Điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng bằng kỹ thuật nội soi hai cổng

Mục tiêu: Với những tiến bộ của kỹ thuật, phẫu thuật can thiệp tối thiểu nhằm giảm thiểu tổn thương mô

mềm ngày càng phổ biến. Trong nghiên cứu này chúng tôi đánh giá kết quả lâm sàng của bệnh nhân thoát vị đĩa

đệm cột sống thắt lưng được điều trị bằng phẫu thuật nội soi cột sống 2 cổng.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 32 bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng được điều trị

bằng phẫu thuật nội soi 2 cổng lấy nhân đệm. Thang điểm đau lưng, đau chân (VAS), điểm chức năng ODI

trước mổ được ghi nhận và so sánh với thời điểm đánh giá lần cuối. Tiêu chuẩn Macnab cũng được đánh giá tại

lần theo thoe dõi cuối cùng.

pdf 9 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng bằng kỹ thuật nội soi hai cổng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng bằng kỹ thuật nội soi hai cổng

Điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng bằng kỹ thuật nội soi hai cổng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 94
ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ ĐĨA ĐỆM CỘT SỐNG THẮT LƯNG 
BẰNG KỸ THUẬT NỘI SOI HAI CỔNG 
Lê Tường Viễn1, Bùi Hồng Thiên Khanh1, Nguyễn Thành Nhân1, Nguyễn Ngọc Thôi1, 
Hoàng Nguyễn Anh Tuấn1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Với những tiến bộ của kỹ thuật, phẫu thuật can thiệp tối thiểu nhằm giảm thiểu tổn thương mô 
mềm ngày càng phổ biến. Trong nghiên cứu này chúng tôi đánh giá kết quả lâm sàng của bệnh nhân thoát vị đĩa 
đệm cột sống thắt lưng được điều trị bằng phẫu thuật nội soi cột sống 2 cổng. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 32 bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng được điều trị 
bằng phẫu thuật nội soi 2 cổng lấy nhân đệm. Thang điểm đau lưng, đau chân (VAS), điểm chức năng ODI 
trước mổ được ghi nhận và so sánh với thời điểm đánh giá lần cuối. Tiêu chuẩn Macnab cũng được đánh giá tại 
lần theo thoe dõi cuối cùng. 
Kết quả: 32 bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng với kỹ thuật nội soi 2 cổng tại BV ĐH Y Dược 
từ tháng 01/2019 đến ngày 01/2020. Thời gian theo dõi trung bình là 13,3 tháng, thời gian phẫu thuật trung 
bình là 78,5 phút và thời gian nằm viện trung bình là 2,1 ngày. Điểm VAS trung bình cho đau chân giảm từ 7,8 
trước phẫu thuật xuống 0,41 ở lần tái khám cuối cùng và điểm VAS trung bình cho đau lưng giảm từ 5,87 
xuống 1,38. Điểm số ODI trung bình đã cải thiện đáng kể từ 57,84 trước phẫu thuật giảm còn 11,31 ở lần theo 
dõi cuối cùng. Kết quả hài lòng (rất tốt và tốt; dựa trên tiêu chí Macnab) là 93,75%. Không có bệnh nhân nào 
phải phẫu thuật lại do giải ép không hoàn toàn. Không có bất kỳ biến chứng nào được ghi nhận. 
Kết luận: phẫu thuật nội soi cột sống 2 cổng lấy nhân đệm có thể đạt được hiệu quả giải ép tương tự như 
phẫu thuật vi phẫu và kỹ thuật này có thể là một lựa chọn khả thi cho phẫu thuật cột sống thắt lưng. 
Từ khóa: phẫu thuật nội soi cột sống 2 cổng, phẫu thuật nội soi lấy nhân đệm 
ABSTRACT 
TREATMENT OF LUMBAR DISC HERNIATION BY BIPORTAL ENDOSCOPIC SPINAL SURGERY 
Le Tuong Vien, Bui Hong Thien Khanh, Nguyen Thanh Nhan, Nguyen Ngoc Thoi, 
Hoang Nguyen Anh Tuan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 94 - 102 
Objectives: Due to technical advances, minimally invasive surgical techniques are becoming increasingly 
common in an attempt to decrease tissue trauma. In this study, we evaluated the clinical outcomes of lumbar disc 
disease patients undergoing biportal endoscopic lumbar discectomy at our clinic. 
Methods: Thirty-two patients with lumbar disc herniations were treated with biportal endoscopic lumbar 
discectomy. Preoperative back and leg visual analog scale (VAS-B and VAS-L, respectively) scores and the 
Oswestry Disability Index (ODI) were recorded and compared with corresponding values on final follow-up. The 
MacNab criteria was evaluated at the final follow-up. 
Result: The mean follow-up was 13.3 months, the mean operative time was 78.5 minutes, and the mean 
length of hospital stay was 2.1 days. The mean VAS score for leg pain decreased from preoperative 7.8 to 0.41 at 
final follow-up visit and the mean VAS score for back pain decreased from 5.87 to 1.38. The mean Oswestry 
1Khoa Chấn Thương Chỉnh Hình BV Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Lê Tường Viễn ĐT:0909261576 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 95
Disability Index significantly improved from preoperative 57.84 to 11.31 at the final follow-up. The average 
satisfied outcome (excellent/good; based on the Macnab criteria) was 93.75%. No-one patient underwent revision 
discectomy for incomplete decompression. No any complication was recorded. 
