Điều trị rò bạch mạch sau mổ bằng can thiệp qua da xuyên nhu mô gan: Báo cáo ca lâm sàng

Rò bạch mạch sau mổ là một biến chứng ít gặp và có nhiều hình thái khác nhau như tràn dịch dưỡng chấp ổ

bụng, khoang màng phổi, các ổ tụ dịch bạch mạch khu trú, chảy dịch bạch huyết ngoài da, rò bạch mạch trước

bể dưỡng chấp tại rốn gan,.Trong đó rò bạch mạch trước bể dưỡng chấp tại rốn gan là một biến chứng rất hiếm

gặp sau phẫu thuật vào mạc nối gan vị như cắt dạ dày hay nạo vét hạch vùng rốn gan. Phương pháp can thiệp

bạch mạch qua da xuyên nhu mô gan là một phương pháp điều trị mới, ít xâm lấn, an toàn và có hiệu quả cao.

pdf 10 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị rò bạch mạch sau mổ bằng can thiệp qua da xuyên nhu mô gan: Báo cáo ca lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị rò bạch mạch sau mổ bằng can thiệp qua da xuyên nhu mô gan: Báo cáo ca lâm sàng

Điều trị rò bạch mạch sau mổ bằng can thiệp qua da xuyên nhu mô gan: Báo cáo ca lâm sàng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
214 TCNCYH 134 (10) - 2020
Tác giả liên hệ: Phạm Hồng Cảnh, 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 03/12/2020
Rò bạch mạch sau mổ là biến chứng hiếm 
gặp nhưng đã được biết đến bởi nhiều phẫu 
thuật viên ở các chuyên khoa khác nhau1. Rò 
bạch mạch sau mổ có biểu hiện rất đa dạng, có 
nhiều hình thái khác nhau như tràn dịch dưỡng 
chấp ổ bụng, khoang màng phổi, các ổ tụ dịch 
bạch mạch khu trú, chảy dịch bạch huyết ngoài 
da, rò bạch mạch trước bể dưỡng chấp tại rốn 
gan2 Hậu quả của rò bạch mạch số lượng lớn 
có thể dẫn đến suy giảm miễn dịch, suy kiệt, 
suy hô hấp, Đa số rò bạch mạch có thể tự 
khỏi nhờ điều trị bảo tồn nhưng nếu rò bạch 
mạch kéo dài không điều trị có thể gây nguy 
hiểm đến tính mạng bệnh nhân.1
Rò bạch mạch trước bể dưỡng chấp tại rốn 
gan là một biến chứng rất hiếm gặp sau phẫu 
thuật vào mạc nối gan vị như cắt dạ dày, nạo 
vét hạch vùng rốn gan.3 Biến chứng này được 
định nghĩa là sự rò rỉ bạch huyết trong gan vào 
trong ổ bụng qua các tổn thương nhánh bạch 
mạch đi ra từ rốn gan.3 4
Gần đây có các phương pháp chẩn đoán 
hình ảnh được sử dụng để chẩn đoán rò bạch 
mạch như chụp hệ bạch mạch qua mu chân 
hoặc qua hạch bẹn, xạ hình bạch mạch. Trong 
đó phương pháp chụp cộng hưởng từ đánh giá 
động học hệ bạch mạch là phương pháp có 
nhiều ưu điểm và được nhiều tác giả nghiên 
cứu, phát triển.5 - 7
Các phương pháp điều trị rò bạch mạch bao 
gồm: điều trị bảo tồn, điều trị phẫu thuật và điều 
trị can thiệp. Kỹ thuật chụp và can thiệp các loại 
hình rò bạch mạch sau mổ được phát triển trên 
thế giới trong khoảng một thập niên trở lại đây. 
Tại Việt Nam, kỹ thuật này mới được nghiên 
cứu và đã được triển khai một số ca can thiệp 
đầu tiên. 
