâm đặc biệt vì giá cả và lợi nhuận có thể được thiết 
lập để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp liên kết, 
và kết quả là doanh thu thuế của các nước tiếp nhận 
có thể bị méo mó (OECD, 2010). Mặc dù nguyên 
tắc một cánh tay đã được thông qua như là một tiêu 
chuẩn quốc tế để giải quyết các trường hợp định 
giá chuyển giao (Borkowski, 2001), Keuschnigg 
và Devereux (2013) lập luận rằng nguyên tắc một 
cánh tay không đưa ra chuẩn mực mạnh mẽ trong 
đánh thuế của các công ty đa quốc gia. Nguyên tắc 
một cánh tay có thể tạo ra những tổn thất về phúc 
lợi vì các cơ quan thuế có khuynh hướng làm sai 
lệch giá chuyển giao cao và tiền thu được thấp. 
Matsui (2011) cho thấy áp dụng thống nhất nguyên 
tắc một cánh tay của giá chuyển giao có thể dẫn 
đến sự thất bại về sự điều phối giữa các quốc gia do 
các giao dịch nội bộ giữa các công ty đa quốc gia.
Falcao (2010) cho rằng việc tìm kiếm các giao 
dịch tương đương thích hợp trong tình huống so 
sánh là rất cần thiết, đặc biệt ở các nước đang phát 
triển vì không có đủ khả năng để sản xuất hàng 
hoá và dịch vụ cung cấp dữ liệu cần thiết để phát 
triển các đối sánh chuẩn hóa. Các quốc gia đang 
phát triển có thể nhập các đối sánh chuẩn hóa từ 
các nước phát triển như Mỹ, Anh hoặc Nhật Bản, 
nhưng các vấn đề về ứng dụng sẽ phát sinh do sự 
khác biệt về cung và cầu, điều kiện thị trường và 
kinh doanh trong các giao dịch giữa các bên liên 
quan ở các nước phát triển và đang phát triển. 
Pinto (2012) so sánh sự khác biệt trong thực tiễn 
về giá chuyển giao giữa Canada và Trung Quốc và 
kết luận rằng việc lựa chọn thực tiễn giá chuyển 
giao ở một quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển 
kinh tế và văn hoá, các hệ thống chính trị và 
kinh tế, do đó làm cho giá chuyển giao toàn cầu 
các hướng dẫn do OECD đưa ra ít liên quan hơn. 
Pinto (2012) cũng nhấn mạnh rằng khi chuyển 
giao tài sản vô hình xảy ra giữa các doanh nghiệp 
liên kết với nhau, các vấn đề về định giá phát sinh 
vì rất khó để tìm ra giá cả tương đương vì tài sản 
vô hình thường tự phát triển bởi các doanh nghiệp 
liên kết, các nhóm, và không được chuyển giao cho 
các bên độc lập.
Visconti (2012) lập luận rằng việc xử lý thuế 
đối với giá chuyển giao đối với các tài sản vô hình 
đã trở thành một trong những mối quan tâm 
thuế quan trọng nhất của quốc tế. Việc áp dụng 
nguyên tắc định giá chuyển giao trên cơ sở giá tự 
do có thể so sánh được (comparable uncontrolled 
transaction (CUT)) do OECD đưa ra có thể gây ra 
những vấn đề với tài sản vô hình, vì các giao dịch 
này thường được đàm phán trong các nhóm quốc 
tế. Các thương hiệu hay bằng sáng chế nổi tiếng 
thường thuộc về các công ty lớn, vì vậy, có vẻ phức 
tạp và thường không có ý nghĩa khi các giao dịch 
này được so sánh với các cuộc đàm phán nhỏ và 
không kiểm soát được. Một vấn đề phức tạp khác 
được trình bày khi các thực thể trong một nhóm 
công ty đa quốc gia tham gia phát triển tài sản vô 
hình chung với nhau và sau đó sử dụng các giá trị 
vô hình đó, bất kể sự tham gia vào sự phát triển ban 
đầu. Những sự kiện này làm cho nhiệm vụ tách biệt 
và phân bổ sự tham gia tương đối của mỗi thành 
viên nhóm trong một nhóm đa quốc gia là rất 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN50 Số 136 - tháng 2/2019
khó khăn và thường không chính xác (Przysuski, 
Lalapet & Swaneveld, 2004).