Conclusions: Biportal endoscopic lumbar discectomy can achieve a similar decompression effect as 
microdiscectomy and this technique may be a feasible option for lumbar spinal surgery. 
Key words: biportal spinal endoscopy surgery, endoscopic spine discectomy 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong những thập niên gần đây, phẫu thuật 
nội soi đã có bước phát triển vượt bậc trong các 
chuyên ngành như phẫu thuật ổ bụng, tiết niệu, 
xương khớp, lồng ngực Phẫu thuật nội soi 
cũng đã phát triển để điều trị các bệnh lý của cột 
sống. Hiện nay, phẫu thuật nội soi điều trị thoát 
vị đĩa đệm cột sống thắt lưng đã được thực hiện 
ở nhiều nước trên thế giới, cũng như tại một số 
bệnh viện lớn tại Việt Nam(1,2,3). 
Hiện nay phương pháp phẫu thuật mở hay 
phẫu thuật vi phẫu lấy nhân đệm đều cho kết 
quả thành công cao(4). Tuy nhiên theo xu hướng 
can thiệp tối thiểu, ít xâm lấn, ít tổn thương mô, 
giúp bệnh nhân ít đau sau mổ, phục hồi nhanh 
nên phẫu thuật nội soi lấy nhân đệm ra đời và 
phát triển. Vào những năm 1980, Kampin P đã 
nghiên cứu đưa vào ứng dụng phương pháp lấy 
nhân đệm qua nội soi(5). Những năm về sau với 
sự phát triển về kỹ thuật trong cải tiến ống soi, 
các dụng cụ phẫu thuật nội soi đã đưa phương 
pháp phẫu thuật nội soi lấy nhân đệm phát triển 
về đường vào và mở rộng chỉ định. Những năm 
gần đây có nhiều nghiên cứu đánh giá kết quả 
phẫu thuật nội soi lấy nhân đệm điều trị thoát vị 
đĩa đệm cột sống thắt lưng. Đa số các tác giả cho 
rằng phẫu thuật nội soi có kết quả tương đương 
phương pháp mổ mở nhưng có những ưu điểm 
sau(6,7,8): đường mổ nhỏ, ít tổn thương mô mềm; 
lượng máu mất ít hơn; nhìn rõ hơn trong lúc mổ 
với nguồn sáng nội soi; bệnh nhân trở lại hoạt 
động và làm việc sớm hơn; phẫu thuật dễ dàng 
hơn ở những bệnh nhân mập, béo phì; phẫu 
thuật lần sau dễ dàng hơn vì để lại ít mô xơ sẹo; 
tỷ lệ biến chứng thấp hơn. 
Phần lớn các tác giả ứng dụng kỹ thuật nội 
soi một cổng với bộ dụng cụ chuyên dụng, vài 
năm gần đây một số tác giả đã ứng dụng kỹ 
thuật nội soi 2 cổng để lấy nhân đệm và giải ép 
làm rộng ống sống trong hẹp ống sống. Kỹ 
thuật nội soi 2 cổng này không đòi hỏi bộ 
dụng cụ chuyên dụng như nội soi một cổng 
mà chỉ cần bộ nội soi khớp thông thường 
(gồm: ống soi khớp 4mm, 30 độ; đầu đốt RF 
của khớp) và bộ dụng cụ phẫu thuật cột sống 
mở. Nên kỹ thuật nội soi hai cổng dễ triển khai 
và ít tốn kém hơn. Hiện nay tại Việt Nam chưa 
có công trình nghiên cứu ứng dụng và báo cáo 
kết quả của kỹ thuật nội soi cột sống 2 cổng. 
Chúng tôi đã áp dụng và thực hiện phẫu thuật 
nội soi hai cổng trong điều trị thoát vị đĩa đệm 
cột sống thắt lưng tại bệnh viện Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh. Để đánh giá kết quả 
ban đầu của kỹ thuật này, chúng tôi thực hiện 
đề tài: “Điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt 
lưng bằng kỹ thuật nội soi hai cổng”. 
Mục tiêu 
Đánh giá hiệu quả lâm sàng giải ép rễ thần 
kinh của phẫu thuật nội soi 2 cổng trong điều trị 
thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. 
Xác định tỷ lệ biến chứng. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống thắt 
lưng được điều trị bằng phẫu thuật nội soi 2 
cổng tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí 
Minh từ tháng 01/2019 đến tháng 01/2020. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân đau cột sống thắt lưng lan xuống 
một chân. 
Có hình ảnh thoát vị và chèn ép rễ thần kinh 
rõ trên MRI: thoát vị một tầng, một bên của cột 
sống thắt lưng. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 96
Thất bại với điều trị nội khoa ít nhất 6 tuần. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Thoát vị kèm thoái hóa cột sống gây hẹp ống sống. 
Thoát vị kèm trượt đốt sống bệnh lý. 
