Điều trị viêm tuyến vú bằng VABB - kinh nghiệm tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh
Viêm tuyến vú do vi trùng là một bệnh lý phổ biến ở phụ nữ. Điều trị chủ yếu là kháng sinh và chọc hút mủ
hay rạch thoát lưu. Những trường hợp viêm tuyến vú bán cấp phải dùng kháng sinh lâu dài không dứt hẳn là
một bệnh cảnh lâm sàng gây khó khăn cho thầy thuốc. Sử dụng VABB để điều trị những trường hợp này là một
lựa chọn hiệu quả. Bài báo cáo này chia sẻ kinh nghiệm sử dụng VABB để điều trị các trường hợp viêm tuyến
vú bán cấp bằng VABB tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM.
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị viêm tuyến vú bằng VABB - kinh nghiệm tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị viêm tuyến vú bằng VABB - kinh nghiệm tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh
VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 425 ĐIỀU TRỊ VIÊM TUYẾN VÚ BẰNG VABB - KINH NGHIỆM TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRẦN VIỆT THẾ PHƯƠNG1, PHẠM THIÊN HƯƠNG2, PHAN HOÀNG TÚ3, NGUYỄN HOÀNG THÂN3, LÊ HỒNG CÚC4 TÓM TẮT Viêm tuyến vú do vi trùng là một bệnh lý phổ biến ở phụ nữ. Điều trị chủ yếu là kháng sinh và chọc hút mủ hay rạch thoát lưu. Những trường hợp viêm tuyến vú bán cấp phải dùng kháng sinh lâu dài không dứt hẳn là một bệnh cảnh lâm sàng gây khó khĕn cho thầy thuốc. Sử dụng VABB để điều trị những trường hợp này là một lựa chọn hiệu quả. Bài báo cáo này chia sẻ kinh nghiệm sử dụng VABB để điều trị các trường hợp viêm tuyến vú bán cấp bằng VABB tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. ABSTRACT Treatment of mastitis by VABB - experience of Ho Chi Minh City Oncology Hospital Mastitis caused by bacteria is a common disease in women. Treatment are antibiotics and aspiration or drainage. Persistent subacute mastitis treated by prolonged antibiotics is an uncomfortable scenario for patients and physicians. Treatment of this disease by VABB is an efficient option. This article reports the experience of treatment of mastitis by VABB at Ho Chi Minh City Oncology hospital. 1 TS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 BSCKII. Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 3 Bác sĩ Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 BSCKII. Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm tuyến vú là một bệnh lý khá phổ biến ở phụ nữ, nhất là phụ nữ mang thai và cho con bú. Viêm tuyến vú thường do tác nhân là vi trùng Staphylococcus aureus, đi theo đường máu hay từ ngoài theo ống tuyến vú. Bệnh có thể gặp ở phụ nữ từ 18 đến 50 tuổi. Biểu hiện lâm sàng là sưng, nóng, đỏ, đau khi ở trong giai đoạn cấp. Nếu bệnh không được điều trị đúng mức, viêm cấp có thể tiến triển trở thành áp-xe, biểu hiện là tạo thành mủ. Để điều trị viêm tuyến vú thì cần phải dùng kháng sinh thích hợp. Khi đã tạo thành áp-xe thì trước kia người ta chủ trương điều trị bằng cách rạch thoát lưu. Việc rạch thoát lưu thường được tiến hành dưới gây mê, phải chĕm sóc khá lâu và gây đau đớn cho bệnh nhân. Gần đây, một chọn lựa khác thường được sử dụng hơn là dùng kim chọc hút mủ nhiều lần cũng đem lại hiệu quả và ít đau đớn hơn. Một dạng lâm sàng khác của viêm tuyến vú là sau giai đoạn cấp tính, tình trạng viêm không tiến triển thành áp xe mà trở thành