Điều trị viêm tuyến vú bằng VABB - kinh nghiệm tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh

Viêm tuyến vú do vi trùng là một bệnh lý phổ biến ở phụ nữ. Điều trị chủ yếu là kháng sinh và chọc hút mủ

hay rạch thoát lưu. Những trường hợp viêm tuyến vú bán cấp phải dùng kháng sinh lâu dài không dứt hẳn là

một bệnh cảnh lâm sàng gây khó khăn cho thầy thuốc. Sử dụng VABB để điều trị những trường hợp này là một

lựa chọn hiệu quả. Bài báo cáo này chia sẻ kinh nghiệm sử dụng VABB để điều trị các trường hợp viêm tuyến

vú bán cấp bằng VABB tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM.

pdf 5 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị viêm tuyến vú bằng VABB - kinh nghiệm tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị viêm tuyến vú bằng VABB - kinh nghiệm tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh

Điều trị viêm tuyến vú bằng VABB - kinh nghiệm tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
425 
ĐIỀU TRỊ VIÊM TUYẾN VÚ BẰNG VABB - KINH NGHIỆM 
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
TRẦN VIỆT THẾ PHƯƠNG1, PHẠM THIÊN HƯƠNG2, PHAN HOÀNG TÚ3, 
NGUYỄN HOÀNG THÂN3, LÊ HỒNG CÚC4 
TÓM TẮT 
Viêm tuyến vú do vi trùng là một bệnh lý phổ biến ở phụ nữ. Điều trị chủ yếu là kháng sinh và chọc hút mủ 
hay rạch thoát lưu. Những trường hợp viêm tuyến vú bán cấp phải dùng kháng sinh lâu dài không dứt hẳn là 
một bệnh cảnh lâm sàng gây khó khĕn cho thầy thuốc. Sử dụng VABB để điều trị những trường hợp này là một 
lựa chọn hiệu quả. Bài báo cáo này chia sẻ kinh nghiệm sử dụng VABB để điều trị các trường hợp viêm tuyến 
vú bán cấp bằng VABB tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. 
ABSTRACT 
Treatment of mastitis by VABB - experience of Ho Chi Minh City Oncology Hospital 
Mastitis caused by bacteria is a common disease in women. Treatment are antibiotics and aspiration or 
drainage. Persistent subacute mastitis treated by prolonged antibiotics is an uncomfortable scenario for 
patients and physicians. Treatment of this disease by VABB is an efficient option. This article reports the 
experience of treatment of mastitis by VABB at Ho Chi Minh City Oncology hospital. 
1
 TS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2
 BSCKII. Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
3
 Bác sĩ Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
4
 BSCKII. Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm tuyến vú là một bệnh lý khá phổ biến ở 
phụ nữ, nhất là phụ nữ mang thai và cho con bú. 
Viêm tuyến vú thường do tác nhân là vi trùng 
Staphylococcus aureus, đi theo đường máu hay từ 
ngoài theo ống tuyến vú. Bệnh có thể gặp ở phụ nữ 
từ 18 đến 50 tuổi. Biểu hiện lâm sàng là sưng, nóng, 
đỏ, đau khi ở trong giai đoạn cấp. Nếu bệnh không 
được điều trị đúng mức, viêm cấp có thể tiến triển 
trở thành áp-xe, biểu hiện là tạo thành mủ. Để điều 
trị viêm tuyến vú thì cần phải dùng kháng sinh thích 
hợp. Khi đã tạo thành áp-xe thì trước kia người ta 
chủ trương điều trị bằng cách rạch thoát lưu. Việc 
rạch thoát lưu thường được tiến hành dưới gây mê, 
phải chĕm sóc khá lâu và gây đau đớn cho bệnh 
nhân. Gần đây, một chọn lựa khác thường được sử 
dụng hơn là dùng kim chọc hút mủ nhiều lần cũng 
đem lại hiệu quả và ít đau đớn hơn. 