Phương pháp nghiên cứu 
Các trang thiết bị và dụng cụ 
- Hệ thống máy nội soi (màn hình, đầu thu 
hình, nguồn sáng, dây sáng). 
- Máy bơm nước. 
- Máy đốt RF 
- Ống soi khớp 4mm, 300. 
- Bộ dụng cụ phẫu thuật mở của cột sống, 
máy C-arm. 
Phương pháp thực hiện 
Chuẩn bị bệnh tiền phẫu 
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật được giải 
thích và tư vấn phương pháp mổ; khám làm 
bệnh án, đánh giá chức năng trước mổ (theo 
bảng đánh giá chức năng Oswestry Disability 
Index (ODI); thang điểm đau lưng, đau chân 
theo VAS; khám tiền mê; lên chương trình mổ. 
Các bước tiến hành phẫu thuật 
Phương pháp vô cảm: mê nội khí quản. 
Tư thế bệnh nhân: bệnh nhân được nằm 
sấp trên gối đôi, có gập lưng, bàn mổ không - 
cản quang. 
C-arm được sử dụng để định vị tầng: 
Hình 1: Xác định tầng và đường vào dưới hướng dẫn 
của C-arm 
- Xác định tầng và cổng vào: cổng vào được 
xác định dựa trên mốc giải phẫu dưới hướng 
dẫn của C-arm. 2 cổng vào gồm: gồm một cổng 
đặt ống soi (cổng gần đầu), một cổng đặt dụng 
cụ phẫu thuật (cổng gần chân). 2 cổng cách nhau 
2 đến 3 cm trên dưới tầng đĩa thoát vị và cách 
đường giữa 1 cm. Rạch da sau khi xác định đúng 
điểm vào, mỗi cổng rạch da khoảng 0,5-1 cm 
(Hình 1). 
- Tạo đường vào: tạo 2 cổng vào (rạch da, 
nong và tách mô mềm), tách mô tạo một khoang 
giữa cơ và bản sống. 
- Thực hiện phẫu thuật: đặt ống soi vào 
trocar với hệ thống bơm rửa liên tục, áp lực nước 
khoảng <50 mmHg; làm sạch mô mềm, bộc lộ 
dây chằng vàng và bờ dưới của bản sống trên, 
lấy bỏ một phần xương của bản sống trên (có thể 
dùng máy mài xương, dụng cụ gặm xương hay 
bằng đục xương), cắt bỏ dây chằng vàng vào 
khoang ngoài màng cứng, lấy bỏ dây chằng 
vàng đến bờ ngoài của rễ thần kinh. 
Trong quá trình phẫu thuật đốt mô mềm và 
cầm máu bằng sóng cao tần. Sau khi xác định rõ 
rễ thần kinh dùng que thăm dò vén rễ tách dính, 
dùng dụng cụ vén rễ, đĩa đệm thoát vị được bộc 
lộ; dùng dao nội soi cắt dây chằng dọc sau và 
dùng forcep lấy nhân đệm thoát vị. Sau khi lấy 
hết nhân đệm thoái hóa dùng đốt sóng cao tần 
cầm máu. Kiểm tra rễ thần kinh còn bị chèn ép 
hay không. Cuối cùng rút trocar và ống soi, khâu 
da, băng ép. 
- Hậu phẫu và chương trình tập vật lý trị liệu: 
+ Sau mổ bệnh nhân được chuyển khoa hậu 
phẫu theo dõi và chuyển lên khoa bệnh cùng 
ngày. Bệnh nhân được đánh giá đau vết mổ theo 
thang điểm đau VAS (Visual Analogue Scale). 
+ Giảm đau sau mổ: sử dụng các thuốc giảm 
đau thông thường (nhóm Nsaids, 
acetaminophen). 
+ Ngay ngày đầu sau mổ bệnh nhân được 
hướng dẫn tập vật lý trị liệu (tập cơ lưng, cơ 
bụng, cơ chân, tập ngồi, tập đi lại). 
+ Bệnh nhân nằm viện 1 hay 2 ngày sau đó 
được xuất viện. 
+ Hướng dẫn tiếp tục tập vật lý trị liệu tại 
nhà và hẹn tái khám theo lịch hẹn. 
+ Đánh giá kết quả lâm sàng mỗi lần tái khám. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 97
Theo dõi và đánh giá kết quả 
Bệnh nhân được theo dõi mỗi 1 tháng, 3 
tháng, 6 tháng, và đánh giá lần cuối. 
Các công cụ đánh giá kết quả: đánh giá đau 
chân, đau lưng và đau vết mổ theo thang điểm 
đau VAS (visual analogue scale); đánh giá chức 
năng theo Oswestry Disability Index (ODI), và 
tiêu chuẩn đánh giá MACNAB. 
Dùng phần mềm Excel và phần mềm thống 
kê SPSS 20.0 để lưu trữ và xử lý số liệu. 
Hình 2: Hình ảnh minh họa các bước trong PTNS 2 cổng 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặt điểm lâm sàng của bệnh nhân. 