Báo cáo này của chúng tôi mô tả chẩn đoán 
và điều trị can thiệp rò bạch mạch vùng rốn gan 
ở những bệnh nhân có tràn dịch ổ bụng sau 
mổ.
II. GIỚI THIỆU CA BỆNH
1. Ca lâm sàng số 1
Bệnh nhân nam 32 tuổi được chẩn đoán ung 
thư biểu mô tuyến dạ dày. Sau cắt bán phần dạ 
dày ngày thứ 7, bệnh nhân hồi phục tốt và bắt 
đầu chế độ ăn bình thường. Ngày thứ 10 hậu 
phẫu, bệnh nhân xuất hiện chướng bụng, hình 
ảnh siêu âm phát hiện một lượng lớn dịch tự do 
ĐIỀU TRỊ RÒ BẠCH MẠCH SAU MỔ BẰNG CAN THIỆP
QUA DA XUYÊN NHU MÔ GAN: BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
Phạm Hồng Cảnh , Nguyễn Ngọc Cương, Lê Tuấn Linh, Đoàn Tiến Lưu
 Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Rò bạch mạch sau mổ là một biến chứng ít gặp và có nhiều hình thái khác nhau như tràn dịch dưỡng chấp ổ 
bụng, khoang màng phổi, các ổ tụ dịch bạch mạch khu trú, chảy dịch bạch huyết ngoài da, rò bạch mạch trước 
bể dưỡng chấp tại rốn gan,...Trong đó rò bạch mạch trước bể dưỡng chấp tại rốn gan là một biến chứng rất hiếm 
gặp sau phẫu thuật vào mạc nối gan vị như cắt dạ dày hay nạo vét hạch vùng rốn gan. Phương pháp can thiệp 
bạch mạch qua da xuyên nhu mô gan là một phương pháp điều trị mới, ít xâm lấn, an toàn và có hiệu quả cao. 
Từ khóa: rò bạch mạch, rò bạch mạch sau mổ, can thiệp bạch mạch.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
215TCNCYH 134 (10) - 2020
trong ổ bụng. Bệnh nhân sau đó được đặt dẫn lưu (Pigtail 8F, Bioteq, Taiwan), mỗi ngày lượng dịch 
chảy ra từ 900 đến 1400 ml kéo dài trong 2 tháng.
Dịch thu được có màu vàng và định hướng chẩn đoán tìm nguyên nhân bao gồm di căn phúc 
mạc, lao màng bụng, rò dịch bạch huyết... Tuy nhiên các xét nghiệm tế bào học tìm tế bào ung thư, 
xét nghiệm tìm kháng nguyên lao, đều âm tính. Xét nghiệm sinh hóa dịch thấy có triglyceride với 
nồng độ thấp hơn trong máu nhưng nồng độ albumin và protein tương đương với trong huyết tương.
Hình 1. Dịch dẫn lưu từ trong ổ bụng: dịch có màu vàng
Bảng 1. Xét nghiệm sinh hóa của dịch ổ bụng dẫn lưu ra
STT Tên xét nghiệm định lượng Chỉ số
1 Protein 26,4 mmol/l
2 Triglycerid 0,57 mmol/l
3 Cholesterol ,02 mmol/l
4 Amylase 75 mmol/l
Bệnh nhân được chuyển đến bệnh viện đại học Y Hà Nội trong tình trạng suy kiệt do mất dinh 
dưỡng, mất dịch kéo dài. Đầu tiên, bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ hệ bạch huyết. Phương 
pháp chụp cộng hưởng từ hệ bạch huyết vùng bụng - ngực được thực hiện gần đây sau báo cáo của 
một số tác giả như Dori (2014), Chavhan (2017), Nadolski (2018). Dưới hướng dẫn siêu âm hạch 
bẹn hai bên được xác định vị trí và kim chọc từ 22 đến 25 gauge được đặt vào vùng ranh giới tủy 
và vỏ hạch. Kim chọc được cố định và nối với xilanh chứa 10 ml thuốc đối quang từ mỗi bên thông 
qua hệ thống dây dẫn (hình 2). Cộng hưởng từ động học được thực hiện trong quá trình tiêm thuốc 
đối quang từ vào hạch bẹn hai bên, cho phép đánh giá dòng chảy trong hệ thống bạch huyết vùng 
ngực – bụng, từ đó xác định được các bất thường hay tổn thương của hệ thống bạch mạch.5 - 7
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
216 TCNCYH 134 (10) - 2020
Hình 2. Hình ảnh mô tả kim chọc hạch bẹn hai bên được cố định và được nối với xilanh 
chứa thuốc đối quang từ qua hệ thống dây dẫn
 Trên phim chụp cộng hưởng từ bạch mạch của bệnh nhân này thấy bể dưỡng chấp và ống ngực 
hiện hình rõ mà không có hình ảnh đường rò. 
