Điều trị phẫu thuật mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt
Bốn mươi sáu bệnh nhân với độ tuổi trung bình 31.5 (thay đổi từ 20-58 tuổi)
được chẩn đoán mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt cổ tay đã được điều trị
tại khoa Chi trên – BV Chấn thương Chỉnh hình từ tháng 1/2017 đến tháng 12/2018.
Phương pháp phẫu thuật: Nắn trật, xuyên đinh, tái tạo dây chằng thuyền nguyệt bằng
chỉ neo, khâu xuyên xương (khi có tổn thương dây chằng thuyền nguyệt), kết hợp xương
thuyền (khi có gãy xương thuyền). Bệnh nhân sau phẫu thuật được theo dõi đánh giá
theo những tiêu chuẩn sau: mức độ hài lòng của bệnh nhân, sự giảm đau cổ tay, biên độ
vận động cổ tay, sức cầm nắm và kết quả nắn sau mổ qua xquang. Thời gian theo dõi
trung bình là 10 tháng (thay đổi từ 6 -18 tháng). Tất cả bệnh nhân đều hài lòng hoặc rất
hài lòng với kết quả mổ. Về triệu chứng đau, có cải thiện rõ, sau mổ 43 ca không đau, 3
ca đau ít. Bệnh nhân có cung gập duỗi trung bình 1100 (thay đổi từ 800-1300), sức nắm
bàn tay tăng 30kg (thay đổi từ 17-45kg). Về Xquang không có trường hợp nào trật lại,
không có trường hợp nào không lành xương
Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị phẫu thuật mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 36 1 Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP. HCM Người phản hồi (Corresponding): Lê Ngọc Tấn ([email protected]) Ngày nhận bài: 12/7/2019, ngày phản biện: 28/7/2019 Ngày bài báo được đăng: 30/9/2019 ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT MẤT VỮNG CỔ TAY SAU TRẬT KHỚP QUANH NGUYỆT Lê Ngọc Tuấn1, Đỗ Phước Hùng1 TÓM TẮT Bốn mươi sáu bệnh nhân với độ tuổi trung bình 31.5 (thay đổi từ 20-58 tuổi) được chẩn đoán mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt cổ tay đã được điều trị tại khoa Chi trên – BV Chấn thương Chỉnh hình từ tháng 1/2017 đến tháng 12/2018. Phương pháp phẫu thuật: Nắn trật, xuyên đinh, tái tạo dây chằng thuyền nguyệt bằng chỉ neo, khâu xuyên xương (khi có tổn thương dây chằng thuyền nguyệt), kết hợp xương thuyền (khi có gãy xương thuyền). Bệnh nhân sau phẫu thuật được theo dõi đánh giá theo những tiêu chuẩn sau: mức độ hài lòng của bệnh nhân, sự giảm đau cổ tay, biên độ vận động cổ tay, sức cầm nắm và kết quả nắn sau mổ qua xquang. Thời gian theo dõi trung bình là 10 tháng (thay đổi từ 6 -18 tháng). Tất cả bệnh nhân đều hài lòng hoặc rất hài lòng với kết quả mổ. Về triệu chứng đau, có cải thiện rõ, sau mổ 43 ca không đau, 3 ca đau ít. Bệnh nhân có cung gập duỗi trung bình 1100 (thay đổi từ 800-1300), sức nắm bàn tay tăng 30kg (thay đổi từ 17-45kg). Về Xquang không có trường hợp nào trật lại, không có trường hợp nào không lành xương. SURGICAL TREATMENT UNSTABLE WRIST AFTER PERILUNATE DISLOCATIONS SUMMARY Forty six patients with an average age of 31.5 (range, 20-58 yrs old) diagnosed as wrist instability after pertilunate/transperilunate dislocation, underwent surgical treatment including joint reduction, Scapholunate ligament recontractions by suture anchor or transosseous suture (in case of rupture), scaphoid fixation (in case of fracture) at the Upper Limb Surgery Department of the Hospital For Traumatology CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 37 and Orthopaedics from Jan 2017 to Dec 2018. The patients have been evalutated by the following criteria: patients satisfaction, wrist motion, grip strength and radiographic results. The