Điều trị rách chóp xoay bằng kỹ thuật khâu gân mason allen cải biên qua nội soi

Rách chóp xoay là nguyên nhân thường gặp nhất gây ra đau, yếu vai và hạn chế vận động khớp vai. Tổn

thương này không thể lành được nếu không được khâu lại sớm và chỗ gân rách đó sẽ ngày càng toác rộng

đến mức không thể khâu được nữa. Hiện có nhiều kỹ thuật được giới thiệu để sửa chữa tổn thương rách

chóp xoay qua nội soi. Mục tiêu của nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá kết quả bước đầu điều trị rách chóp

xoay bằng kỹ thuật nội soi khâu gân Mason Allen cải biên và tạo vi tổn thương tại diện bám. Nghiên cứu tiến

cứu can thiệp lâm sàng theo dõi dọc bao gồm 42 bệnh nhân được chẩn đoán là rách chóp xoay được điều trị

phẫu thuật khâu gân chóp xoay (chóp xoay) với kỹ thuật khâu gân Mason Allen cải biên dùng trong nội soi và

tạo vi tổn thương tại diện bám tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn trong khoảng

thời gian từ 09/01/2019 đến 6/3/2020.Điểm ASES trung bình trước mổ là 27,82 ± 16,65.Thời gian trung bình

của phẫu thuật là 83,33 ± 27,73 phút. Số neo được sử dụng khâu trung bình là 1,62 ± 0,66, số lỗ tạo vi tổn

thương trung bình là 4,73 ± 1,34. Điểm ASES trung bình sau mổ là 95,48 ± 2,94, điểm UCLA trung bình sau

mổ là 32,64 ± 1,50. Kiểm tra mức độ liền gân trên MRI 15 trong tổng số 42 bệnh nhân cho thấy số bệnh nhân

có liền gân độ I lần lượt là 60,0% độ II lần lượt là 33,3%. Tất cả các bệnh nhân đều hài lòng với kết quả của

phẫu thuật. Phẫu thuật điều trị rách chóp xoay bằng kỹ thuật nội soi khâu gân Mason Allen cải biên và tạo vi

tổn thương tại diện bám chóp xoay mang lại kết quả khả thi trên nhóm bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật.

pdf 11 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị rách chóp xoay bằng kỹ thuật khâu gân mason allen cải biên qua nội soi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị rách chóp xoay bằng kỹ thuật khâu gân mason allen cải biên qua nội soi