Mặc dù, giá chuyển giao của các công ty đa 
quốc gia và sự phức tạp về mặt kiểm toán thuế liên 
quan đã được xác định là có hậu quả nghiêm trọng 
hơn đối với các nước đang phát triển nhưng có rất 
ít bằng chứng nghiên cứu về các vấn đề định giá 
chuyển tiền của công ty đa quốc gia. Borkowski 
(1997) khảo sát các cơ quan Chính phủ từ 47 quốc 
gia, nhưng không điều tra những lo ngại của kiểm 
toán viên về các thao tác định giá chuyển giao của 
công ty đa quốc gia. Tuy nhiên, Martini và cộng sự 
(2012) cho rằng công ty mẹ khai thác phạm vi giá 
cả theo thời gian để giảm thiểu gánh nặng thuế cho 
công ty đa quốc gia. Tương tự, Baldenius và cộng 
sự (2004) cho rằng nếu các công ty tách riêng giá 
chuyển giao nội bộ theo nguyên tắc một cánh tay 
sử dụng cho mục đích thuế thì giá chuyển giao sẽ 
bị ảnh hưởng bởi các mức thuế khác nhau. Mulyani 
(2010) là một nghiên cứu gần đây về việc tuân 
thủ giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia ở 
Indonesia đã sử dụng khảo sát và phỏng vấn bán 
cấu trúc trong năm 2008 để điều tra các vấn đề liên 
quan đến việc tuân thủ thuế. Ngược lại, mục đích 
chính của nghiên cứu hiện nay là để điều tra nhận 
thức của kiểm toán viên Indonesia về các mục tiêu 
kiểm toán.
Các nghiên cứu trước đây về giá chuyển giao 
cho thấy rằng giá chuyển giao bị ảnh hưởng bởi 
hành vi cá nhân và tập thể bên trong và bên ngoài 
tổ chức (Armstrong, 1998; Cools và cộng sự, 2008; 
Sikka & Willmott, 2010; Ylönen & Laine, 2015). 
Nghiên cứu này đóng góp vào sự hiểu biết về bản 
chất và vai trò tổ chức của kế toán trong các công ty 
đa quốc gia và các công ty con bằng cách khái quát 
hóa vai trò của kế toán và hiệu quả của kế toán dựa 
trên các quy trình ra quyết định của tổ chức. Hơn 
nữa, nghiên cứu này cung cấp mô tả phong phú về 
thực tiễn công việc của kiểm toán viên về thuế và 
tương tác liên quan đến quá trình kiểm toán thuế. 
Mặc dù có một số khác biệt trong quy định cụ thể 
của quốc gia để áp dụng nguyên tắc giá trị cho giá 
chuyển giao của công ty đa quốc gia, nhưng nguyên 
tắc cơ bản của OECD tiếp tục là khái niệm cơ bản 
trong quy định về giá chuyển giao của các công ty 
đa quốc gia toàn cầu (Cools and Emmanuel, 2007; 
EY, 2012; Plesner Rossing, 2013). Plesner Rossing 
(2013) nhận thấy rằng nguyên tắc một cánh tay 
thường dựa trên các phán đoán của cả công ty đa 
quốc gia và quan điểm của cơ quan thuế về cách 
áp dụng nguyên tắc một cánh tay và tài liệu trong 
các tình huống cụ thể và thường xuyên phức tạp vì 
chuỗi giá trị của công ty đa quốc gia thường thiếu 
sự minh bạch. Những phát hiện của nghiên cứu 
cung cấp thông tin hữu ích cho việc quản lý các 
công ty đa quốc gia liên quan đến nguyên tắc một 
cánh tay. Các công ty đa quốc gia có thể hiểu rõ hơn 
về sự tập trung kiểm toán thuế thay đổi theo hướng 
dẫn của OECD và cách thức các doanh nghiệp có 
các đặc điểm khác nhau đánh giá rủi ro trong việc 
kiểm toán giá chuyển giao cũng như các xu hướng 
trong tương lai ở các nền kinh tế đang phát triển 
(Chan và cộng sự, 2015). 