average length of follow-up was 10 months (range, 6-18 months). All the patients were satisfied with the postoperative results. Postoperative pain relief was achieved in 46 patients. They had an average flexion- extension arc of 1100 (range, 800- 1300) with an increasing grip strength of 30 kilos. Radiographs revealed no redislocation or scaphoid no-union. ĐẶT VẤN ĐỀ Mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt là loại tổn thương thường gặp nhất trong các tổn thương mất vững cổ tay. Mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt dễ bỏ sót, nếu chẩn đoán trễ hoặc điều trị không đúng sẽ có các biến chứng: không lành xương, khớp giả, hoại tử xương bán nguyệt, mất vững cổ tay và hư khớp về sau, ảnh hưởng đến chức năng vận động cổ tay và bàn tay. Mục tiêu nhằm đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng: Các bệnh nhân đến khám và điều trị tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình, thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 01/2017 đến tháng 12/2018. Tiêu chuẩn chọn lựa bệnh nhân: Bệnh nhân được chẩn đoán mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt với các dấu hiệu sau: + Lâm sàng: sưng, biến dạng khớp cổ tay, hạn chế vận động cổ tay, sức nắm bàn tay giảm, lỏng lẻo cổ tay, tê các ngón tay. + Xquang: 3 đường cung cổ tay dãn đoạn đứt khúc, xương nguyệt hình tam giác, dấu hiệu đổ tách trà ( trong tổn thương cung nhỏ-> trật xương nguyệt đơn thuần), hình ảnh gãy xương thuyền ( trong tổn thương cung lớn-> gãy một hoặc nhiều xương xung quanh xương nguyệt thường gặp nhất là gãy xương thuyền kèm trật khớp quanh nguyệt), trục quay-cổ tay-bàn tay bị biến dạng đứt khúc. Trên 18 tuổi, không hư khớp cổ tay. Thời gian chấn thương < 6 tuần: theo phân loại Larsen + Cấp tính: (<1 tuần) khả năng nắn được khớp và tiên lượng lành xương và dây chằng tốt. + Bán cấp: (1-6 tuần) khả năng nắn được khớp và tiên lượng lành xương và dây chằng ở mức trung bình. + Mãn tính: (>6 tuần) khó nắn được khớp và tiên lượng lành xương và dây chằng kém. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 38 2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tiền cứu mô tả dọc, thu thập số liệu, phân tích kết quả theo phần mềm SPSS 20.0. Lập hồ sơ bệnh án cho mỗi bệnh nhân. Tái khám bệnh nhân theo định kỳ. Đánh giá mức độ đau theo VAS( visual analog scale) Chèn ép thần kinh giữa: lâm sang, điện cơ EMG. Đo biên độ gập, duỗi, nghiêng trụ, nghiêng quay bằng thước đo góc. Đo sức nắm bàn tay bằng thước đo Jamar (Jamar dynamometer). Chụp X quang cổ tay. Đánh giá chủ quan của bệnh nhân: + khả năng phục hồi chức năng cổ tay ( sau mổ) trong sinh hoạt hằng ngày. + Khả năng làm nặng so với trước chấn thương, so với trước mổ theo đánh giá chủ quan của bệnh nhân. + Trở lại với công việc trước chấn thương, thay đổi nghề, hoạt động thể thao. + Mức độ hài long của bệnh nhân. Tổng hợp đánh giá theo thang điểm Mayo Clinic và Cooney. + Rất tốt: ≥ 90 điểm + Tốt: ≥ 80 điểm + Khá: ≥ 65 điểm + Xấu: < 65 điểm Phương pháp phẫu thuật và phục hồi chức năng: Bệnh nhân nằm ngửa, vai dạng 900, rạch da mặt lưng cổ tay vào khoang gân duỗi III-IV, cắt bao khớp sau vào khớp cổ tay. Nắn khớp cả- nguyệt trước, sau đó nắn khớp tháp – nguyệt và cố định khớp tháp nguyệt bằng 1 đinh ren 1.25 mm. + Nếu có tổn thương dây chằng thuyền nguyệt: khâu tái tạo dây chằng bằng chỉ bện không tan (Hifi), chỉ neo, nắn khớp thuyền-nguyệt và cố định bằng