Điều trị rách chóp xoay bằng kỹ thuật khâu gân mason allen cải biên qua nội soi
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
84 TCNCYH 132 (8) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hữu Mạnh,
Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/09/2020
Ngày được chấp nhận: 20/10/2020
Chóp xoay là tên gọi chung của phần gân 
của bốn cơ trên gai, dưới gai, tròn bé và dưới 
vai bám vào đầu trên xương cánh tay. Khi gân 
chóp xoay bị rách gây ra đau, yếu vai và hạn 
chế vận động khớp vai. Tổn thương này không 
thể lành được nếu không được khâu lại sớm và 
chỗ gân rách đó sẽ ngày càng toác rộng đến 
mức không thể khâu được nữa. 
Kỹ thuật khâu một hàng là một kỹ thuật kinh 
điển được biết đến đầu tiên trong quá trình 
phẫu thuật nội soi khớp vai, đây là một kỹ thuật 
với việc đặt các mỏ neo khâu gân theo 1 đường 
thẳng tuyến tính từ trước ra sau vào mấu động 
lớn xương cánh tay, mỗi neo cách nhau một vài 
milimet trên diện bám gân, kỹ thuật này được 
gọi là khâu một hàng.1 Năm 2003 hai tác giả 
Scheibel và Habermeyer giới thiệu kỹ thuật 
nội soi khâu chóp xoay một hàng sử dụng 
mũi khâu Mason - Allen cải biên, đã có nhiều 
nghiên cứu thực nghiệm cùng với các kết quả 
đánh giá cho thấy sự vượt trội về cơ sinh học 
của mũi khâu này so với các mũi khâu một 
hàng đơn giản khác như về độ bao phủ của 
diện bám chóp xoay, chịu lực căng tốt hơn, 
giảm khoảng trống và cho kết quả lâm sàng 
tương tự như đối với phương pháp hai hàng.2
Bên cạnh về kỹ thuật khâu thì một số tác giả 
có đi sâu vào nghiên cứu các yếu tố liên quan 
đến làm tăng tỷ lệ liền gân sau phẫu thuật. Một 
số tác giả đã nhận thấy chất lượng kém của mô 
ĐIỀU TRỊ RÁCH CHÓP XOAY BẰNG KỸ THUẬT KHÂU GÂN 
MASON ALLEN CẢI BIÊN QUA NỘI SOI
Nguyễn Hữu Mạnh1, , Trần Trung Dũng2, Lê Khánh Trình1
1Bệnh viện Đa Khoa Xanh Pôn, 
2Trường Đại học Y Hà Nội 
Rách chóp xoay là nguyên nhân thường gặp nhất gây ra đau, yếu vai và hạn chế vận động khớp vai. Tổn 
thương này không thể lành được nếu không được khâu lại sớm và chỗ gân rách đó sẽ ngày càng toác rộng 
đến mức không thể khâu được nữa. Hiện có nhiều kỹ thuật được giới thiệu để sửa chữa tổn thương rách 
chóp xoay qua nội soi. Mục tiêu của nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá kết quả bước đầu điều trị rách chóp 
xoay bằng kỹ thuật nội soi khâu gân Mason Allen cải biên và tạo vi tổn thương tại diện bám. Nghiên cứu tiến 
cứu can thiệp lâm sàng theo dõi dọc bao gồm 42 bệnh nhân được chẩn đoán là rách chóp xoay được điều trị 
phẫu thuật khâu gân chóp xoay (chóp xoay) với kỹ thuật khâu gân Mason Allen cải biên dùng trong nội soi và 
tạo vi tổn thương tại diện bám tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn trong khoảng 
thời gian từ 09/01/2019 đến 6/3/2020.Điểm ASES trung bình trước mổ là 27,82 ± 16,65.Thời gian trung bình 
của phẫu thuật là 83,33 ± 27,73 phút. Số neo được sử dụng khâu trung bình là 1,62 ± 0,66, số lỗ tạo vi tổn 
thương trung bình là 4,73 ± 1,34. Điểm ASES trung bình sau mổ là 95,48 ± 2,94, điểm UCLA trung bình sau 
mổ là 32,64 ± 1,50. Kiểm tra mức độ liền gân trên MRI 15 trong tổng số 42 bệnh nhân cho thấy số bệnh nhân 
có liền gân độ I lần lượt là 60,0% độ II lần lượt là 33,3%. Tất cả các bệnh nhân đều hài lòng với kết quả của 
phẫu thuật. Phẫu thuật điều trị rách chóp xoay bằng kỹ thuật nội soi khâu gân Mason Allen cải biên và tạo vi 
tổn thương tại diện bám chóp xoay mang lại kết quả khả thi trên nhóm bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật.
Từ khoá: Khâu gân chóp xoay, Mason Allen cải biên, vi tổn thương, nội soi.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
85TCNCYH 132 (8) - 2020
xương và gân có thể ảnh hưởng đến quá trình liền 
gân vào xương của gân chóp xoay, đây được 
cho là nguyên nhân chính dẫn đến quá trình 
không liền gân hoặc rách lại của gân.3 - 5 Một 
số tác giả đã thừa nhận rằng các kỹ thuật hiện 
tại nhằm tăng tưới máu tại diện bám chóp 
xoay như mài vỏ xương không cung cấp được 
nguồn mạch máu đủ và tối ưu cho quá trình 
sửa chữa tổn thương, họ cho rằng các lỗ sâu 
trên mấu động lớn (lỗ thoát tủy xương) có thể 
tạo điều kiện thuận lợi cho sự thoát ra các yếu 
tố từ tủy xương chẳng hạn như tế bào gốc tủy 
xương, các yếu tố tăng trưởng và các protein 
khác kích hoạt và làm tăng quá trình liền gân vào 