viêm bán cấp. Khi đó, các biểu hiện đỏ, đau, sưng, nóng giảm rất nhiều. Bệnh nhân đến khám với bệnh cảnh lâm sàng là một khối cứng, đau ít, siêu âm cho thấy một hay nhiều khối viêm và thường có mủ len lỏi bên trong. Tình trạng viêm bán cấp này kéo dài trong nhiều tháng và gây cho bệnh nhân rất nhiều lo lắng và khó chịu. Điều trị viêm bán cấp tuyến vú thường phức tạp, kéo dài, gây mệt mỏi cho cả thầy thuốc lẫn người bệnh. Bệnh nhân phải dùng kháng sinh rất lâu, ổ bán cấp thuyên giảm chậm. Có nhiều trường hợp sau một thời gian thuyên giảm rõ rệt rồi ổ viêm không đáp ứng điều trị nữa. Khi đó thầy thuốc phải nghĩ đến can thiệp ngoại khoa là mổ cắt đi khối viêm và mủ. Một khó khĕn trong cuộc mổ là trong nhiều trường hợp thì ổ viêm không có giới hạn rõ, phẫu thuật viên phải chọn lựa là mổ cắt không hết ổ viêm hoặc cắt thừa mô vú bình thường. VABB (Vacuum assisted breast biopsy-sinh thiết vú có hỗ trợ hút chân không) là kỹ thuật đã phát triển từ giữa những nĕm 1990. Kỹ thuật này được dùng để sinh thiết các tổn thương vú nghi ung thư hay lành tính. Đối với tổn thương lành tính, VABB còn có thể dùng để điều trị là lấy toàn bộ tổn thương mà không để lại sẹo to trên vú. Gần đây, VABB còn được sử dụng để lấy đi các tổn thương viêm tuyến vú hay áp-xe vú. VABB được thực hiện đầu tiên tại Việt Nam từ nĕm 2017 tại Bệnh viện Ung Bướu VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 426 TP. HCM. Cũng như những nơi khác, VABB được dùng để sinh thiết các tổn thương vú và điều trị các bướu lành của vú. Bên cạnh đó, VABB còn được sử dụng để xử trí các trường hợp viêm vú, đặc biệt là viêm vú bán cấp kéo dài dai dẳng không thể điều trị dứt điểm bằng nội khoa. Bài viết này chia sẻ các trường hợp viêm tuyến vú đã được điều trị bằng VABB tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bệnh nhân được điều trị tại khoa Ngoại 4 Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ 2/2017 đến 10/2019, được chẩn đoán là viêm tuyến vú và điều trị bằng kháng sinh, kháng viêm nhưng đáp ứng không hoàn toàn và tiến triển dai dẳng. Các trường hợp này được sử dụng kháng sinh trong thời gian dài (thường là Augmentin và một quinolone). Bệnh nhân được theo dõi định kỳ bằng khám lâm sàng và siêu âm để đánh giá tình trạng đáp ứng của tổn thương. Trong quá trình theo dõi các trường hợp viêm tuyến vú khác đáp ứng tốt và tan hoàn toàn sang thương, một số trường hợp tổn thương viêm không đáp ứng nhiều hay chỉ thuyên giảm sau một thời gian rồi không nhỏ đi. Trước những trường hợp này, bác sĩ điều trị sẽ đứng trước chọn lựa là mổ hở để cắt trọn tổn thương hay cùng VABB để lấy đi tổn thương. Mổ hở sẽ được chỉ định cho các trường hợp tổn thương to. Những trường hợp tổn thương không quá to (≤ 5cm) sẽ được chỉ định lấy đi bằng VABB. Bệnh nhân được bác sĩ chẩn đoán hình ảnh trong ê - kip nghiên cứu siêu âm lại để đánh giá kích thước tổn thương, độ lan rộng. Bệnh nhân vẫn tiếp tục dùng kháng sinh kháng viêm cho đến ngày làm thủ thuật. Người thực hiện thủ thuật là bác sĩ chẩn đoán hình ảnh hay phẫu thuật viên tuyến vú. Máy VABB là máy Legacy (Mammotome, Devicor Medical Products, Inc-USA) với kim 8G. Bệnh nhân được gây tê tại chỗ bằng Lidocain 1% ở dưới da và dưới tổn thương. Dùng dao mổ để rạch một đường vào khoảng 2mm. Kim VABB được đưa vào mô vú dưới hướng dẫn