 Hình 3. Hình ảnh bể dưỡng chấp và ống ngực trên cộng hưởng từ hệ bạch mạch
 A B
Do bệnh nhân sau cắt dạ dày bán phần có 
tràn dịch ổ bụng sớm và kéo dài, các xét nghiệm 
tìm nguyên nhân tràn dịch đều âm tính nên 
hướng đến tràn dịch bạch huyết sau mổ. Phim 
chụp cộng hưởng từ đường bạch huyết chính 
từ thân dưới và ống ngực không thấy đường 
rò, kèm theo thành phần sinh hóa của dịch giàu 
protein nên hướng đến dịch bạch huyết từ trong 
gan. Chúng tôi quyết định thăm dò mạch bạch 
huyết vùng rốn gan, là phần không hiện hình 
trên chụp cộng hưởng từ bạch mạch qua hạch 
bẹn. Chúng tôi đã tiến hành kỹ thuật chụp bạch 
mạch xuyên qua nhu mô gan, là phương pháp 
đã được mô tả trong y văn.3 Dưới hướng dẫn 
siêu âm, chúng tôi đi vào khoang quanh tĩnh 
mạch cửa bằng kim 25G (Chiba - 25G, Cook 
Company, USA), mục tiêu là nhánh trước của 
tĩnh mạch cửa phải và thân trái của tĩnh mạch 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
217TCNCYH 134 (10) - 2020
cửa. Sau đó, 10 ml thuốc cản quang dạng không ion hóa (xenetic 350, ) được tiêm vào bên phải 
và tương tự cách thực hiện đối với bên trái. Bệnh nhân được gây tê tại chỗ trong quá trình thực hiện 
thủ thuật.
Chụp bạch mạch xuyên nhu mô gan trên hệ thống chụp số hóa xóa nền thấy hình ảnh thoát thuốc 
cản quang ra ngoài bạch huyết vùng rốn gan khi tiêm thuốc cản quang vào kim chọc khoảng cửa 
gan phải (hình 4).
 Hình 4. Chụp bạch mạch xuyên nhu mô gan trên hệ thống chụp mạch số hóa xóa nền
A. Chụp bạch mạch xuyên nhu mô gan từ gan phải thấy thoát thuốc cản quang tại rốn gan (mũi 
tên) và vào phúc mạc (đầu mũi tên)
B. Chụp bạch mạch xuyên nhu mô gan từ gan trái không thấy ổ thoát thuốc cản quang ra ngoài
Qua kim chọc vào gan phải tiến hành bơm 5 ml hỗn dịch NBCA và Lipiodol (tỷ lệ 1:4) vào nhánh 
bạch huyết trong gan. Sau can thiệp dịch dẫn lưu ổ bụng ra khoảng 150 ml trong 3 ngày. 