Một dạng lâm sàng khác của viêm tuyến vú là 
sau giai đoạn cấp tính, tình trạng viêm không tiến 
triển thành áp xe mà trở thành viêm bán cấp. Khi đó, 
các biểu hiện đỏ, đau, sưng, nóng giảm rất nhiều. 
Bệnh nhân đến khám với bệnh cảnh lâm sàng là một 
khối cứng, đau ít, siêu âm cho thấy một hay nhiều 
khối viêm và thường có mủ len lỏi bên trong. 
Tình trạng viêm bán cấp này kéo dài trong nhiều 
tháng và gây cho bệnh nhân rất nhiều lo lắng và khó 
chịu. Điều trị viêm bán cấp tuyến vú thường phức 
tạp, kéo dài, gây mệt mỏi cho cả thầy thuốc lẫn 
người bệnh. Bệnh nhân phải dùng kháng sinh rất 
lâu, ổ bán cấp thuyên giảm chậm. Có nhiều trường 
hợp sau một thời gian thuyên giảm rõ rệt rồi ổ viêm 
không đáp ứng điều trị nữa. Khi đó thầy thuốc phải 
nghĩ đến can thiệp ngoại khoa là mổ cắt đi khối viêm 
và mủ. Một khó khĕn trong cuộc mổ là trong nhiều 
trường hợp thì ổ viêm không có giới hạn rõ, phẫu 
thuật viên phải chọn lựa là mổ cắt không hết ổ viêm 
hoặc cắt thừa mô vú bình thường. 
VABB (Vacuum assisted breast biopsy-sinh 
thiết vú có hỗ trợ hút chân không) là kỹ thuật đã phát 
triển từ giữa những nĕm 1990. Kỹ thuật này được 
dùng để sinh thiết các tổn thương vú nghi ung thư 
hay lành tính. Đối với tổn thương lành tính, VABB 
còn có thể dùng để điều trị là lấy toàn bộ tổn thương 
mà không để lại sẹo to trên vú. Gần đây, VABB còn 
được sử dụng để lấy đi các tổn thương viêm tuyến 
vú hay áp-xe vú. VABB được thực hiện đầu tiên tại 
Việt Nam từ nĕm 2017 tại Bệnh viện Ung Bướu 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
426 
TP. HCM. Cũng như những nơi khác, VABB được 
dùng để sinh thiết các tổn thương vú và điều trị các 
bướu lành của vú. Bên cạnh đó, VABB còn được sử 
dụng để xử trí các trường hợp viêm vú, đặc biệt là 
viêm vú bán cấp kéo dài dai dẳng không thể điều trị 
dứt điểm bằng nội khoa. Bài viết này chia sẻ các 
trường hợp viêm tuyến vú đã được điều trị bằng 
VABB tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Bệnh nhân được điều trị tại khoa Ngoại 4 Bệnh 
viện Ung Bướu TP. HCM từ 2/2017 đến 10/2019, 
được chẩn đoán là viêm tuyến vú và điều trị bằng 
kháng sinh, kháng viêm nhưng đáp ứng không hoàn 
toàn và tiến triển dai dẳng. Các trường hợp này 
được sử dụng kháng sinh trong thời gian dài 
(thường là Augmentin và một quinolone). Bệnh nhân 
được theo dõi định kỳ bằng khám lâm sàng và siêu 
âm để đánh giá tình trạng đáp ứng của tổn thương. 
Trong quá trình theo dõi các trường hợp viêm tuyến 
vú khác đáp ứng tốt và tan hoàn toàn sang thương, 
một số trường hợp tổn thương viêm không đáp ứng 
nhiều hay chỉ thuyên giảm sau một thời gian rồi 
không nhỏ đi. Trước những trường hợp này, bác sĩ 
điều trị sẽ đứng trước chọn lựa là mổ hở để cắt trọn 
tổn thương hay cùng VABB để lấy đi tổn thương. 
Mổ hở sẽ được chỉ định cho các trường hợp tổn 
thương to. Những trường hợp tổn thương không 
quá to (≤ 5cm) sẽ được chỉ định lấy đi bằng VABB. 