xương.6,7 Xuất phát từ những vấn đề trên chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục đích:
 Đánh giá kết quả bước đầu điều trị rách 
chóp xoay bằng kỹ thuật nội soi khâu gân 
Mason Allen cải biên và kết hợp tạo vi tổn 
thương tại diện bám.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm 42 bệnh nhân được chẩn đoán là rách 
chóp xoay có chỉ định ngoại khoa khâu phục hồi:
Khám lâm sàng có một trong số các nghiệm 
pháp chẩn đoán rách chóp xoay dương tính
Cộng hưởng từ có hình ảnh rách hoàn toàn 
gân chóp xoay
Hình ảnh nội soi có rách chóp xoay và có chỉ 
định khâu rách chóp xoay qua nội soi
Đã được điều trị bảo tồn bằng thuốc kháng 
viêm giảm đau nonsteroide, tập vật lí trị liệu 
nhưng không cải thiện
Bệnh nhân được phẫu thuật khâu gân chóp 
xoay bằng kỹ thuật khâu gân một hàng Mason 
Allen cải tiến của hai tác giả Scheibel và 
Habermeyer,2 và tạo vi tổn thương tại diện bám 
chóp xoay qua nội soi theo kỹ thuật kỹ thuật 
phối hợp của nhóm tác giả Stephen J. Snyder 
và nhóm tác giả Guiseppe Milano7,8 tại Bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Đa khoa 
Xanh Pôn trong khoảng thời gian từ 09/01/2019 
đến 6/3/2020.
2. Phương pháp
Nghiên cứu tiến cứu can thiệp lâm sàng 
theo dõi dọc
Trình tự thực hiện kỹ thuật khâu gân một 
hàng Mason Allen cải tiến của hai tác giả 
Scheibel và Habermeyer:2 
Mũi khâu nằm ngang được tiến hành thực 
hiện trước. 
Mũi khâu thẳng đứng được thực hiện sau, 
mũi khâu này sẽ đi qua vị trí ở giữa và ở phía 
trong so với mũi khâu nằm ngang.
Hình 1. Trình tự khâu gân theo phương 
pháp Mason Allen cải tiến2
Tiến hành tạo các vi tổn thương tại diện bám 
của chóp xoay: Sử dụng dùi nội soi đường kính 
1,5 mm. Tạo các lỗ vi tổn thương ở phía trong 
vị trí đặt neo và phía ngoài vị trí đặt neo tại mấy 
động lớn.
Hình 2. Tạo vi tổn thương phía trong vị trí 
đặt neo7
Tiến hành buộc nút chỉ mũi khâu nằm ngang 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
86 TCNCYH 132 (8) - 2020
trước. Tiếp đến buộc nốt nút chỉ của mũi khâu 
dọc còn lại.
Sau khi buộc xong các nút chỉ tất cả vùng 
được bộc lộ ở phía ngoài của nút chỉ và gân 
chóp xoay được tạo thêm nhiều lỗ vi tổn thương.
Hình 3. Tạo vi tổn thương sau khi buộc chỉ 
khâu chóp xoay8
Số liệu được thu thập tại các thời điểm
Trước phẫu thuật:
Các yếu tố dịch tễ: Tuổi, giới, vai tổn thương.
Điểm ASES trước mổ.
Trong phẫu thuật:
Đặc điểm của tổn thương
Phân độ mức độ rách của tổ thương theo 
phân loại của Cofield R.H9. 
Số neo khâu
Số lỗ microfracture được tạo
Tau biến trong mổ
Thời gian phẫu thuật
Sau phẫu thuật :
Điểm đánh giá sau phẫu thuật dựa trên bảng 
điểm:10,11 UCLA, ASES.
Đánh giá phân loại liền gân trên MRI dựa 
theo phân loại của Sugaya12,13 (trên 06 tháng)
3. Xử lý số liệu
Nhập số liệu, phân tích và xử lý số liệu bằng 
phần mềm SPSS 18.0
4. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ theo qui định của đạo 
đức trong nghiên cứu y sinh học.
III. KẾT QUẢ
Trong 42 đối tượng trong nghiên cứu, tuổi 
TB của bệnh nhân nghiên cứu: 59,10 ± 8,53 
(36 tuổi - 76 tuổi). Độ tuổi ≥ 45 tuổi chiếm tỷ lệ 
95,2%. 
1. Đặc điểm của tổn thương
Bảng 1. Đặc điểm của tổn thương
Đặc điểm tổn thương n
Tỷ lệ 
(%)
Bên mổ
Bên phải 35 83,3
Bên trái 7 16,7
Tổn thương 
gân
RI 30 71,4
SSP 41 97,6
ISP 13 31,0
SSC 3 9,5
Phân loại 
rách của 
Cofield R.H
Rách rất lớn 6 14,3
Rách lớn 9 21,4
Rách vừa 19 45,2
Rách nhỏ 8 19,1
Tổng 42 100
Có thể nhận thấy đa số bệnh nhân bị tổn 
thương bên vai Phải (83,3%), đây là vai thuộc 
bên tay thuận. Đặc điểm của gân bị tổn thương 
cho thấy gân trên gai(SSP) là tổn hay gặp 
nhất chiếm tỷ lệ 97,6%; tiếp đến là tổn thương 
khoảng gian chóp xoay (RI) 71,4%; gân dưới 
gai 31,0%; chỉ 3 trường hợp có tổn thương gân 
dưới vai chiếm tỷ lệ 7,14%. 
Mức độ rách vừa chiếm tỷ lệ nhiều nhất ( 
45,2%), rách lớn chiếm tỷ lệ thứ 2 ( 21,4%), 
rách nhỏ chiếm tỷ lệ nhiều thứ 3 (19,1%), rách 
rất lớn chiếm tỷ lệ ít nhất (14,3%).
Số neo sử dụng trong quá trình phẫu thuật, 
số lượng tạo lỗ microfacture
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
87TCNCYH 132 (8) - 2020
Bảng 2. Số neo sử dụng trong quá trình phẫu thuật, số lượng tạo lỗ microfacture 
Đặc điểm n Tỷ lệ (%)
Phân loại số neo khâu
1 20 47,6
2 18 42,9
3 4 9,5
Tổng 42 100
Số neo khâu trung bình (min - max) 1,62 ± 0,66 Min - max: 1 - 3
Số lượng tạo lỗ microfacture 4,73 ± 1,34 Min - max: 2 - 8