Chúng tôi quyết định can thiệp lần hai. Đầu tiên chọc vào bạch mạch gan phải bằng kim chọc 25G 
bơm hiện hình đường bạch mạch. Phim chụp thấy còn thoát thuốc cản quang từ một nhánh khác đi 
ra từ rốn gan bên cạnh nhánh đã được gây tắc từ trước đó bởi NBCA (hình 5). Qua kim chụp mạch 
Chiba 25 - G bơm 6 ml hỗn hợp Lauromacrogol (Aetoxisclerol 2%, Kreussler Pharma, France) và 
khí (gồm 2 ml Aetoxisclerol 2% và 4 ml khí). Sau can thiệp lần thứ hai, lượng dịch dẫn lưu giảm dần, 
sau 3 ngày không còn dịch dẫn lưu ra và đến ngày thứ 5 sonde dẫn lưu được rút. Bệnh nhân được 
ra viện sau can thiệp 1 tuần và tái khám sau 1 tháng. Kết quả kiểm tra lại cho thấy chức năng gan 
vẫn duy trì bình thường và không còn có dịch ổ bụng.
Hình 5. Hình ảnh can thiệp lần 2
Chụp kiểm tra thấy hình ảnh đường rò từ 
bạch mạch vùng rốn gan vào ổ bụng và thấy 
chỗ đổ vào ống ngực. Sau đó tiến hành bơm 
hỗn hợp Aetoxisclerosis + khí gây tắc hoàn 
toàn đường rò. (TD: ống ngực)
 A B
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
218 TCNCYH 134 (10) - 2020
Bảng 2. Theo dõi số lượng dịch dẫn lưu 
của bệnh nhân từ ngày vào viện đến ngày 
ra viện
Ngày
Số lượng dịch qua 
dẫn lưu
( ml/ngày)
Ghi chú
27/06/2020 500
28/06/2020 500
29/06/2020 600
30/06/2020 400
01/07/2020 400
02/07/2020 500
03/07/2020 500
04/07/2020 500
05/07/2020 600
06/07/2020 600
07/07/2020 500
08/07/2020 500
09/07/2020 500 Nút keo
10/07/2020 200
11/07/2020 100 Tiêm xơ
12/07/2020 80
13/07/2020 100 Ăn cháo
14/07/2020 20
15/07/2020 10
2. Ca lâm sàng số 2
Bệnh nhân nam 56 tuổi vào viện trong tình 
trạng suy kiệt. Bệnh nhân có tiền sử tràn dịch ổ 
bụng liên tục 7 tháng, mỗi ngày khoảng 1000 - 
1500 ml. Dịch ổ bụng xuất hiện sau phẫu thuật 
cắt dạ dày do ung thư biểu mô tuyến 7 ngày 
(vào tháng 2 năm 2019). Các xét nghiệm tìm 
nguyên nhân đều âm tính với lao, ung thư di 
căn phúc mạc và kí sinh trùngBệnh nhân 
được chuyển tới bệnh viện chúng tôi với chẩn 
đoán nghi ngờ rò bạch huyết. 
Bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ bạch 
mạch tương tự ca lâm sàng số 1 để loại trừ rò 
bạch huyết từ thân chi, thân ruột và ống ngực. 
Các kết quả xét nghiệm hóa sinh và tiền sử cắt 
dạ dày gợi ý rò bạch huyết từ trong gan nên 
chúng tôi quyết định chụp bạch mạch xuyên 
nhu mô gan.
Bảng 3. Kết quả xét nghiệm dịch ổ bụng
STT
Tên xét nghiệm định 
lượng
Chỉ số
1 Albumin 20,6 mmol/l
2 Protein 43,4 mmol/l
3 Triglycerid 0,7 mmol/l
4 Cholesterol toàn phần 1,3 mmol/l
Hình 6. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ bạch mạch
Hiện hình các nhánh bạch huyết vùng thắt lưng, bể dưỡng chấp, ống ngực. Không thấy rò thuốc 
đối quang từ vào ổ bụng.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
219TCNCYH 134 (10) - 2020
Trên hình ảnh chụp bạch mạch xuyên nhu mô gan chúng tôi cũng không quan sát thấy vị trí rò 
trực tiếp nhưng trên phim chụp cắt lớp vi tính không tiêm thuốc cản quang ngay sau can thiệp thấy 
tồn tại thuốc cản quang trong ổ bụng. Thuốc cản quang tập trung chủ yếu vùng giường túi mật và rốn 
gan chứng tỏ có đường rò từ nhánh bạch mạch vùng rốn gan nhưng với lưu lượng nhỏ nên không 
thấy trên phim chụp mạch (hình 7,8).