Bệnh nhân được bác sĩ chẩn đoán hình ảnh 
trong ê - kip nghiên cứu siêu âm lại để đánh giá kích 
thước tổn thương, độ lan rộng. Bệnh nhân vẫn tiếp 
tục dùng kháng sinh kháng viêm cho đến ngày làm 
thủ thuật. Người thực hiện thủ thuật là bác sĩ chẩn 
đoán hình ảnh hay phẫu thuật viên tuyến vú. 
Máy VABB là máy Legacy (Mammotome, Devicor 
Medical Products, Inc-USA) với kim 8G. Bệnh nhân 
được gây tê tại chỗ bằng Lidocain 1% ở dưới da và 
dưới tổn thương. Dùng dao mổ để rạch một đường 
vào khoảng 2mm. Kim VABB được đưa vào mô vú 
dưới hướng dẫn của siêu âm và tiến hành cắt hút 
tổn thương. Người thực hiện sẽ cố gắng cắt hút trọn 
tổn thương, lấy hết mủ, các tổn thương viêm và 
đường dò. Sau đó bệnh nhân được bĕng ép và ra về 
ngay trong ngày. Tiếp tục sử dụng kháng sinh và 
hẹn tái khám sau 1 tuần để được đánh giá lại bằng 
siêu âm. Mẩu mô được gửi giải phẫu bệnh để có 
chẩn đoán mô bệnh học. 
KẾT QUẢ 
Trong khoảng thời gian từ 2/2017 đến 10/2019 
có 11 trường hợp (24 bướu) viêm vú được điều trị 
bằng VABB tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Tuổi 
trung bình của bệnh nhân là 31,6 (20 - 49), có 9 
bệnh nhân ở tỉnh và 2 bệnh nhân là ở TP. HCM. 
Bảng 1. Kết quả siêu âm 
Kết quả siêu âm Số ca Tỉ lệ % 
Bướu sợi tuyến 1 9,1 
Đa bướu nhú 1 9,1 
Viêm - áp-xe 8 72,7 
Nghĩ K 1 9,1 
Tổng cộng 11 100 
Siêu âm là phương tiện cận lâm sàng chủ lực 
để chẩn đoán viêm, áp-xe vú. Đa số trường hợp 
được chẩn đoán bằng siêu âm chính xác là viêm, 
áp-xe (72,7%). 
Bảng 2. Kết quả nhũ ảnh 
BIRADS Số ca Tỉ lệ % 
II 1 9,1 
IV 1 9,1 
V 1 9,1 
Không chụp 8 72,7 
Tổng cộng 11 100 
Nhũ ảnh ít được sử dụng trong những trường 
hợp này vì đa số bệnh nhân còn trẻ. Đau cũng 
là một lý do làm cho bệnh nhân không được chụp 
nhũ ảnh. 
Bảng 3. Kết quả FNA 
Kết quả FNA Số ca Tỉ lệ % 
Tổn thương dạng nhú 1 9,1 
TĐSB 2 18,2 
Chất dịch+ tế bào viêm 3 27,3 
Viêm dạng hạt 2 18,2 
Không có 3 27,3 
Tổng cộng 11 100 
Có 8 trường hợp đều được thực hiện FNA. 
Nĕm trong tám trường hợp này được chẩn đoán là 
viêm trên FNA. 
Bảng 4. Kết quả sinh thiết lõi kim 
Sinh thiết lõi kim Số ca Tỉ lệ % 
Viêm áp - xe 4 36,4 
Viêm dạng hạt 1 9,1 
Không có 6 54,5 
Tổng cộng 11 100 
Có 5 trường hợp được thực hiện sinh thiết lõi 
kim. Tỉ lệ chẩn đoán chính xác của sinh thiết lõi kim 
là 100%. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
427 
Bảng 5. Số lượng tổn thương được lấy ra 
Số lượng tổn thương Số ca Tỉ lệ % 
1 3 27,3 
2 4 36,4 
3 3 27,3 
4 1 9,1 
Tổng cộng 11 100 
Đa ổ là tính chất thường gặp của viêm mạn tính 
của vú. Tổng cộng có 24 tổn thương được lấy ra ở 
11 bệnh nhân. 