4. kết luận
Nghiên cứu này có thể mang lại lợi ích cho các 
công ty đa quốc gia để nâng cao hiểu biết của họ về 
việc tinh chỉnh chiến lược giá chuyển giao, cải thiện 
về quy trình kế toán và tăng sự minh bạch thông 
tin, và giảm nguy cơ bị phạt. Tổng quan các nghiên 
cứu cũng mở ra cơ hội cho các nghiên cứu trong 
tương lai. Các nhà nghiên cứu thấy rằng cấu trúc 
thuế hiệu quả không thể loại trừ được việc tránh 
thuế, điều này có thể liên quan đến quá trình tuân 
thủ bao gồm việc vận dụng giá chuyển giao (Shah, 
1996; Sikka & Willmott, 2010). Vì việc sử dụng giá 
chuyển giao để tránh thuế là đáng kể (Richardson 
và cộng sự, 2013. Sikka & Willmott, 2010) và vì có 
rất ít kiến thức sẵn có, cần phải nghiên cứu thêm 
để tìm hiểu chi tiết về phương thức định giá chuyển 
giao của các công ty đa quốc gia các công ty trong 
các môi trường khác nhau. Có thể có những nghiên 
cứu trong tương lai sử dụng các phương pháp và 
phương pháp tương tự có thể có giá trị, tập trung 
vào kiểm tra các cuộc kiểm toán tài sản vô hình 
theo quan điểm của các công ty đa quốc gia.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 51Số 136 - tháng 2/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Armstrong, M. A. (1998), “The political economy 
of international transfer pricing, 1945–1994: state, 
capital and the decomposition of class”, Critical 
Perspectives on Accounting, Vol. 9 No. 4, pp. 391-432;
2. Benshalom, I. (2013), “Rethinking the Source 
of the Arm’s-Length Transfer Pricing Problem”, 
Virginia Tax Review, Vol. 32 No. 3, pp. 425-459;
3. Boll, K. (2014), “Shady car dealings and taxing 
work practices: An ethnography of a tax audit 
process”, Accounting, Organizations and Society, 
Vol. 39 No. 1, pp. 1-19;
4. Borkowski, S. C. (1996), “An analysis (meta-and 
otherwise) of multinational transfer pricing 
research”, The International Journal of Accounting, 
Vol. 31 No. 1, pp. 39-53;
5. Borkowski, S. C. (1997), “The transfer pricing 
concerns of developed and developing countries”, 
The International Journal of Accounting, Vol. 32 
No. 3, pp. 321-336;
6. Borkowski, S. C. (2001), “Transfer pricing of 
intangible property: Harmony and discord across 
five countries”, The International Journal of 
Accounting, Vol. 36 No. 3, pp. 349-374;
7. Borkowski, S. C. (2010), “Transfer pricing 
practices of transnational corporations in PATA 
countries”, Journal of International Accounting, 
Auditing and Taxation, Vol. 19 No. 1, pp. 35-54;
8. Boyatzis, R. E. (1998), Transforming qualitative 
information: Thematic analysis and code 
development, Sage, Thousand Oaks, CA;
9. Chan, K. H., Lo, A. W. and Mo, P. L. (2015), “An 
empirical analysis of the changes in tax audit 
focus on international transfer pricing”, Journal of 
International Accounting, Auditing and Taxation, 
Vol. 24, pp. 94-104;
10. Cools, M., Emmanuel, C. and Jorissen, A. (2008), 
“Management control in the transfer pricing tax 
compliant multinational enterprise”, Accounting, 
Organizations and Society, Vol. 33 No. 6, pp. 603-628;
11. Cooper, D. J., Dacin, T. and Palmer, D. A. (2013), 