Tổng số ca sử dụng 1 và 2 neo khâu trong quá trình phẫu thuật chiếm tỷ lệ nhiều nhất 90,5%; số 
neo khâu trung bình 1,62. Số lượng tạo lỗ microfacture trung bình 4,73 .tạo lỗ microfacture; 
2. Mối liên quan giữa kích thước rách, số neo sử dụng, số lượng tạo lỗ microfacture: 
Biểu đồ 1. Mối liên quan giữa kích thước rách và số neo sử dụng
Dựa trên biểu đồ trên cho thấy đối với rách nhỏ 100% sử dụng 1 neo khâu, rách lớn 100% sử 
dụng 2 neo khâu. Không có trường hợp nào rách rất lớn 1 neo khâu.
Biểu đồ 2. Liên quan giữa microfracture TB và kích thước rách
Dựa trên biểu đồ trên cho thấy kích thước rách càng rộng thì số lượng lỗ tạo vi tổn thương càng 
63,2
100,0
33,3
100,0
36,8
66,7
Rách rất lớn Rách lớn Rách vừa Rách nhỏ
1 neo 2 neo 3 neo
5,80±1,92 5,67±0,71
4,42±1,26
3,75±0,46
4,73±1,34
Rách rất lớn Rách lớn Rách vừa Rách nhỏ Tổng
M
ic
ro
fr
a
c
tu
re
 (
s
ố
 l
ỗ
)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
88 TCNCYH 132 (8) - 2020
tăng. 
+ Thời gian mổ trung bình của 1 ca phẫu 
thuật là 83,33 ± 27,73; phần lớn bệnh nhân có 
thời gian mổ > 60 - 120 phút (59,5%); tỷ lệ dưới 
60’ là 35,7%; > 120’ là thấp nhất với 4,8%. 
+ Kết quả sau mổ: Thời gian theo dõi trung 
bình sau mổ: 14,58 ± 3,52 (5,6 - 19,6) tháng.
Bảng 3. Điểm UCLA sau mổ
Kết quả sau mổ n Tỷ lệ (%)
Phân loại 
UCLA
 < = 20 0 0
Trung bình: 
21 - 27
0 0
Tốt: 28 - 33 22 52,4
Rất tốt: > 33 20 47,6
Tổng 42 100
Điểm UCLA 
TB
32,64 
± 1,50
Min - max: 
30 - 35
ASES 
Trước mổ
27,82 
± 
16,65
Min - max: 
1,67 - 75,0
Sau mổ
95,48 
± 2,94
Min - max: 
88,33 - 100
p < 0,01
Kết quả 
dựa trên 
MRI 
(n = 15)
Độ I 9 60
Độ II 5 33,3
Độ III 0 0
Độ IV 1 6,7
Độ V 0 0
Tổng 15 100
Điểm UCLA trung bình sau mổ là 32,64 
thuộc nhóm phân loại rất tốt. 100% bệnh nhân 
sau mổ có kết quả tốt và rất tốt. 
Điểm ASES trung bình sau mổ (97,48 ± 
2,94) cải thiện rõ rệt với điểm ASES trước mổ.
Tỷ lệ bệnh nhân có liền gân độ I,II trên MRI 
chiếm tỷ lệ lớn nhất. 
IV. BÀN LUẬN
Đa phần các bệnh nhân trong nghiên cứu 
của chúng tôi là thuộc nhóm tuổi trung niên đến 
cao tuổi (nhóm bệnh nhân từ 45 tuổi trở lên có 
40 bệnh nhân chiếm 95,2%), đây là nhóm dễ bị 
tổn thương gân vùng chóp xoay nhất do cơ chế 
thoái hóa thiếu máu nuôi và các vi chấn thương 
lặp đi lặp lại nhiều lần. 
Đa số tổn thương gặp trên vai Phải 35 bệnh 
nhân( 83,3%) đây là vai thuận của bệnh nhân 
được sử dụng chủ yếu, bởi vậy tổn thương 
trước mổ gây hạn chế nhiều hoạt động của 
bệnh nhân trong lao động và sinh hoạt đời sống 
hàng ngày, do vậy điểm ASES trung bình trước 
mổ của các bệnh nhân đều thấp.
Theo Codman (1931) thoái hoá của gân 
chóp xoay thường bắt đầu ở các sợi phía trước 
của gân trên gai, nó là một tổn thương dạng 
bóc tách của gân nằm phía sau ròng rọc của 
gân nhị đầu khoảng 7 mm hoặc trong gân tại vị 
trí tiếp giáp. Quan điểm này vẫn còn nguyên giá 
trị cho đến ngày nay đa số các tác giả cho rằng 
gân chóp xoay rách do thoái hoá thường bắt 
đầu gần vị trí của rãnh nhị đầu và phía trước 
của gân cơ trên gai.14 Tác giả N.A.Mall và CS 
trong nghiên cứu tổng hợp đánh giá lại tất cả 
các bài báo cáo về rách chóp xoay do chấn 
thương cũng nhận thấy tỷ lệ bị rách gân trên 
gai do chấn thương cũng gặp nhiều nhất chiếm 
84% trong tổng số các trường hợp rách.15 Điều 
này cho thấy nhận định gân trên gai là gân dễ bị 
tổn thương nhất trong số các gân cơ chóp xoay. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng nhận thấy 
tỷ lệ rách của gân trên gai tương tự (có 41 bệnh 
nhân có rách gân trên gai chiếm tỷ lệ 97,6%).
Trong số các trường hợp rách thì dựa theo 
phân loại rách của tác giả Cofield R.H có thể 
nhận thấy hình thái rách mức độ vừa chiếm tỷ 
lệ nhiều nhất ( 45,2%), rách lớn chiếm tỷ lệ thứ 
2 ( 21,4%).9 Do đặc điểm của bệnh thường xuất 
hiện với các triệu chứng đau và hạn chế vận 
động do đau, một phần do tâm lý và nhận thức 
về bệnh còn hạn chế. Đa số các bệnh nhân đều 
cố chịu đựng hoặc tự mua thuốc dùng hoặc kết 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
89TCNCYH 132 (8) - 2020
hợp với đông y châm cứu, nên thường bệnh 
nhân đến khám ở cơ sở y tế chuyên khoa và 
nhập viện điều trị khi bệnh đã bị từ rất lâu vậy 
lên hình thái của rách nhỏ chiếm tỷ lệ không 
cao so với các hình thái rách khác.
Tác giả Neer là người ủng hộ cho giả 
thuyết các yếu tố nguyên nhân bên ngoài dẫn 
đến bệnh lý chóp xoay, trong đó khi thực hiện 