Bảng 6. Kết quả giải phẫu bệnh 
Giải phẫu bệnh Số ca Tỉ lệ % 
Viêm - áp - xe 4 36,4 
Viêm tuyến vú dạng hạt 7 63,6 
Tổng cộng 11 100 
Sau khi lấy tổn thương viêm ra thì mẩu mô luôn 
được gửi giải phẫu bệnh. Đa số các trường hợp 
(63,6%) có giải phẫu bệnh là viêm mạn tính 
(dạng hạt), phù hợp với bệnh cảnh lâm sàng. 
Bảng 7. Các biến chứng 
Biến chứng Số ca Tỉ lệ % 
Bầm máu 3 27,3 
Máu tụ (có chọc hút) 1 9,1 
Máu tụ (không cần chọc hút) 3 27,3 
Đau 4 (trong 3 ngày đầu, 3 - 5/10 
36,4 
Tụ dịch tại giường bướu 9/9 100 
Nhiễm trùng 0 0 
Tổn thương thành ngực 0 0 
Các biến chứng thường nhẹ và tự khỏi. Tụ dịch 
tại giường bướu luôn gặp do đã lấy đi một lượng 
mô vú bị viêm đáng kể. Không có biến chứng nào 
nghiêm trọng như nhiễm trùng hay tổn thương 
thành ngực. 
Có 9/11 trường hợp được siêu âm lại sau 10 
ngày để đánh giá, trong đó có 3 trường hợp còn mô 
viêm rải rác. Các trường hợp này được tiếp tục điều 
trị kháng sinh kháng viêm và theo dõi định kỳ và 
các tổn thương cũng biến mất. Các trường hợp còn 
lại không còn tổn thương ở vú khi siêu âm. Bệnh 
nhân ổn định về lâm sàng. 
Hình 1. Ổ viêm vú lan rộng trên siêu âm 
Hình 2. Sau 1 nĕm, tổn thương không còn 
Hình 3. Trường hợp bầm máu sau thủ thuật 
Hình 4. Trường hợp không bị bầm máu 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
428 
BÀN LUẬN 
Điều trị viêm tuyến vú do vi trùng chủ yếu là 
kháng sinh, kháng viêm, và chọc hút mủ (dưới 
hướng dẫn của siêu âm) và trong đa số trường hợp 
bệnh sẽ được điều trị khỏi. Một số ít trường hợp 
viêm có biểu hiện là áp-xe và cần được thoát lưu. 
Hạn chế của chọc hút mủ là bệnh nhân phải được 
thực hiện nhiều lần, thời gian điều trị lâu. Hạn chế 
của rạch thoát lưu là thường phải làm dưới gây mê, 
để lại sẹo, thay bĕng lâu dài và gây đau đớn. Do đó, 
từ lâu một số tác giả đã đề nghị sử dụng VABB để 
giải quyết các trường hợp viêm hay áp-xe vú không 
đáp ứng tốt với chọc hút mủ. 
Để chẩn đoán thì phương tiện chủ yếu là lâm 
sàng và siêu âm. Trong nghiên cứu này, tất cả bệnh 
nhân đều được siêu âm vú. Bên cạnh việc giúp chẩn 
đoán xác định, siêu âm còn giúp để đánh giá mức độ 
lan rộng, giai đoạn viêm (cấp tính, tạo áp-xe, hay 
viêm mạn). Trong giai đoạn chuyển thành viêm mạn, 
biểu hiện lâm sàng bệnh nhân không còn đau nhiều, 
khi khám thường thấy một hay nhiều khối chắc ở vú, 
giới hạn không rõ. Bệnh nhân thường khai đã 
đi khám ở nhiều bác sĩ, dùng kháng sinh trong một 
thời gian dài. Hình ảnh siêu âm là một hay nhiều ổ 
viêm có dạng khối đặc với ít mủ len lỏi bên trong. 