Số lượng bệnh nhân 32 
Tuổi trung bình (năm) 36,7±12,15 (từ 14 đến 67) 
Giới 
Nam: 19 (59,38%) 
Nữ: 13 (40,63%) 
Tầng thoát vị 
L4-L5: 15 (46,9%) 
L5-S1: 17 (53,1%) 
Bên thoát vị 
Trái: 22 (68,75%) 
Phải: 10 (31,25%) 
Rễ thần kinh bị ảnh hưởng 
L5: 15 (46,87%) 
S1: 17 (53,12%) 
32 bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống thắt 
lưng (15 trường hợp L4-L5, 17 trường hợp L5-S1) 
được điều trị bằng phẫu thuật nội soi cột sống 2 
cổng, 19 nam và 13 nữ, tuổi trung bình là 36,7 (14 
đến 67 tuổi); thời gian theo dõi trung bình 13,3 
tháng (9 tháng đếm 19 tháng). 
Thời gian mổ: thời gian trung bình của một 
cuộc mổ là 78,5 phút (ngắn nhất là 40 phút, dài 
nhất là 120 phút). 
Điểm đau VAS trung bình của vết mổ sau 
mổ 1 ngày là: 2,81 ± 0,859 (thấp nhất là 2, cao 
nhất là 4). 
Thời gian nằm viện trung bình là 50,3 giờ 
(2,1 ngày, từ 16 giờ đến 120 giờ ngày). 
Bảng 2: Kết quả lâm sàng theo triệu chứng đau lưng và đau chân 
Trước mổ 
Sau mổ 
1 tháng 3 tháng 6 tháng Lần cuối 
VAS chân VAS lưng VAS chân VAS lưng VAS chân VAS lưng VAS chân VAS lưng VAS chân VAS lưng 
5,87±1,157 7,81±0,896 1,62±0,976 1,25±1,218 1,13±1,10 0,5±1,078 1,06±1,294 0,34±1,035 1,38±1,581 0,41±1,188 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 98
Triệu chứng đau lưng 
Điểm đau VAS trung bình trước mổ: 5,87 ± 
1,157 (min: 4; max: 8). 
Điểm đau VAS trung bình sau mổ một 
tháng: 1,62 ± 0,976 (min:0; max: 3). 
Điểm đau VAS trung bình ba tháng: 1,13 ± 
1,10 (min: 0; max: 5). 
Điểm đau VAS trung bình sáu tháng: 1,06 ± 
1,294 (min:0; max: 5). 
Điểm đau VAS trung bình lần đánh giá cuối: 
1,38 ± 1,581. 
Sự khác biệt về điểm đau lưng theo VAS trước 
mổ và sau mổ rất có ý nghĩa thống kê (p <0,001). 
Điểm đau lưng VAS trung bình trước mổ là 
5,87 ± 1,157 giảm xuống còn 1,38 ± 1,581 tại lần 
đánh giá cuối. Sự khác biệt này có ý nghĩ thống 
kê (p <0,001). 
Triệu chứng đau chân 
Điểm đau VAS trung bình trước mổ: 
7,81±0,896 (min: 6; max: 9). 
Điểm đau VAS trung bình sau mổ một 
tháng: 1,25±1,218 (min: 0; max: 4). 
Điểm đau VAS trung bình ba tháng: 
0,5±1,078 (min: 0; max: 4). 
Điểm đau VAS trung bình sáu tháng: 
0,34±1,035 (min:0; max: 5). 
Điểm đau VAS trung bình lần cuối: 
0,41±1,188 (min:0; max: 5). 
Sự khác biệt về điểm đau chân theo VAS trước 
mổ và sau mổ rất có ý nghĩa thống kê (p <0,001). 
Điểm đau chân VAS trung bình trước mổ là 
7,81 ± 0,896 giảm xuống còn 0,41 ± 1,188 tại lần 
đánh giá cuối. Sự khác biệt này có ý nghĩ thống 
kê (p <0,001). 
Đánh giá kết quả phẫu thuật theo tiêu chuẩn 
Mac Nab cải biên 
Bảng 3: Đánh giá kết quả phẫu thuật theo tiêu chuẩn 
Mac Nab cải biên 
 Rất tốt Tốt Khá Xấu 
Số lượng 18 (56,25%) 12 (37,5%) 2 (6,25%) 0 (0%) 
Đánh giá kết quả theo thang điểm ODI 
Chỉ số đánh giá chức năng theo ODI sau mổ 
giảm rõ so với trước mổ, từ 57,84 ± 9,932 giảm 
xuống còn 11,31 ± 4,238. 
Bảng 4: Đánh giá kết quả theo thang điểm ODI 
 ODI Trước mổ Sau mổ 
X 57,84 11,31 
SD 9,932 4,238 
Đánh giá kết quả phẫu thuật theo tiêu chuẩn 
Mac Nab cải biên và theo thang điểm ODI 
Bảng 5: Đánh giá kết quả phẫu thuật theo tiêu chuẩn 
MACNAB cải biên và ODI 
ODI MACNAB cải biên 
Trước mổ Sau mổ Rất tốt Tốt Khá Xấu 
57,84 ± 
9,932 
11,31 ± 
4,238 
18 
(56,25%) 
12 
(37,5%) 
2 
(6,25%) 
0 
(0%) 
Chỉ số đánh giá chức năng theo ODI sau mổ 
giảm rõ so với trước mổ, từ 57,84 ± 9,932 giảm 
xuống còn 11,31 ± 4,238 tại lần đánh giá cuối. 