Hình 7. Hình ảnh chụp bạch mạch xuyên nhu mô gan trên hệ thống chụp mạch số hóa xóa 
nền: không thấy hình ảnh bất thường bạch huyết trong gan
Hình 8. Phim chụp cắt lớp vi tính không tiêm thuốc sau khi can thiệp: thấy hình ảnh thuốc cản 
quang trong ổ bụng tập trung vùng rốn gan và giường túi mật (mũi tên)
Hai ngày sau can thiệp dịch ổ bụng vẫn ra 1000 ml mỗi ngày. Chúng tôi quyết định tiêm chất gây 
xơ vào các nhánh bạch huyết trong gan. Đầu tiên chúng tôi chọc vào khoảng cửa bằng kim 25 - G 
(Chiba, Cook Company, USA) và chụp bằng 5 ml thuốc cản quang không ion hóa (Xenetic 350). 
Sau đó tiến hành bơm qua kim tổng cộng 6 ml hỗn hợp Lauromacrogol (Aetoxisclerol 2%, Kreussler 
Pharma, France) và khí với tỷ lệ 2 ml chất gây xơ: 4 ml khí (hình 9).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
220 TCNCYH 134 (10) - 2020
Hình 9. Hình ảnh can thiệp lần 2 (sau 3 ngày)
Chọc kim 25 - G vào khoảng cửa và tiêm hỗn hợp gồm 2 ml Aeoxisclerol 2% và 4 ml khí.
Sau can thiệp lượng dịch dẫn lưu giảm đáng kể đến ngày thứ 3 lượng dịch chỉ còn không quá 100 
ml mỗi ngày. Dẫn lưu được rút sau 7 ngày và bệnh nhân được duy trì chế độ ăn bình thường giống 
như những bệnh nhân sau mổ cắt dạ dày khác trong thời gian nằm viện.
III. BÀN LUẬN
Hệ thống bạch mạch của gan được mô tả 
hình ảnh lần đầu tiên khi tiến hành chụp cây 
đường mật trong quá trình đặt dẫn lưu đường 
mật qua da. Tác giả Cope đã chụp được hình 
ảnh của các nhánh bạch huyết trong gan bằng 
việc sử dụng kim chọc 27 - G khi cố gắng chọc 
vào đường mật để tiến hành chụp đường mật 
xuyên nhu mô gan.8
Rò bạch mạch trước bể dưỡng chấp tại rốn 
gan là một biến chứng rất hiếm gặp, phần lớn 
liên quan đến việc nạo vét hạch bạch huyết vị 
trí dây chằng vị gan ở những bệnh nhân phẫu 
thuật ung thư dạ dày.3, 9 Chẩn đoán ban đầu 
dựa vào triệu chứng lâm sàng và loại trừ các 
nguyên nhân gây tràn dịch ổ bụng khác.2 Dịch 
ổ bụng do tổn thương các thân bạch huyết của 
ruột và các nhánh bạch mạch của gan là khác 
nhau. Dịch rò bạch huyết của gan không chứa 
dưỡng chấp nên không trắng đục như sữa gặp 
trong rò bạch huyết do tổn thương các thân ruột 
và có thể dễ xác định bằng xét nghiệm hóa sinh 
định lượng triglycerid.9 
Điều trị rò bạch mạch của gan sau mổ bao 
gồm điều trị bảo tồn, phẫu thuật hoặc can thiệp. 