Đứng trước tình huống này, người bác sĩ điều trị cần 
phải phân biệt tình trạng viêm bán cấp do vi trùng 
(thường là Staphylococcus aureus) với bệnh lý ung 
thư, hay những tình trạng viêm mạn tính khác như 
lao vú, viêm tuyến vú mạn vô cĕn (IGM - idiopathic 
granulomatis mastits). Bệnh nhân cần được làm 
những xét nghiệm như sinh thiết lõi kim, nhũ ảnh. 
Khi chọc hút mủ hay sinh thiết thì cần làm kháng 
sinh đồ. Nhưng trong nhiều trường hợp do bệnh 
nhân đã được sử dụng kháng sinh trước đó nên vi 
trùng thường không mọc. Để loại trừ lao vú thì cần 
làm soi tươi tìm vi trùng lao, PCR lao, và dựa vào 
giải phẫu bệnh. 
Trong nhiều trường hợp, thầy thuốc điều trị sẽ cố 
gắng chọc hút mủ nhưng không thành công do lượng 
mủ ít và rất đặc. Bệnh cảnh như vậy sẽ gây lúng túng 
cho thầy thuốc và bệnh nhân thì rất lo lắng. 
Khi điều trị kháng sinh kéo dài thì một số trường 
hợp khối viêm sẽ nhỏ dần và biến mất. Những 
trường hợp tạo khối áp xe thì được xử trí dễ dàng là 
chọc hút mủ hay rạch thoát lưu. Tuy nhiên có một 
nhóm bệnh nhân viêm mạn sẽ không đáp ứng tốt với 
kháng sinh. Khối viêm ở vú không thuyên giảm nhiều 
sau thời gian dài điều trị hay thuyên giảm đến một 
mức độ nào đó rồi không nhỏ nữa. Khi đó, lấy đi tổn 
thương là một phương án khả thi nhất để điều trị 
bệnh. Có hai cách để lấy đi tổn thương: bằng mổ hở 
hay bằng VABB. Mổ hở có ưu điểm là lấy được 
những tổn thương to (>5cm), thuận lợi nếu tổn 
thương giới hạn rõ. Tuy nhiên, đây là phương pháp 
xâm lấn, thường cần phải gây mê, nếu tổn thương 
đa ổ, không giới hạn rõ, len lỏi trong mô vú thì có 
nhiều khả nĕng sẽ không lấy được hết, hoặc ngược 
lại phải cắt rất rộng mất nhiều mô vú. VABB là kỹ 
thuật lấy đi tổn thương mà khắc phục những nhược 
điểm này của mổ hở. 
VABB được phát minh từ nĕm 1995 để khắc 
phục những nhược điểm của sinh thiết lõi kim. VABB 
đã được dùng để sinh thiết chẩn đoán các tổn 
thương nghi ngờ, điều trị các tổn thương lành tính, 
đánh giá đáp ứng của bướu sau hóa trị tân hỗ trợ. 
Sau đó, VABB còn được dùng để điều trị các trường 
hợp viêm hay áp-xe vú. Nĕm 2005, Varey báo cáo 
24 trường hợp áp-xe vú được điều trị rất khả quan 
bằng Mammotome. Thrush ở Đơn vị tuyến vú 
Edinburgh sau đó cũng dùng VABB cho những 
trường hợp thất bại với chọc hút mủ. Nĕm 2013, 
Wang báo cáo 70 trường hợp áp-xe vú được dùng 
Mammotome để điều trị. Khuyến cáo của Wang từ 
nghiên cứu này là ổ áp-xe dưới 3,5cm sẽ có kết quả 
điều trị tốt hơn là lớn hơn 3,5cm. Đối với trường hợp 
ổ áp-xe lớn, Wang sẽ đặt catheter vào ổ áp-xe để 
dẫn lưu. 