Kết quả lâm sàng đánh giá lần cuối theo tiêu 
chuẩn Mac Nab cải biên: tốt và rất tốt là 30 
trường hợp chiếm 93,75%, khá có 2 trường hợp 
chiếm 6,25%, không có trường hợp nào xấu phải 
mổ lại. 
Các biến chứng 
Biến chứng trong mổ 
Tổn thương rách màng cứng: không ghi nhận. 
Tổn thương rễ thần kinh: không ghi nhận. 
Tổn thương mạch máu: không ghi nhận. 
Các biến chứng khác trong mổ: không ghi nhận. 
Biến chứng ngắn hạn sau mổ 
Đau đầu sau mổ: không ghi nhận. 
Tụ máu ngoài màng cứng: không ghi nhận. 
Chảy máu, tụ dịch vết mổ: không ghi nhận. 
Nhiễm trùng vết mổ: không ghi nhận. 
Viêm thân sống đĩa đệm: không ghi nhận. 
Biến chứng dài hạn sau mổ 
Thoát vị đĩa đệm tái phát: trong thời gian 
theo dõi không ghi nhận nào trường hợp nào 
thoát vị tái phát. 
Mất vững cột sống sau phẫu thuật: không 
ghi nhận. 
Biến chứng trong mổ 
Phẫu thuật nội soi 2 cổng có thể gặp các biến 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 99
chứng trong mổ như: tổn thương rách màng 
cứng, tổn thương rễ thần kinh, mạch máu. Trong 
số 32 bệnh nhân của chúng tôi không ghi nhận 
trường hợp biến chứng nào. 
Biến chứng ngắn hạn sau mổ 
Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào 
có biến chứng sau mổ như: đau đầu sau mổ, tụ 
máu ngoài màng cứng, chảy máu, tụ dịch vết 
mổ, viêm thân sống đĩa đệm. 
Biến chứng dài hạn sau mổ 
Sau thời gian theo dõi, chúng tôi cũng không 
ghi nhận các biến chứng dài hạn như thoát vị tái 
phát hay mất vững cột sống. 
BÀN LUẬN 
Thời gian mổ 
Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu của 
chúng tôi ngắn nhất là 40 phút và dài nhất là 
120 phút, trung bình 78,5 phút. Trong một số 
báo cáo về phẫu thuật nội soi 2 cổng lấy nhân 
đệm thời gian mổ trung bình của tác giả 
Soliman HM (2013)(9) là 68 phút, Eun SS 
(2017)(10) là 101,1 phút, Kim JA (2018)(11) là: 
70,15 phút, Choi KC (2018)(12) là 89,13 phút. So 
với các tác giả thì thời gian mổ trung bình của 
chúng tôi không có sự khác biệt nhiều. Thời 
gian mổ tùy thuộc vào kinh nghiệm, kỹ năng 
của phẫu thuật viên và các phương tiện hỗ trợ 
trong cuộc mổ, đặc điểm riêng của từng phòng 
mổ. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những 
trường hợp phẫu thuật càng về sau chúng tôi 
càng thực hiện với thời gian nhanh hơn. 
Chúng tôi cho rằng thời gian một ca mổ càng 
ngắn càng tốt, nhưng đây không phải là yếu tố 
quan trọng, điều quan trọng là làm sao đạt được 
mục tiêu giải ép hoàn toàn rễ thần kinh. 
Thời gian nằm viện 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian 
nằm viện trung bình là 2,1 ngày. Theo Solimam 
HM (2013)(9): bệnh nhân có thể đi lại sau 4 giờ 
sau mổ, và có thể xuất viện sau mổ trung bình 8 
giờ và bệnh nhân có thể trở về công việc sau 1 
tuần. Còn thời gian nằm viện trung bình trong 
các nghiên cứu khác là: Eun SS (2017)(10) là 4,8 
ngày, Kim JA (2018)(11) là 2,77 ngày, Choi KC 
(2018)(12) là 5 ngày. Thời gian nằm viện trung 
bình của bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng 
tôi tương đương với của tác giả Kim JA (2018) và 
ngắn hơn so với tác giả Eun SS (2017) và Choi 
KC (2018). 
Ngày đầu sau mổ, các bệnh nhân của chúng 
tôi được theo dõi đau vết mổ, các biến chứng 
như chảy máu, tụ máu vết mổ, chèn ép thần 
kinh cấp do máu tụ ngoài màng cứng. Tất cả 
bệnh nhân được hướng dẫn tập vật lý tại 
giường. Phần lớn các bệnh nhân được xuất viện 
vào ngày thứ 2 sau mổ. 
Kết quả đau vết mổ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, điểm đau 
VAS của vết mổ trung bình tại thời điểm 24 giờ 
sau mổ là 2,81, đa số các trường hợp (67,7%) đau 
vết mổ rất ít. Kỹ thuật nội soi với đường rạch da 
nhỏ, sử dụng các dụng cụ nong dãn mô mềm tạo 
đường vào, ít mất máu, ít tổn thương mô mềm, 
do đó giúp bệnh nhân ít đau sau mổ. 