động tác nâng cánh tay về phía trước thì phần 
trước của gân chóp xoay sẽ cọ sát với vòm 
cùng quạ và điều này dẫn đến chèn ép gân 
chóp xoay, viêm gân và rách gân.16 Giả thuyết 
này của Neer càng được củng cố khi tác giả 
Bigliani và CS cho rằng sự “ cong xuống” của 
mỏm cùng vai trong mặt phẳng đứng dọc có thể 
gây sự va chạm với phần phía trước của gân 
chóp xoay, một vài tác giả xác nhận điều này 
và tìm thấy mối liên quan mật thiết giữa mỏm 
cùng vai có hình dạng mỏm cùng vai với rách 
gân chóp xoay.17 Trong nghiên cứu của chúng 
tôi tình trạng chồi xương dưới mỏm cùng vai 
chằng cùng quạ cùng xuất hiện với tỷ lệ cao 
điều này gián tiếp cho thấy sự thu hẹp khoảng 
cách trong khoang dưới mỏm cùng vai dẫn đến 
hiện tượng cọ xát của gân chóp xoay với mặt 
dưới mỏm cùng vai đặc biệt tại vị trí bám của 
dây chằng cùng quạ gây xơ hoá điểm bám dây 
chằng cùng quạ, viêm túi hoạt dịch khoang 
dưới mỏm cùng vai đây là nguyên nhân bên 
ngoài gây rách chóp xoay. Tiến hành can thiệp 
phẫu thuật ngoài yếu tố khâu lại gân chóp xoay 
đúng vị trí và đủ vững về mặt cơ học thì quá 
trình tạo hình khoang dưới mỏm cùng vai (làm 
rộng khoang) là một yếu tố then chốt để loại trừ 
nguyên nhân bên ngoài của bệnh, tránh sự tái 
phát của bệnh.
Việc sử dụng bao nhiêu neo khâu trong 
quá trình phẫu thuật phụ thuộc vào mức độ 
rách, do đó để tiện cho việc lượng hoá mức 
độ tổn thương một cách tương đối chúng tôi 
dùng bảng phân loại của tác giả Cofield R.H.9 
Dựa trên biểu đồ biểu thị mối liên quan giữa 
kích thước rách với số neo sử dụng cho thấy 
với những rách càng rộng thì đỏi hỏi số lượng 
neo để khâu gân càng tăng điều này sẽ đảm 
bảo cho gân khâu sẽ phục hồi hết về mặt giải 
phẫu vào diện bám và đảm bảo độ chắc, tránh 
nguy cơ gân căng gây nhổ neo sau buộc chỉ, 
tuy nhiên nếu các neo được sử dụng nhiều 
quá, sát nhau quá sẽ gây yếu xương tại vị trí 
quanh chân neo điều này có thể gây nguy cơ 
bung nhổ neo kèm xương tại diện bám. Do sử 
dụng mũi khâu Mason Allen cải tiến của hai 
tác giả Scheibel và Habermeyer2 nên khoảng 
cách giữa 2 đầu chỉ của mũi khâu nằm ngang 
sẽ cách nhau 10 mm t ... i soi khớp vai trước lúc bắt đầu 
thực hiện nghiên cứu này, cộng với ưu điểm về 
sự rút ngắn thời gian phẫu thuật ngắn của mũi 
khâu một hàng nói chung, tuy nhiên nếu xét về 
mức độ chuyên biệt thực hiện nội soi khớp vai 
chưa được như các tác giả nước ngoài.
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã theo dõi 
được 42 bệnh nhân với thời gian theo dõi trung 
bình 14,58 ± 3,52 tháng, trong đó ngắn nhất là 
5,6 tháng, dài nhất là 19,6 tháng cho đến thời 
điểm kết thúc nghiên cứu. Kết quả chúng tôi 
có điểm ASES trung bình trước mổ là 27,82 ± 
16,65, điểm ASES trung bình sau mổ là 95,48 
± 2,94. So sánh kết quả điểm ASES trung bình 
trước và sau mổ bằng phép kiểm t test với hai 
phương sai khác biệt chúng tôi có kết quả trước 
và sau mổ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
với p = 0,001.
Mặc dù chưa có nghiên cứu nào trong nước 
so sánh kết quả giữa điều trị bảo tồn và phẫu 
thuật nhưng nhóm bệnh nhân chúng tôi thường 
đã được điều trị nội khoa trước đó với thuốc 
kháng viêm giảm đau, đôi khi corticoide uống 
hoặc chích vào khớp vai. Hơn nữa đối với rách 
chóp xoay cho đến thời điểm hiện tại không 
có thuốc đặc hiệu cũng như không có phương 
pháp điều trị đặc hiệu riêng. Do vậy có thể xem 
như kết quả chức năng khớp vai so sánh trước 
và sau mổ là nhóm chứng tự thân. Và căn cứ 
vào kết quả trên chúng tôi nhận thấy việc phẫu 
thuật nội soi khâu chóp xoay mang lại kết quả 
tốt cho bệnh nhân bị rách chóp xoay.
Các tác giả nước ngoài như Gartsman, 
Ruotolo24,25 đã tiến hành so sánh kết quả điều 
trị bảo tồn và khâu chóp xoay cho thấy kết quả 
điều trị bảo tồn thường không tốt bằng việc 
phẫu thuật khâu chóp xoay dù là qua hình thức 
mổ mở, đường mổ nhỏ với sự trợ giúp nội soi 
hay nội soi khâu chóp xoay. Ngoài bảng thang 
điểm ASES chúng tôi sử dụng thêm thang điểm 
UCLA để đánh giá xếp loại chức năng khớp 
vai sau mổ. Kết quả có điểm UCLA trung bình 
sau mổ là 32,64 trong đó rất tốt 20 (47,6%), tốt 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
91TCNCYH 132 (8) - 2020
22 (52,4%), tổng cộng có 100% bệnh nhân từ 
tốt đến rất tốt. Tất cả bệnh nhân đều hài lòng 
với kết quả của phẫu thuật, không có trường 
hợp nào xấu. Như vậy phương pháp khâu chóp 