Kang nĕm 2016 so sánh hai phương pháp chọc 
hút kim và dùng VABB để xử lý áp-xe vú thì thời gian 
lành bệnh ở nhóm VABB sẽ nhanh hơn. Do đó 
tác giả đề nghị sử dụng VABB cho các trường hợp ổ 
áp-xe lớn, đa ổ. 
Chen nĕm 2019 báo cáo 36 trường hợp áp-xe 
vú được điều trị bằng máy Encor trên bệnh nhân cho 
con bú. Tiêu chuẩn để dùng VABB là ổ áp-xe to trên 
5cm, nhiều ổ áp-xe và trên 3cm, hay áp-xe điều trị 
thất bại với chọc hút. 
Deng và cộng sự đã dùng VABB để điều trị 
viêm tuyến vú vô cĕn (IGM). Trong 65 trường hợp 
tổn thương IGM thì có 55 trường hợp được lấy đi 
bằng Mammotome cùng với sử dụng steroid thì có 
81,5% đã được chữa khỏi hoàn toàn. Trong nghiên 
cứu này, chúng tôi đã dùng VABB để lấy đi các tổn 
thương viêm của vú được đánh giá là đáp ứng kém 
với kháng sinh và chọc hút mủ. 
Trong một số trường hợp thì VABB có thể 
không lấy được hết hoàn toàn tổn thương viêm 
(trong nghiên cứu này là 3 trường hợp) do trong khi 
tiến hành cắt hút bướu thì máu tụ sẽ che lấp tổn 
thương. Tuy nhiên, trong những trường hợp này 
việc lấy đi gần hết tổn thương cũng sẽ giúp cho việc 
điều trị nội khoa sau đó sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn. 
Như vậy, kinh nghiệm của chúng tôi qua thực tế điều 
trị viêm tuyến vú bằng VABB thì đây là kỹ thuật thích 
hợp cho các trường hợp viêm vú bán cấp, đa ổ, kích 
thước ≤ 5cm, điều trị không đáp ứng hoàn toàn với 
kháng sinh. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
429 
Sơ đồ . Mô hình điều trị viêm vú do vi trùng tại Bệnh viện Ung bướu TP. HCM 
KẾT LUẬN 
Điều trị viêm tuyến vú bằng VABB là một kỹ 
thuật mới ở Việt nam và giúp giải quyết hiệu quả các 
trường hợp viêm tuyến vú do vi trùng dai dẳng 
không đáp ứng tốt với điều trị nội khoa. Kỹ thuật này 
giúp cho bệnh nhân tránh một cuộc mổ hở mà vẫn 
lấy đi tổn thương. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chen C, Li - bo L., Surgical drainage of 
lactational breast abscess with ultrasoundguided 
Encor vacuum‐assisted breast biopsy system, 
Breast J. 2019;00:1 - 9. 
2. Deng JQ, Yu L, Yang Y, Steroids administered 
after vacuum-assisted biopsy in the 
management of idiopathic granulomatous 
mastitis, J Clin Pathol 2017; 70: 827 - 831. 
3. Kang YD, Kim YM, Comparison of needle 
aspiration and vacuum-assisted biopsy in the 
ultrasound-guided drainage of lactational breast 
abscesses, Ultrasonography 2016; 35(2): 
148 - 152. 
4. Thrush S, Dixon M, Letter: Treatment of 
loculated lactational breast abscess with a 
vacuum biopsy system (Br J Surg 2005; 92: 
1225 - 1226), British Journal of Surgery 2006; 
93: 250 - 253. 
5. Varey R, Shere MH, Cawthorn SJ, Treatment of 
loculated lactational breast abscess with a 
vacuum biopsy system, British Journal of 
Surgery, 2005; 92: 1225 - 1226. 
6. Wang K, Ye Y, Sun G, Xu Z, The Mammotome 
biopsy system is an effective treatment strategy 
for breast abscess, The American Journal of 
Surgery 2013; 205: 35 - 38. 

File đính kèm:

  • pdfdieu_tri_viem_tuyen_vu_bang_vabb_kinh_nghiem_tai_benh_vien_u.pdf