Chụp bạch mạch xuyên nhu mô gan được thực 
hiện để chẩn đoán rò bạch mạch và đưa ra 
chiến lược điều trị can thiệp an toàn. Phương 
pháp điều trị truyền thống rò bạch mạch của 
gan là điều trị bảo tồn, bao gồm bù lượng dịch 
mất đi (truyền albumin hoặc dịch bạch huyết ổ 
bụng), liệu pháp lợi niệu và chế độ dinh dưỡng 
không qua đường ruột 4. Nếu điều trị bảo tồn 
thất bại thì các phương pháp khác có thể được 
thực hiện như gây xơ tại chỗ trong phúc mạc, 
tạo luồng thông tĩnh mạch và ổ bụng hay phẫu 
thuật thắt bạch mạch. Gần đây phương pháp 
can thiệp gây tắc bạch mạch đề điều trị rò bạch 
mạch của gan cũng đã được báo cáo, tuy nhiên 
do bạch mạch của gan kích thước nhỏ nên việc 
can thiệp chọn lọc giống như can thiệp ống 
ngực còn gặp nhiều hạn chế và rất khó khăn.9, 10
Chiến lược điều trị can thiệp rò bạch mạch 
của gan sau mổ
Khác với điều trị can thiệp bạch mạch khác, 
điều trị can thiệp bạch mạch của gan không 
thực hiện chụp bạch mạch qua hạch bẹn hai 
bên mà bạch mạch được chụp và can thiệp 
xuyên nhu mô gan. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
221TCNCYH 134 (10) - 2020
Sử dụng kim cỡ 21 - G hoặc 25 - G chọc 
trực tiếp qua da xuyên nhu mô gan vào khoảng 
cửa gan phải và gan trái dưới hướng dẫn của 
siêu âm. Kim chọc đã được nối với một dây nối 
mềm và một xilanh thuốc cản quang không ion 
hóa (Xenetic, ). Sau đó tiến hành bơm chậm 
thuốc cản quang để hiện hình các vi quản bạch 
mạch trong khoảng cửa và dẫn lưu về vùng rốn 
gan dưới hướng dẫn của chụp mạch số hóa xóa 
nền. Từ đó xác định vị trí rò thuốc cản quang ra 
ngoài các vi quản bạch mạch vào trong ổ bụng. 
Trong trường hợp không quan sát thấy rõ vị trí 
rò trực tiếp trên chụp số hóa xóa nền (do lỗ 
rò quá nhỏ), có thể tiến hành chụp lại cắt lớp 
vi tính ổ bụng không tiêm thuốc cản quang để 
chẩn đoán xác định là có rò thuốc cản quang 
từ hệ thống bạch mạch vào trong ổ bụng và 
dựa vào vị trí tập trung của thuốc cản quang có 
thể định hướng vị trí lỗ rò. Sau khi đã xác định 
được vị trí rò thì tiến hành phương pháp nút 
bạch mạch phía trước tổn thương qua kim chọc 
xuyên nhu mô gan từ trước hoặc chọc kim trực 
tiếp qua da thành bụng vào nhánh bạch mạch 
phía trước tổn thương. 