Mức độ đau vết mổ rất ít tạo cho bệnh nhân 
tâm lý thoải mái sau mổ, và giúp bệnh nhân vận 
động sớm, ngồi, đứng đi lại sớm, và giúp bệnh 
nhân trở về công việc sớm. 
Kết quả lâm sàng 
32 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng 
tôi được theo dõi trung bình là 13,3 tháng (ít 
nhất là 9 tháng, nhiều nhất là 19 tháng). Kết quả 
điểm VAS chân trước mổ là 7,81 giảm xuống còn 
1,38 sau mổ, VAS lưng giảm từ 5,87 trước mổ 
còn 0,41 sau mổ. Điểm số ODI giảm có ý nghĩa 
thống kê từ 57,84 trước mổ còn 11,31 sau mổ, và 
tỷ lệ hài lòng của bệnh nhân khá cao (93,75% đạt 
kết quả tốt và rất tốt theo tiêu chuẩn Macnab). 
Nhiều nghiên cứu đã báo cáo kết quả ban 
đầu của kỹ thuật phẫu thuật nội soi 2 cổng trong 
điều trị bệnh lý thoái hóa cột sống thắt lưng. 
Soliman HM (2013)(9) thực hiện nghiên cứu 
tiền cứu trên 43 bệnh nhân được phẫu thuật lấy 
nhân đệm cột sống thắt lưng bằng kỹ thuật nội 
soi 2 cổng. Sau 2 năm theo dõi, có 2 bệnh nhân bị 
mất theo dõi, còn lại 41 bệnh nhân. VAS lưng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 100 
giảm từ 2,4 trước mổ còn 0,9 sau mổ. VAS chân 
giảm từ 7,8 trước mổ còn 0,7 sau mổ. Điểm số 
ODI cải thiện rõ (có ý nghĩa thống kê) từ 76 trước 
mổ còn 19 sau mổ, và tỷ lệ bệnh nhân hài lòng 
cao (95% tốt và rất tốt theo tiểu chuẩn Macmab 
cải biên). 
Kim JE (2018)(11) báo vào kết quả của 60 
trường hợp thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng 
bằng phẫu tjuaajt nội soi (PTNS) 2 cổng. VAS 
chân giảm từ 7,93 trước mổ còn 1,28 sau mổ, 
VAS lưng giảm từ 6,22 trước mổ còn 0,93 sau 
mổ. Và điểm số ODI giảm có ý nghĩa thống kê từ 
70,15 trước mổ còn 14,5 sau mổ. Tỷ lệ tốt và rất 
tốt theo tiêu chuẩn Macnab cải biên là 75%. 
Kết quả lâm sàng trong nghiên cứu của 
chúng tôi tương đồng với kết quả báo cáo của 
các tác giả khác về ứng dụng kỹ thuật PTNS 2 
cổng trong điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt 
lưng. Tuy là kết quả bước đầu nhưng đã đạt tỷ lệ 
hài lòng cao (93,75% tốt và rất tốt theo tiêu chuẩn 
Macnab cải biên). Phần lớn bệnh nhân trở về 
sinh hoạt và công việc bình thường như trước 
khi phẫu thuật. Có 2 bệnh nhân có kết quả khá 
(theo Macnab cải biên), bệnh nhân trở về sinh 
hoạt bình thường nhưng không thể đi làm công 
việc như trước (bệnh nhân có những đợt đau 
lưng và thỉnh thoảng đau chân cần phải dùng 
thuốc giảm đau). 
Nhược điểm của nghiên cứu là: 
- Phương pháp nghiên cứu: mô tả hàng loạt 
ca: mức độ chứng cứ chưa cao. 
- Số lượng mẫu không quá lớn. 
- Theo gian theo dõi không quá lâu. 
Tuy nhiên nghiên cứu còn có một số nhược 
điểm. Thứ nhất là phương pháp nghiên cứu 
chưa có mức độ chứng cứ cao (mô tả hàng loạt 
ca). Thứ hai là số lượng mẫu chưa quá lớn. Thứ 
ba là thời gian theo dõi không quá lâu. 
Tuy là nghiên cứu bước đầu nhưng cũng 
đã đạt kết quả khả quan. Đây là động lực cho 
chúng tôi tiếp tục thực hiện các nghiên cứu 
khác sau này. 
Biến chứng 
Phẫu thuật lấy nhân đệm CSTL bằng kỹ 
thuật nội soi 2 cổng cũng có thể gặp các biến 
chứng giống như các kỹ thuật khác như PT mở, 
PT vi phẫu, hay PTNS 1 cổng. Những biến 
chứng có thể gặp là: rách màng cứng, tổn 
thương rễ thần kinh, máu tụ ngoài màng cứng, 
nhiễm trùng vết mổ, viêm thân sống đĩa đệm, 
thoát vị tái phát, mất vững cột sống sau PT lấy 
nhân đệm. 
Các biến chứng trong mổ 
Rách màng cứng 
Trong nghiên cứu của chúng tôi không ghi 
nhận trường hợp nào tổn thương rách màng 
cứng. Trong một số báo cáo của tác giả nước 
ngoài gần đây đã ghi nhận tổn thương rách 
màng cứng. 