xoay qua nội soi của chúng tôi đánh giá chung 
đem lại kết quả ban đầu đều từ tốt đến rất tốt. 
Kết quả này cũng tương đối phù hợp với các 
tác giả nước ngoài khác.26 - 28
Chúng tôi chọn phân loại lành gân sau mổ 
theo hệ thống Sugaya do hệ thống này bao 
gồm không chỉ tính chất về cấu trúc mà còn 
cả cường độ tín hiệu bên trong chóp xoay. Hệ 
thống này đạt mức độ tin cậy cao giữa các bác 
sĩ chỉnh hình và bác sĩ chẩn đoán hình ảnh. Hệ 
thống phân loại của Sygaya có độ tin cậy tốt 
hơn hệ thống phân loại Goutallier (0,39 - 0,55) 
và hệ thống Warner (0,49 - 0,54) và có độ tin 
cậy rất tốt giữa phẫu thuật viên chỉnh hình và 
bác sĩ chẩn đoán hình ảnh.20,29 Đây cũng là hệ 
thống sử dụng nhiều nhất sau khi khâu chóp 
xoay, là hệ thống tin cậy nhất, đã được dùng 
trong 33 nghiên cứu.30 
Theo Saccomanno M.F và CS lành gân sau 
mổ chóp xoay là vấn đề nổi trội đặc biệt đối với 
các vết rách lớn và rất lớn.31 Vài nghiên cứu chỉ 
ra tương quan giữa kết quả lâm sàng với sự 
toàn vẹn của chóp xoay trên phim CHT sau mổ. 
Sự nguyên vẹn của chóp xoay là yếu tố quan 
trọng với kết quả của bệnh nhân như là chức 
năng tốt hơn và giảm đau tốt hơn.29,31
Chỉ có 15/42 (35,71%) bệnh nhân đồng ý 
chụp kiểm tra lại sau mổ bởi vì do chi phí chụp 
MRI tốn kém cộng thêm các bệnh nhân thấy kết 
quả sau mổ tốt lên chỉ một số bệnh nhân đồng ý 
chụp đánh giá lại. Theo bảng phân độ lành gân 
chóp xoay trên 15 bệnh nhân trong nghiên cứu 
này thig theo Sugaya: số bệnh nhân lành gân 
(độ I,II,III) chiếm đa số:14 bệnh nhân (93,3%). 
Số bệnh nhân không lành gân (độ IV, V) chỉ có 
1 bệnh nhân (6,7%).
Nghiên cứu chúng tôi có tỷ lệ không lành 
gân 6,7% (1/15 bệnh nhân) thấp hơn tác giả 
Cho N.S. và CS (2011): 33,3% (29/87%). Vấn 
đề đặt ra là tỷ lệ lành gân cao này là do trong 
nghiên cứu chúng tôi có cỡ mẫu bé, các bệnh 
nhân kích thước trước mổ rách bé và vừa 
chiếm tỷ lệ cao và . Trong khi đó, trong nghiên 
cứu của Cho N.S. và CS thì nhóm bệnh nhân 
nghiên cứu có đến 43,1% bệnh nhân trước mổ 
vết rách kích thước lớn và rất lớn. 
Một phần quan trọng nữa trong nữa là do 
chúng tôi sử dụng kỹ thuật tạo vi tổn thương 
kết hợp trong quá tình phẫu thuật đây là một 
phương án khả thi để thu được các tế bào gốc 
tủy xương trong quy trình lâm sàng20,32 - 34 và có 
thể là một yếu tố tích cực làm tăng tỷ lệ liền 
gân sau phẫu thuật. Tác giả Snyder và Burns8,19 
đã báo cáo đầu tiên về việc sử dụng kỹ thuật 
“đục lỗ xương” trong phẫu thuật nọi soi khâu 
chóp xoay. Tiếp đó, Jo cùng cs 32,33 báo cáo 2 
nghiên cứu liên tiếp về phương pháp tạo nhiều 
lỗ vào mấu động lớn để tạo ra nguồn tế bào tủy 
xương, cho thấy kết quả tỉ lệ đứt lại thấp hơn 
đáng kể so với kỹ thuật khâu hai hàng, tuy nhiên 
sự khác biệt về lâm sàng là không đáng kể. 
Gần đây, Milano cùng cs20 đã chia ngẫu nhiên 
80 bệnh nhân rách chóp xoay vào hai nhóm với 
cùng một kỹ thuật khâu chóp xoay nhưng điểm 
khác nhau giữa hai nhóm là có và không thực 
hiện kỹ thuật tạo vi tổn thương ở mấu động 
lớn. Mặc dù các tác giả không thấy có sự khác 
biệt nào giữa hai nhóm, tuy nhiên sau khi phân 
loại bệnh nhân theo kích thước tổn thương, họ 
thấy rằng nhóm tạo vi tổn thương cho kết quả 
liền gân rất tốt ở nhóm các bệnh nhân có tổn 
thương rách lớn chóp xoay.
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đánh giá bước đầu trên 42 
bệnh nhân được phẫu thuật điều trị rách chóp 
xoay bằng kỹ thuật nội soi khâu gân Mason 
Allen cải biên và kết hợp tạo vi tổn thương tại 
diện bám chóp xoay với thời gian theo dõi sau 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
92 TCNCYH 132 (8) - 2020
mổ trung bình 14,58 ± 3,52 tháng cho thấy kết 
quả khả thi trên nhóm bệnh nhân được tiến 
hành phẫu thuật. Tỷ lệ liền gân sau phẫu thuật 
cao, giảm thời gian phẫu thuật và số lượng neo 
chỉ sử dụng, điểm ASES sau mổ tăng cao so 
với trước mổ, 100% bệnh nhân đạt kết quả tốt 
và rất tốt theo bảng thang điểm UCLA, tất cả 
các bệnh nhân đều hài lòng với kết quả của 
phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. James D, McDermott, Jeffrey S, Abrams. 
Techniques in Arthroscopic Rotator Cuff Repair: 
Single - Row Repair: The Preferred Approach. 
Tech Should Elb Surg 2015;16:1 - 5.
2. Markus Thomas Scheibel , and Peter 
Habermeyer. Arthroscopy: The Journal of 
Arthroscopic and Related Surgery. A Modified 