Vật liệu gây tắc được sử dụng là chất gây 
xơ, có tác dụng tạo phản ứng viêm và tăng sinh 
mô hạt để bít tắc lỗ rò. Chất gây xơ chúng tôi sử 
dụng là Lauromacrogol (Aetoxisclerol) có tính 
chất phá huỷ lớp màng trong của ổ giả phình 
hoặc mao mạch bạch huyết.11 Sau can thiệp 
điều trị chất gây xơ cần kết hợp chế độ dinh 
dưỡng đường tĩnh mạch 2 - 3 ngày để giảm thể 
tích tuần hoàn trong hệ bạch huyết và tăng hiệu 
quả gây xơ.12
Ngoài ra một số vật liệu gây tắc khác có thể 
sử dụng và có hiệu quả trong một số nghiên 
cứu trước như hỗn dịch keo sinh học NBCA 
(N - butyl cyanoacrylate) và Lipiodol hoặc dung 
dịch Onyx LES. Dung dịch Onyx LES là hỗn 
hợp của chất trùng hợp Ethylene vinyl alcohol 
hòa tan trong Dimethyl Sulfoxide. Năm 2014, 
tác giả Guez đã báo cáo trường hợp rò bạch 
huyết gan. Bệnh nhân đã được điều trị bằng 
nhiều phương pháp, đã phẫu thuật tạo shunt 
phúc mạc, tuy nhiên lượng dịch ổ bụng vẫn ra 
với số lượng lớn. Tác giả tiến hành chụp bạch 
mạch xuyên nhu mô gan bằng cách chọc kim 
Chiba 21 – G vào khoảng cửa dưới hướng dẫn 
siêu âm, sau đó bơm thuốc cản quang, thấy 
hiện hình đường bạch huyết trong và ngoài 
gan, thấy rò cản quang vào phúc mạc. Tiến 
hành bơm 0,2 ml dimethyl sulfoxide và 0.5 ml 
Onyx nút đường rò. Sau can thiệp lượng dịch 
đã ngừng ra, tuy nhiên bệnh nhân đã tử vong 
sau 5 tháng do suy kệt và viêm phổi. Qua đây, 
cho thấy có thể can thiệp nút rò bạch huyết gan 
bằng Onyx LES. 3
Biến chứng can thiệp
Thủ thuật chụp bạch mạch xuyên nhu mô 
gan là một can thiệp qua da có thể có nguy cơ 
tai biến gồm: nhiễm trùng, chảy máu vị trí chọc. 
Do phải đi qua nhu mô gan nên có nguy cơ gây 
tổn thương nhu mô gan, tổn thương mạch máu 
trong gan có thể là chảy máu, giả phình, thông 
động tĩnh mạch,hoặc tổn thương đường mật.
Khi tiến hành chọc kim trực tiếp vào ổ tổn 
thương mà không qua nhu mô gan có thể gây 
tổn thương các tạng trong ổ bụng, mạch máu, 
ruột,tuy nhiên thực tế kim chọc lớn nhất 21 - 
G không gây tổn thương về lâm sàng.13
IV. KẾT LUẬN
Rò bạch mạch trước bể dưỡng chấp tại rốn 
gan sau mổ là một biến chứng rất hiếm gặp. 
Phương pháp chụp và can thiệp bạch mạch 
qua da xuyên nhu mô gan là một tiến bộ mới 
trong điều trị biến chứng này. Đây là phương 
pháp điều trị an toàn, có hiệu quả cao, thực 
hiện nhanh, tránh cho bệnh nhân một cuộc mổ 
và giảm thời gian nằm viện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hur S, Shin JH, Lee IJ, et al. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
222 TCNCYH 134 (10) - 2020
Early Experience in the Management of 
Postoperative Lymphatic Leakage Using 
Lipiodol Lymphangiography and Adjunctive 
Glue Embolization. J Vasc Interv Radiol. Aug 
2016;27(8):1177 - 1186 e1. doi:10.1016/j.
jvir.2016.05.011
2. Lv S, Wang Q, Zhao W, et al. A 
review of the postoperative lymphatic leakage. 
Oncotarget. Sep 15 2017;8(40):69062 - 69075. 
doi:10.18632/oncotarget.17297
3. Guez D, Nadolski GJ, Pukenas BA, 
Itkin M. Transhepatic lymphatic embolization of 
intractable hepatic lymphorrhea. J Vasc Interv 
Radiol. Jan 2014;25(1):149 - 50. doi:10.1016/j.
jvir.2013.09.002
4. Tanaka K, Ohmori Y, Mohri Y, et al. 
Successful treatment of refractory hepatic 
lymphorrhea after gastrectomy for early gastric 
cancer, using surgical ligation and subsequent 
OK - 432 (Picibanil) sclerotherapy. Gastric 
Cancer. 2004;7(2):117 - 21. doi:10.1007/
s10120 - 004 - 0276 - 5
5. Dori Y, Zviman MM, Itkin M. Dynamic 
contrast - enhanced MR lymphangiography: 
feasibility study in swine. Radiology. 