Park HJ (2020)(13), thực hiện nghiên cứu xác 
định tỷ lệ và vị trí rách màng cứng trong PTNS 
cột sống 2 cổng. Tác giả khảo sát mối quan hệ 
giữa rách màng cứng và các loại phẫu thuật và 
các loại dụng cụ phẫu thuật. 643 bệnh nhân 
(PTNS 2 cổng) được phân tích. Kết quả: tỷ lệ 
rách màng cứng được ghi nhận là 4,5% (29/643 
trường hợp), rách ở vùng rễ ra (vùng 1) (2 
trường hợp 6,9%) chủ yếu do curette, trong khi 
rách vùng túi màng cứng (vùng 2) (18 trường 
hợp, 62%) do dùng máy khoan điện, kẹp gấp 
nhân đệm, và dùng Kerrison trong rách rễ ngang 
(vùng 3) (9 trường hợp, 31%), 12 trường hợp 
rách màng cứng được theo dõi tại bệnh viện và 
nằm nghỉ tại giường. 14 trường hợp được điều 
trị bằng keo dán, 2 trường hợp được điều trị 
bằng kẹp kim loại, 1 trường hợp phải chuyển 
sang mổ vi phẫu đễ khâu màng cứng. 1 trường 
hợp bị thoát vị màng nhện sao điều trị bảo tồn 
và cần phẫu thuật lại khâu màng cứng. Tác giả 
kết luận: phần lớn các trường hợp rách màng 
cứng được xử lý bằng nội soi. Tỷ lệ rách màng 
cứng không cao hơn so với PT vi phẫu. 
Tổn thương mạch máu, rễ thần kinh 
Tổn thương mạch máu phía trước qua lỗ 
thủng ra trước của đĩa đệm, đây là biến chứng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 101 
hiếm gặp nhưng có thể gây de dọa tính mạng 
của bệnh nhân nếu phát hiện và xử lý không 
kịp thời. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi không nghi 
nhận trường hợp nào tổn thương mạch máu và 
rễ thần kinh. 
Các báo cáo của các tác giả khác như Soliman 
HM (2013)(9), Eun SS (2017) (10), Kim JA (2018)(11) 
cũng không ghi nhận biến chứng tổn thương 
mạch máu và rễ thân kinh. 
Các biến chứng sau mổ 
Máu tụ ngoài màng cứng sau mổ 
Máu tụ ngoài màng cứng sau mổ là biến 
chứng hiếm gặp, nhưng có thể gây chèn ép thần 
kinh nặng. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi không ghi 
nhận ca nào bị chèn ép thần kinh cấp do máu tụ 
ngoài màng cứng sau mổ. Tuy nhiên một số báo 
cáo của tác giả nước ngoài đã ghi nhận biến 
chứng máu tụ ngoài màng cứng sau PTNS cột 
sống 2 cổng. 
Kim JE (2019)(14) thực hiện nghiên cứu xác 
định tỷ lệ và yếu tố nguy cơ của biến chứng máu 
tụ ngoài màng cứng sau PTNS cột sống 2 cổng. 
Nghiên cứu khảo sát 310 bệnh nhân được thực 
hiện PTNS cột sống 2 cổng. MRI được chụp cho 
tất cả bệnh nhân trước mổ và sau mổ để phát 
hiện máu tụ ngoài màng cứng. Kết quả: tỷ lệ 
chung của máu tụ ngoài màng cứng được phát 
hiện sau mổ là 23,6% (94 trường hợp). Trong đó 
có 6 bệnh nhân phải mổ lại để lấy máu tụ. Các 
yếu tố như: giới nữ, lớn tuổi (>70 tuổi), dùng 
thuốc kháng đông trước mổ là các yếu tố nguy 
cơ liên quan đến biến chứng máu tụ ngoài màng 
cứng sau mổ. 
Nhiễm trùng sau mổ 
Nhiễm trùng sau mổ có thể là nhiễm trùng 
nông của vết mổ hoặc nhiễm trùng sâu vào thân 
sống đĩa đệm. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi không ghi 
nhận trường hợp nào bị biến chứng nhiễm 
trùng sau mổ. Trong các báo cáo của tác giả 
nước ngoài khác cũng không ghi nhận biến 
chứng này. 
PTNS là phẫu thuật can thiệp tối thiểu, 
đường rạch da nhỏ, bóc tách nong dãn mô mềm 
để tạo đường vào, ít tổn thương mổ mềm và đặc 
biệt là lượng nước tưới rửa liên tục và nhiều. 
Đây có thể là những yếu tố có thể làm giảm 
nguy cơ nhiễm trùng trong PTNS. 
Thoát vị đĩa đệm tái phát 
Trong thời gian theo dõi, chúng tôi không 
phát hiện trường hợp nào thoát vị tái phát. Còn 
theo các báo cáo về PTNS 2 cổng của các tác giả 
nước ngoài thì tỷ lệ thoát vị tái phát là 2,02%. 