của siêu âm và tiến hành cắt hút tổn thương. Người thực hiện sẽ cố gắng cắt hút trọn tổn thương, lấy hết mủ, các tổn thương viêm và đường dò. Sau đó bệnh nhân được bĕng ép và ra về ngay trong ngày. Tiếp tục sử dụng kháng sinh và hẹn tái khám sau 1 tuần để được đánh giá lại bằng siêu âm. Mẩu mô được gửi giải phẫu bệnh để có chẩn đoán mô bệnh học. KẾT QUẢ Trong khoảng thời gian từ 2/2017 đến 10/2019 có 11 trường hợp (24 bướu) viêm vú được điều trị bằng VABB tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 31,6 (20 - 49), có 9 bệnh nhân ở tỉnh và 2 bệnh nhân là ở TP. HCM. Bảng 1. Kết quả siêu âm Kết quả siêu âm Số ca Tỉ lệ % Bướu sợi tuyến 1 9,1 Đa bướu nhú 1 9,1 Viêm - áp-xe 8 72,7 Nghĩ K 1 9,1 Tổng cộng 11 100 Siêu âm là phương tiện cận lâm sàng chủ lực để chẩn đoán viêm, áp-xe vú. Đa số trường hợp được chẩn đoán bằng siêu âm chính xác là viêm, áp-xe (72,7%). Bảng 2. Kết quả nhũ ảnh BIRADS Số ca Tỉ lệ % II 1 9,1 IV 1 9,1 V 1 9,1 Không chụp 8 72,7 Tổng cộng 11 100 Nhũ ảnh ít được sử dụng trong những trường hợp này vì đa số bệnh nhân còn trẻ. Đau cũng là một lý do làm cho bệnh nhân không được chụp nhũ ảnh. Bảng 3. Kết quả FNA Kết quả FNA Số ca Tỉ lệ % Tổn thương dạng nhú 1 9,1 TĐSB 2 18,2 Chất dịch+ tế bào viêm 3 27,3 Viêm dạng hạt 2 18,2 Không có 3 27,3 Tổng cộng 11 100 Có 8 trường hợp đều được thực hiện FNA. Nĕm trong tám trường hợp này được chẩn đoán là viêm trên FNA. Bảng 4. Kết quả sinh thiết lõi kim Sinh thiết lõi kim Số ca Tỉ lệ % Viêm áp - xe 4 36,4 Viêm dạng hạt 1 9,1 Không có 6 54,5 Tổng cộng 11 100 Có 5 trường hợp được thực hiện sinh thiết lõi kim. Tỉ lệ chẩn đoán chính xác của sinh thiết lõi kim là 100%. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 427 Bảng 5. Số lượng tổn thương được lấy ra Số lượng tổn thương Số ca Tỉ lệ % 1 3 27,3 2 4 36,4 3 3 27,3 4 1 9,1 Tổng cộng 11 100 Đa ổ là tính chất thường gặp của viêm mạn tính của vú. Tổng cộng có 24 tổn thương được lấy ra ở 11 bệnh nhân. Bảng 6. Kết quả giải phẫu bệnh Giải phẫu bệnh Số ca Tỉ lệ % Viêm - áp - xe 4 36,4 Viêm tuyến vú dạng hạt 7 63,6 Tổng cộng 11 100 Sau khi lấy tổn thương viêm ra thì mẩu mô luôn được gửi giải phẫu bệnh. Đa số các trường hợp (63,6%) có giải phẫu bệnh là viêm mạn tính (dạng hạt), phù hợp với bệnh cảnh lâm sàng. Bảng 7. Các biến chứng Biến chứng Số ca Tỉ lệ % Bầm máu 3 27,3 Máu tụ (có chọc hút) 1 9,1 Máu tụ (không cần chọc hút) 3 27,3 Đau 4 (trong 3 ngày đầu, 3 - 5/10 36,4 Tụ dịch tại giường bướu 9/9 100 Nhiễm trùng 0 0 Tổn thương thành ngực 0 0 Các biến chứng thường nhẹ và tự khỏi. Tụ dịch tại giường bướu luôn gặp do đã lấy đi một lượng mô vú bị viêm đáng kể. Không có biến chứng nào nghiêm trọng như nhiễm trùng hay tổn thương thành ngực. Có 9/11 trường hợp được siêu âm lại sau 10 ngày để đánh giá, trong đó có 3 trường hợp còn mô viêm rải rác. Các trường hợp này được tiếp tục điều trị kháng sinh kháng viêm và theo dõi định kỳ và các tổn thương cũng biến mất. Các trường hợp còn lại không còn tổn thương ở vú khi siêu âm. Bệnh nhân ổn định về lâm sàng. Hình 1. Ổ viêm vú lan rộng trên siêu âm Hình 2. Sau 1 nĕm, tổn thương không còn Hình 3. Trường hợp bầm máu sau thủ thuật Hình 4. Trường hợp không bị bầm máu VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 428 BÀN LUẬN Điều trị viêm tuyến vú do vi trùng chủ yếu là kháng