Mason - Allen Technique for Rotator Cuff Repair 
Using Suture Anchors. 2003;Vol 19, No3:330 - 
333.
3. Meyer DC , Fucentese SF, Koller B, et al. 
Association of osteopenia of the humeral head 
with full - thickness rotator cuff tears. J Shoulder 
Elbow Surg 2010;13:333 - 337.
4. Melis B , DeFranco MJ, Chuinard C, Walch 
G. Natural history of fatty infiltration and atrophy 
of the supraspinatus muscle in rotator cuff tears. 
. Clin Orthop Relat Res. 2010;468:1498 - 1505.
5. Gulotta LV , Nho SJ, Dodson CC, 
Adler RS, Altchek DW,MacGillivray JD. HSS 
Arthroscopic Rotator Cuff Registry. Prospective 
evaluation of arthroscopic rotator cuff repairs at 
5 years: Part II - Prognostic factors for clinical 
and radiographic outcomes. J Shoulder Elbow 
Surg. 2011;20:941 - 946.
6. Snyder SJ , Burns J. Rotator cuff healing 
and the bone marrow “crimson duvet” from 
clinical observations to science. . Tech Shoulder 
Elbow Surg 2009;10:130 - 137.
7. Giuseppe Milano , , Maristella F. 
Saccomanno, Silvia Careri, Giuseppe Taccardo, 
Rocco De Vitis, and Carlo Fabbriciani. Efficacy of 
Marrow - Stimulating Technique in Arthroscopic 
Rotator Cuff Repair: A Prospective Randomized 
Study. Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic 
and Related Surgery. 2013;29:802 - 810.
8. Snyder SJ , Burns J. Rotator cuff healing 
and the bone marrow “crimson duvet” from 
clinical observations to science. . Tech Shoulder 
Elbow Surg. 2009;10:130 - 137.
9. Cofield RH. Subscapular muscle 
transposition for repair of chronic rotator cuff 
tears. . Surg Gynecol Obstet. 1982;154(5):667–
672.
10. Richards RR, An K - N, Bigliani LU, et 
al. A standardized method for the assessment 
of shoulder function. J Shoulder Elbow Surg. 
1994;3:347 - 352.
11. Alexandra Kirkley, Sharon Griffin, Katie 
Dainty. Scoring Systems for the Functional 
Assessment of the Shoulder. Arthroscopy: The 
Journal of Arthroscopic and Related Surgery. 
2003;19:1109 - 1120.
12. Hiroyuki Sugaya, Kazuhiko Maeda, 
Keisuke Matsuki, Joji Moriishi. Repair Integrity 
and Functional Outcome After Arthroscopic 
Double - Row Rotator Cuff Repair. The Journal 
of Bone & Joint Surgery. May 2007;89 - A:953 
- 960.
13. Johannes Barth, Elias Fotiadis, Sophie 
Genna Renaud Barthelemy, Mo Saffarini. 
Ultrasonic evaluation of the repair integrity can 
predict functional outcomes after arthroscopic 
double-row rotator cuff repair. Knee Surg Sports 
Traumatol Arthrosc. 2015;23:376–385.
14. Surena Namdari, Ryan P. Donegan, 
Nirvikar Dahiya, Leesa M. Galatz, Ken 
Yamaguchi, Jay D. Keener. Characteristics 
of small to medium - sized rotator cuff tears 
with and without disruption of the anterior 
supraspinatus tendon. J Shoulder Elbow Surg. 
2014;23:20 - 27.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
93TCNCYH 132 (8) - 2020
15. Nathan A. Mall, Andrew S. Lee, 
Jaskarndip Chahal, et al. An Evidenced - 
Based Examination of the Epidemiology and 
Outcomes of Traumatic Rotator Cuff Tears. 
Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and 
Related Surgery. 2012;29:366 - 376.
16. Neer et al. Anterior acromioplasty for the 
chronic impingement syndrome in the shoulder: 
a preliminary report. J Bone Joint Surg Am 
1972;54:41 - 50.
17. Morrison DS & April EW Bigliani LU. The 
morphology of the acromion and its relationship 
to rotator cuff tears. Orthop Trans 1986(10):228.
18. Burkhart S.S, Lo I.K.Y, Brady P.C, 
Ahrengart. A cowboy’s guide to advanced 
shoulder arthroscopy. Lippincott Williams 
&Wilkins Philadelphia2006.
19. Ahmad CS, Stewart AM, Izquierdo R, 
Bigliani LU. Tendon - bone interface motion in 
transosseous suture and suture anchor rotator 
cuff repair techniques. Am J Sports Med. 
2005;33(11):1667 - 1671.
20. Giuseppe Milano, Silvia Careri Maristella 
F. Saccomanno, Giuseppe Taccardo, Rocco De 
Vitis, Carlo Fabbriciani. Efficacy of Marrow - 
Stimulating Technique in Arthroscopic Rotator 
Cuff Repair: A Prospective Randomized Study. 
Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and 
Related Surgery. 2013;29:802 - 810.
21. Phan Đình Mừng. Nghiên cứu đặc điểm 
tổn thương kết quả phẫu thuật nội soi điều trị 
rách chóp xoay, Học Viện Quân y; 2020.
22. Tăng Hà Nam Anh. Kết quả điều trị rách 
chóp xoay qua nội soi [Luận án Tiến sỹ y học], 
Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh; 2014.