Nov 2014;273(2):410 - 6. doi:10.1148/
radiol.14132616
6. Chavhan GB, Amaral JG, Temple M, 
Itkin M. MR Lymphangiography in Children: 
Technique and Potential Applications. 
Radiographics. Oct 2017;37(6):1775 - 1790. 
doi:10.1148/rg.2017170014
7. Nadolski GJ, Ponce - Dorrego MD, 
Darge K, Biko DM, Itkin M. Validation of the 
Position of Injection Needles with Contrast - 
Enhanced Ultrasound for Dynamic Contract 
- Enhanced MR Lymphangiography. J Vasc 
Interv Radiol. Jul 2018;29(7):1028 - 1030. 
doi:10.1016/j.jvir.2018.02.034
8. Cope C. Usefulness of a percutaneous 
transhepatic coaxial micropuncture needle 
technique in patients with nondilated peripheral 
intrahepatic ducts. AJR Am J Roentgenol. 
Oct 2003;181(4):1017 - 20. doi:10.2214/
ajr.181.4.1811017
9. Matsumoto S, Mori H, Tada I. 
Successful demonstration of post - operative 
lymphatic fistula by percutaneous transhepatic 
lymphography. Clin Radiol. Jun 2000;55(6):485 
- 6. doi:10.1053/crad.2000.0123
10. Inoue M, Nakatsuka S, Yashiro H, et 
al. Lymphatic Intervention for Various Types 
of Lymphorrhea: Access and Treatment. 
Radiographics. Nov - Dec 2016;36(7):2199 - 
2211. doi:10.1148/rg.2016160053
11. Mahrer A, Ramchandani P, 
Trerotola SO, Shlansky - Goldberg RD, 
Itkin M. Sclerotherapy in the management 
of postoperative lymphocele. J Vasc Interv 
Radiol. Jul 2010;21(7):1050 - 3. doi:10.1016/j.
jvir.2010.03.014
12. Cuong NN, Binh NT, Hien PN, et al. 
Interventional Treatment of Lymphatic Leakage 
Post Appendectomy: Case Report. Open Access 
Maced J Med Sci. May 15 2019;7(9):1512 - 
1515. doi:10.3889/oamjms.2019.288
13. Itkin M, Kucharczuk JC, Kwak A, 
Trerotola SO, Kaiser LR. Nonoperative thoracic 
duct embolization for traumatic thoracic duct 
leak: experience in 109 patients. J Thorac 
Cardiovasc Surg. Mar 2010;139(3):584 
- 89; discussion 589 - 90. doi:10.1016/j.
jtcvs.2009.11.025
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
223TCNCYH 134 (10) - 2020
Summary
TREATMENT OF POSTOPERATIVE LYMPHATIC LEAKAGE 
WITH TRANSHEPATIC LYMPHATIC INTERVENTION: 
CASE REPORTS
Postoperative lymphatic leakage is a rare complication and has many types such as chylous ascites, 
lymphorrhea, chylothorax, lymphocele, lymphatic fistula, hepatic lymphorrhea Hepatic lymphorrhea is 
a very rare complication, resulting from a damaged hepatogastric ligament after gastrectomy or lymph node 
dissection. Transhepatic lymphatic intervention is a new, less invasive, safe and highly effective method.
Keywords: lymphatic leakage, postoperative lymphatic leakage, lymphatic intervention.

File đính kèm:

  • pdfdieu_tri_ro_bach_mach_sau_mo_bang_can_thiep_qua_da_xuyen_nhu.pdf