“Fraud in accounting, organizations and society: 
Extending the boundaries of research”, Accounting, 
Organizations & Society, Vol. 38 No. 6-7, pp. 440-457;
12. Desai, M. A., Foley, C. F. and Hines, J. R. (2006), 
“The demand for tax haven operations”, Journal 
of Public Economics, Vol. 90 No. 3, pp. 513-531;
13. Dyreng, S., Lindsey, B. P., Markle, K. and Shackelford, 
D. A. (2015), “The Effect of Tax and Nontax Country 
Characteristics on the Global Equity Supply Chains 
of US Multinationals”, Journal of Accounting and 
Economics, Vol. 59, pp. 182-202;
14. EY. (2012), “Global transfer pricing tax authority 
survey: Perspectives, interpretations and 
regulatory change”, available at: 
ey.com/GL/en/Services/Tax/2012-global- trans-
fer-pricing-tax-authority-survey-Perspectives-in-
terpretations;
15. Falcão, T. (2010), “Contributing a Developing 
Country’s Perspective to International Taxation: 
United Nations Tender for Development of a 
Transfer Pricing Manual”, Intertax, Vol. 38 No. 
10, pp. 502-508;
16. Gramlich, J. D., Limpaphayom, P. and Rhee, S. G. 
(2004), “Taxes, keiretsu affiliation, and income 
shifting”, Journal of Accounting and Economics, 
Vol. 37 No. 2, pp. 203-228;
17. Huizinga, H. and Laeven, L. (2008), “International 
profit shifting within multinationals: A multi- 
country perspective”, Journal of Public Economics, 
Vol. 92 No. 5, pp. 1164-1182;
18. Keuschnigg, C. and Devereux, M. P. (2013), 
“The arm’s length principle and distortions to 
multinational firm organization”, Journal of 
International Economics, Vol. 89 No. 2, pp. 432-440;
19. Martini, J. T., Niemann, R. and Simons, D. (2012), 
“Transfer Pricing or Formula Apportionment? 
Tax‐Induced Distortions of Multinationals’ 
Investment and Production Decisions”, 
Contemporary Accounting Research, Vol. 29 No. 
4, pp. 1060-1086;
20. Matsui, K. (2011), “Intrafirm trade, arm’s-length 
transfer pricing rule, and coordination failure”, 
European Journal of Operational Research, Vol. 
212 No. 3, pp. 570-582;
21. OECD. (2010), OECD transfer pricing 
guidelines for multinational enterprises and tax 
administrations, OECD Publishing, Paris, France;
22. Pinto, O. M. (2012), “A comparison of transfer 
pricing practices in Canada and China”, 
International Journal of Business and Social 
Science, Vol. 3 No. 23, pp. 36-44; 
23. Pogorelova, L. (2009), “Transfer pricing and anti-abuse 
rules”, Intertax, Vol. 37 No. 12, pp. 683- 693;
24. Przysuski, M., Lalapet, S. and Swanevald, H. 
(2004), “Transfer pricing of intangible property- 
Part I: a Canadian-US comparison”, Corp. Bus. 
Tax’n Monthly, Vol. 5, pp. 10;
25. Visconti, R. M. (2012), “Exclusive patents and 
trademarks and subsequent uneasy transaction 
comparability: Some transfer pricing implications”, 
Intertax, Vol. 40 No. 3, pp. 212-219;
26. Ylönen, M. and Laine, M. (2015), “For logistical 
reasons only? A case study of tax planning and 
corporate social responsibility reporting”, Critical 
Perspectives on Accounting, 33, 5-23.

File đính kèm:

  • pdfdinh_gia_chuyen_giao_ve_tai_san_vo_hinh_cua_cong_ty_da_quoc.pdf