sinh, kháng viêm, và chọc hút mủ (dưới hướng dẫn của siêu âm) và trong đa số trường hợp bệnh sẽ được điều trị khỏi. Một số ít trường hợp viêm có biểu hiện là áp-xe và cần được thoát lưu. Hạn chế của chọc hút mủ là bệnh nhân phải được thực hiện nhiều lần, thời gian điều trị lâu. Hạn chế của rạch thoát lưu là thường phải làm dưới gây mê, để lại sẹo, thay bĕng lâu dài và gây đau đớn. Do đó, từ lâu một số tác giả đã đề nghị sử dụng VABB để giải quyết các trường hợp viêm hay áp-xe vú không đáp ứng tốt với chọc hút mủ. Để chẩn đoán thì phương tiện chủ yếu là lâm sàng và siêu âm. Trong nghiên cứu này, tất cả bệnh nhân đều được siêu âm vú. Bên cạnh việc giúp chẩn đoán xác định, siêu âm còn giúp để đánh giá mức độ lan rộng, giai đoạn viêm (cấp tính, tạo áp-xe, hay viêm mạn). Trong giai đoạn chuyển thành viêm mạn, biểu hiện lâm sàng bệnh nhân không còn đau nhiều, khi khám thường thấy một hay nhiều khối chắc ở vú, giới hạn không rõ. Bệnh nhân thường khai đã đi khám ở nhiều bác sĩ, dùng kháng sinh trong một thời gian dài. Hình ảnh siêu âm là một hay nhiều ổ viêm có dạng khối đặc với ít mủ len lỏi bên trong. Đứng trước tình huống này, người bác sĩ điều trị cần phải phân biệt tình trạng viêm bán cấp do vi trùng (thường là Staphylococcus aureus) với bệnh lý ung thư, hay những tình trạng viêm mạn tính khác như lao vú, viêm tuyến vú mạn vô cĕn (IGM - idiopathic granulomatis mastits). Bệnh nhân cần được làm những xét nghiệm như sinh thiết lõi kim, nhũ ảnh. Khi chọc hút mủ hay sinh thiết thì cần làm kháng sinh đồ. Nhưng trong nhiều trường hợp do bệnh nhân đã được sử dụng kháng sinh trước đó nên vi trùng thường không mọc. Để loại trừ lao vú thì cần làm soi tươi tìm vi trùng lao, PCR lao, và dựa vào giải phẫu bệnh. Trong nhiều trường hợp, thầy thuốc điều trị sẽ cố gắng chọc hút mủ nhưng không thành công do lượng mủ ít và rất đặc. Bệnh cảnh như vậy sẽ gây lúng túng cho thầy thuốc và bệnh nhân thì rất lo lắng. Khi điều trị kháng sinh kéo dài thì một số trường hợp khối viêm sẽ nhỏ dần và biến mất. Những trường hợp tạo khối áp xe thì được xử trí dễ dàng là chọc hút mủ hay rạch thoát lưu. Tuy nhiên có một nhóm bệnh nhân viêm mạn sẽ không đáp ứng tốt với kháng sinh. Khối viêm ở vú không thuyên giảm nhiều sau thời gian dài điều trị hay thuyên giảm đến một mức độ nào đó rồi không nhỏ nữa. Khi đó, lấy đi tổn thương là một phương án khả thi nhất để điều trị bệnh. Có hai cách để lấy đi tổn thương: bằng mổ hở hay bằng VABB. Mổ hở có ưu điểm là lấy được những tổn thương to (>5cm), thuận lợi nếu tổn thương giới hạn rõ. Tuy nhiên, đây là phương pháp xâm lấn, thường cần phải gây mê, nếu tổn thương đa ổ, không giới hạn rõ, len lỏi trong mô vú thì có nhiều khả nĕng sẽ không lấy được hết, hoặc ngược lại phải cắt rất rộng mất nhiều mô vú. VABB là kỹ thuật lấy đi tổn thương mà khắc phục những nhược điểm này của mổ hở. VABB được phát minh từ nĕm 1995 để khắc phục những nhược điểm của sinh thiết lõi kim. VABB đã được dùng để sinh thiết chẩn đoán các tổn thương nghi ngờ, điều trị các tổn thương lành tính, đánh giá đáp ứng của bướu sau hóa trị tân hỗ trợ. Sau đó, VABB còn được dùng để điều trị các trường hợp viêm hay áp-xe vú. Nĕm 2005, Varey báo cáo 24 trường hợp áp-xe vú được điều trị rất khả quan bằng Mammotome. Thrush ở Đơn vị tuyến vú Edinburgh sau đó cũng dùng