Ruetten S (2006)(6), tỷ lệ thoát vị tái phát của 
PTNS cột sống 1 cổng là 2,4. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số bệnh 
nhân chưa đủ lớn (32) và thời gian theo dõi chưa 
lâu (ngắn nhất là 9 tháng, lâu nhất là 19 tháng), 
nên chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp nào 
thoát vị tái phát. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu kết quả điều trị 32 bệnh 
nhân thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng với kỹ 
thuật nội soi 2 cổng tại bệnh viện ĐH Y Dược từ 
tháng 01/2019 đến ngày 01/2020, thời gian theo 
dõi trung bình 19 tháng, chúng tôi rút ra các kết 
luận sau: 
1. Kết quả lâm sàng: 28 (87,5%) bệnh nhân 
không còn đau lưng; 30 (93,75%) bệnh nhân hết 
đau chân; có 4 bệnh nhân còn đau lưng mức độ 
trung bình và 2 bệnh nhân thỉnh thoảng còn đau 
lan chân; thời gian mổ trung bình là 78,5 phút, 
thời gian nằm viện trung bình là 2,1 ngày; đánh 
giá theo tiêu chuẩn MacNab: tốt và rất tốt: 
93,75%, khá 6,25%; thang điểm ODI: trước mổ: 
57,34 sau mổ: 11,31. 
2. Trong nghiên cứu của chúng tôi không 
ghi nhận biến chứng nào trong mổ cũng như 
sau mổ. 
KIẾN NGHỊ 
Nghiên cứu này mở đầu cho các nghiên cứu 
về sau như mở rộng chỉ định cho kỹ thuật nội soi 
cột sống, so sánh với các kỹ thuật phẫu thuật 
khác. Nghiên cứu này cũng góp phần vào việc 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 102 
phát triển kỹ thuật nội soi cột sống. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đinh Ngọc Sơn (2011). Kết quả phẫu thuật nội soi lấy nhân đệm 
thoát vị qua lỗ liên hợp trong thoát vị đĩa đệm cột sống thắt 
lưng. Y học Thực hành - Hội nghị phẫu thuật thần kinh Việt Nam 
lần thứ XII, pp.462-470. 
2. Võ Xuân Sơn (2011). Hồi cứu 100 trường hợp mổ thoát vị đĩa 
đệm thắt lưng bằng nội soi qua đường liên bản sống. Y học Thực 
hành - Hội nghị phẫu thuật thần kinh Việt Nam lần thứ XII, 
pp.391-398. 
3. Nguyễn Trọng Thiện (2011). Phẫu thuật nội soi qua lỗ liên hợp 
điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Y học Thực hành - 
Hội nghị phẫu thuật thần kinh Việt Nam lần thứ XII, pp.450-
455. 
4. Schoeggl A, Maier H, Saringer W, Reddy M, et al (2002). 
Outcome after chronic sciatica as the only reason for lumbar 
microdiscectomy. J Spinal Disord Tech, 15(5):415-9. 
5. Kampin P (2005). Herniation lumbar disc and lumbar 
radiculopathy. Arthroscopic and Endoscopy Spinal Surgery, pp.61-
118. 
6. Ruetten S, Komp M, Godolias G (2006). A New full-endoscopic 
technique for the interlaminar operation of lumbar disc 
herniations using 6-mm endoscopes: prospective 2-year results 
of 331 patients. Minim Invasive Neurosurg, 49(2):80-7. 
7. Ruetten S, Komp M, Merk H, et al (2007). Use of newly 
developed instruments and endoscopes: full-endoscopic 
resection of lumbar disc herniations via the interlaminar and 
lateral transforaminal approach. J Neurosurg Spine, 6(6):521-30. 
8. Lin GX, Huang P, Kotheeranurak V, Park CW, et al (2019). A 
Systematic Review of Unilateral Biportal Endoscopic Spinal 
Surgery: Preliminary Clinical Results and Complications. World 
Neurosurg, 125:425-432. 
9. Soliman HM (2015). Irrigation endoscopic decompressive 
laminotomy. A new endoscopic approach for spinal stenosis 
decompression. Spine Journal, 15(10):2282-2289. 
10. Eun SS, Eum JH, Lee SH, Sabal LA (2017). Biportal Endoscopic 
Lumbar Decompression for Lumbar Disk Herniation and Spinal 
Canal Stenosis: A Technical Note. J Neurol Surg A Cent Eur 
Neurosurg, 78(4):390-396. 
11. Kim JE, Choi DJ (2018). Unilateral biportal endoscopic 
decompression by 30 degrees endoscopy in lumbar spinal 
stenosis: Technical note and preliminary report. J Orthop, 
15(2):366-371. 
12. Choi KC, Shim HK, Hwang JS, et al (2018). Comparison of 
Surgical Invasiveness Between Microdiscectomy and 3 Different 
Endoscopic Discectomy Techniques for Lumbar Disc 
Herniation. World Neurosurg, 116:750-758. 
13. Park HJ, Kim SK, Lee SC, et al (2020). Dural Tears in 
Percutaneous Biportal Endoscopic Spine Surgery: Anatomical 
Location and Management. World Neurosurg, 136:578-585. 
14. Kim JE, Choi DJ, Kim MC, Park EJ (2019). Risk Factors of 
Postoperative Spinal Epidural Hematoma After Biportal 
Endoscopic Spinal Surgery. World Neurosurg, 129:324-329. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 13/01/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfdieu_tri_thoat_vi_dia_dem_cot_song_that_lung_bang_ky_thuat_n.pdf