23. Jacquot A, Dezaly C, Goetzmann 
T, Roche O, Sirveaux F, Molé D. Is rotator 
cuffrepair appropriate in patients older than 60 
years of age? Prospective, randomised trial in 
103 patients with a mean four - year follow - up. 
Orthop Traumatol Surg Res. 2014;100(6):S333–
S338.
24. Garstman GM. Arthroscopic 
acromioplasty for lesions of the rotator cuff. J 
Bone Joint Surg Am. 1990;72:169 - 180.
25. Ruotolo C, Nottage W.M. Surgical and 
nonsurgical management of rotator cuff tears. 
Arthroscopy. 2002;18(5):527 - 531.
26. Park J.Y, Lhee S.H, Choi J.H, Park H.K, 
Yu J.W, Seo J.B. Comparison of the clinical 
outcomes of single - and double - row repairs 
in rotator cuff tears. The American Journal of 
Sports Medicine. 2008;36(7):1310 - 1316.
27. Ma HL, Chiang ER, Wu HT, et al. Clinical 
outcome and imaging of arthroscopic single 
- row and double - row rotator cuff repair: a 
pro - spective randomized trial. Arthroscopy. 
2012;28:16–24.
28. Mazzocca AD, Millett PJ, Guanche CA, 
et al. Arthroscopic single - row versus double 
- row suture anchor rotator cuff repair. . Am J 
Sports Med 2005;33:1861–1868.
29. Yoshida M. Post - operative rotator cuff 
integrity, based on Sugaya’s classification, 
can reflect abduction muscle strength of the 
shoulder. Knee Surgery Sport Traumatol 
Arthrosc. 2018;26(1):161–168.
30. Malavolta E.A. Serial structural MRI 
evaluation of arthroscopy rotator cuff repair: 
Does Sugaya’s classification correlate with the 
postoperative clinical outcomes? Arch Orthop 
Trauma Surg. 2016;136(6):791–797.
31. Maristella F. Saccomanno, Silvia Careri, 
Gianpiero Cazzato, Mario Fodale, Giuseppe 
Sircana, Giuseppe Milano. Magnetic resonance 
imaging criteria for the assessment of the 
rotator cuff after repair: a systematic review. 
Knee Surg Sports Traumatol Arthrosc. Jan 
2015;23(2):423–442.
32. Jo CH , Shin JS, Park IW, Kim H, Lee 
SY. Multiple channeling improves the structural 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
94 TCNCYH 132 (8) - 2020
integrity of rotator cuff repair. Am J Sports Med. 
2013;41:2650 - 2657.
33. Jo CH , Yoon KS, Lee JH, Kang SB, Lee 
JH, Han HS, Rhee SH,Shin JS. The effect of 
multiple channeling on the structural integrity 
of repaired rotator cuff. Knee Surg Sports 
Traumatol Arthrosc. 2011;19:2098 - 2107.
34. Song N , Armstrong AD, Li F, Ouyang H, 
Niyibizi C. Multipotent mesenchymal stem cells 
from human subacromial bursa: potential for 
cell based tendon tissue engineering. Tissue 
Eng 2014;Part A 20:239 - 249.
Summary
ARTHROSCOPIC ROTATOR CUFF REPAIR USING MODIFIED 
MASON-ALEN SUTURE TECHNIQUE 
Rotator cuff tear (RCT) is the most co mmon cause of shoulder pain, weakness and limited mobility 
of the shoulder. This tear cannot be healed without being repaired early, and the torn tendon becomes 
more extensive to the point that it cannot be fixed eventually. Several repair techniques have been 
introduced through arthroscopy. The objective of our study was to evaluate the initial results of rotator 
cuff tear treatment with the modified Mason-Allen technique combined with microfracture procedure at 
the attachment site. This prospective longitudinal clinical intervention study included 42 patients with 
rotator cuff tear at the Hanoi Medical University Hospital and Xanh Pon Hospital between January 9, 
2019 to March 6, 2020. The average preoperative ASES score was 27.82 ± 16.65. The average time 
of surgery was 83.33 ± 27.73 minutes. The average number of suture anchors used for each case was 
1.62 ± 0.66. The average number of microfracture lesions for each case was 4.73 ± 1.34. The average 
postoperative ASES score was 95.48 ± 2.94. The average posoperative UCLA score was 32.64 ± 1.50. 
MRI examination in 15 of 42 patients showed that the number of grade I integrity was 60.0%, grade 
II was 33.3%, respectively. All patients were satisfied with the results of surgery. As described above, 
arthroscopic rotator cuff repair using modified Mason-Allen technique combined with microfracture 
procedure at the attachment site showed very good results in the group of patients undergoing surgery.
Keywords: Rotator cuff tear, modified Mason-Allen technique, microfracture, shoulder 
arthroscopy

File đính kèm:

  • pdfdieu_tri_rach_chop_xoay_bang_ky_thuat_khau_gan_mason_allen_c.pdf