VABB cho những trường hợp thất bại với chọc hút mủ. Nĕm 2013, Wang báo cáo 70 trường hợp áp-xe vú được dùng Mammotome để điều trị. Khuyến cáo của Wang từ nghiên cứu này là ổ áp-xe dưới 3,5cm sẽ có kết quả điều trị tốt hơn là lớn hơn 3,5cm. Đối với trường hợp ổ áp-xe lớn, Wang sẽ đặt catheter vào ổ áp-xe để dẫn lưu. Kang nĕm 2016 so sánh hai phương pháp chọc hút kim và dùng VABB để xử lý áp-xe vú thì thời gian lành bệnh ở nhóm VABB sẽ nhanh hơn. Do đó tác giả đề nghị sử dụng VABB cho các trường hợp ổ áp-xe lớn, đa ổ. Chen nĕm 2019 báo cáo 36 trường hợp áp-xe vú được điều trị bằng máy Encor trên bệnh nhân cho con bú. Tiêu chuẩn để dùng VABB là ổ áp-xe to trên 5cm, nhiều ổ áp-xe và trên 3cm, hay áp-xe điều trị thất bại với chọc hút. Deng và cộng sự đã dùng VABB để điều trị viêm tuyến vú vô cĕn (IGM). Trong 65 trường hợp tổn thương IGM thì có 55 trường hợp được lấy đi bằng Mammotome cùng với sử dụng steroid thì có 81,5% đã được chữa khỏi hoàn toàn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã dùng VABB để lấy đi các tổn thương viêm của vú được đánh giá là đáp ứng kém với kháng sinh và chọc hút mủ. Trong một số trường hợp thì VABB có thể không lấy được hết hoàn toàn tổn thương viêm (trong nghiên cứu này là 3 trường hợp) do trong khi tiến hành cắt hút bướu thì máu tụ sẽ che lấp tổn thương. Tuy nhiên, trong những trường hợp này việc lấy đi gần hết tổn thương cũng sẽ giúp cho việc điều trị nội khoa sau đó sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn. Như vậy, kinh nghiệm của chúng tôi qua thực tế điều trị viêm tuyến vú bằng VABB thì đây là kỹ thuật thích hợp cho các trường hợp viêm vú bán cấp, đa ổ, kích thước ≤ 5cm, điều trị không đáp ứng hoàn toàn với kháng sinh. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 429 Sơ đồ . Mô hình điều trị viêm vú do vi trùng tại Bệnh viện Ung bướu TP. HCM KẾT LUẬN Điều trị viêm tuyến vú bằng VABB là một kỹ thuật mới ở Việt nam và giúp giải quyết hiệu quả các trường hợp viêm tuyến vú do vi trùng dai dẳng không đáp ứng tốt với điều trị nội khoa. Kỹ thuật này giúp cho bệnh nhân tránh một cuộc mổ hở mà vẫn lấy đi tổn thương. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chen C, Li - bo L., Surgical drainage of lactational breast abscess with ultrasoundguided Encor vacuum‐assisted breast biopsy system, Breast J. 2019;00:1 - 9. 2. Deng JQ, Yu L, Yang Y, Steroids administered after vacuum-assisted biopsy in the management of idiopathic granulomatous mastitis, J Clin Pathol 2017; 70: 827 - 831. 3. Kang YD, Kim YM, Comparison of needle aspiration and vacuum-assisted biopsy in the ultrasound-guided drainage of lactational breast abscesses, Ultrasonography 2016; 35(2): 148 - 152. 4. Thrush S, Dixon M, Letter: Treatment of loculated lactational breast abscess with a vacuum biopsy system (Br J Surg 2005; 92: 1225 - 1226), British Journal of Surgery 2006; 93: 250 - 253. 5. Varey R, Shere MH, Cawthorn SJ, Treatment of loculated lactational breast abscess with a vacuum biopsy system, British Journal of Surgery, 2005; 92: 1225 - 1226. 6. Wang K, Ye Y, Sun G, Xu Z, The Mammotome biopsy system is an effective treatment strategy for breast abscess, The American Journal of Surgery 2013; 205: 35 - 38.
File đính kèm:
dieu_tri_viem_tuyen_vu_bang_vabb_kinh_nghiem_tai_benh_vien_u.pdf