đinh 1.5mm. + Nếu có gãy xương thuyền: nắn kết hợp xương thuyền bằng vít rỗng, đinh ren 1.25mm, ghép xương xốp màu chậu nếu cần. + Nếu có gẫy xương thuyền và tổn thương dây chằng thuyền nguyệt: kết hợp xương thuyền bằng vít rỗng, khâu tái tạo dây chằng thuyền nguyệt bằng chỉ bện không tan, chỉ neo và cố định khớp thuyền nguyệt bằng 1 đinh 1.5mm. Vật lý trị liệu: tập vật lý trị liệu sớm sau mổ: Tập vận động chủ động sớm các ngón tay bàn tay và gồng cơ trong bột phòng tránh rối loạn dinh dưỡng, teo cơ, cứng khớp. Mang nẹp bột cẳng bàn tay ôm ngón I từ 6- 8 tuần để xương gãy và dây chằng cổ tay ổn định, sau đó bỏ nẹp, rút đinh cố định tháp- nguyệt, và tập vận động CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 39 cổ bàn tay có kháng lực, tăng biên độ vận động cổ tay và tăng sức mạnh cầm nắm bàn tay. Bệnh nhân trở lại công việc sau 8-12 tuần KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Trong 46 ca trong lô nghiên cứu (trong đó 38 ca có gãy xương thuyền, 8 ca đứt dây chằng thuyền nguyệt) phù hợp với y văn vì trong trật khớp quanh nguyệt thì tổn thương cung lớn (gãy một hoặc nhiều xương xung quanh xương nguyệt thường gặp nhất là gãy xương thuyền kèm trật khớp quanh nguyệt) là chủ yếu, tổn thương cung nhỏ ( tổn thương dây chằng dẫn đến trật xương nguyệt đơn thuần) ít gặp hơn. Tất cả đều hài lòng với kết quả điều trị, có 43 ca không đau cổ tay, 3 ca đau nhẹ, sau mổ bệnh nhân hết tê các ngón tay hoàn toàn. Vận động cổ tay: cung gập duỗi trung bình là 1100( thay đổi từ 800 – 1300) Biên độ cổ tay Tay tổn thương Tay lành Trước mổ Sau mổ Cung gập duỗi 320 1360 1550 Nghiêng quay-trụ 50 450 550 Tất cẳ bệnh nhân đều lấy lại được biên độ chức năng bàn tay sau mổ ( cung gập duỗi ≥ 800, nghiêng quay-trụ ≥ 400) Sức nắm bàn tay: tang 32kg (16- 40kg) Sức nắm bàn tay (kg lực) Tay tổn thương Trước mổ Sau mổ Nam 2.9 30.5 Nữ 2.6 25.5 Sức nắm bàn tay cải thiện lớn so với trước mổ Xquang: tất cả 38 ca gãy xương thuyền đều lành xương, không có ca nào bị thoái hóa khớp cổ tay, chưa thấy ca nào hoại tử xương bán nguyệt. Tuổi: từ 20 đến 58 tuổi (trung bình 31,5 tuổi), là lứa tuổi lao động. Giới: đa số là nam giới (40 nam/ 6 nữ). Tổn thương trật khớp quanh nguyệt cổ tay thường gặp ở bệnh nhân nam, trẻ tuổi: phù hợp với các y văn thế giới như Liang Kailu [15], Bhavuk Garg [6], John T. Capo [13]. Loại tổn thương: tổn thương cung lớn (gãy một hoặc nhiều xương xung quanh xương nguyệt thường gặp nhất là gãy xương thuyền kèm trật khớp quanh nguyệt ) chiếm đa số 38 ca(85,29%) so với 8 trường hợp tổn thương cung nhỏ TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 40 ( trật quanh nguyệt kèm đứt dây chằng thuyền nguyệt), tương đương với John T.Capo[13], Bhavuk Garg[6], cao hơn Kevin A. Hildebrand[14] Nguyên nhân chấn thương: thường gặp nhất là té chống bàn tay với cổ tay duỗi trong các trường hợp té xe (42 ca), chấn thương thể thao ( 15ca), té cao (11ca). Điều nay cho thấy tai nạn giao thông chiếm đa số khác với các tác giả ở nước ngoài thì tai nạn thể thao chiếm đa số như Victoria D. Knoll [16], Kevin A. Hildebrand [14]. Sức nắm bàn tay: + Trước mổ: sức nắm bàn tay gần như là 0-1kg. Các trường hợp trật quanh nguyệt đến sau 3 tuần, thường có sức nắm bàn tay cao hơn khoảng 8-15kg. + Sau mổ: sức nắm bàn tay tăng nhiều so với trước mổ, trung bình sức nắm bàn tay ở bệnh nhân nam là 31.5kg, nữ 25kg. Các trường hợp gãy xương thuyền trong trật quanh nguyệt đều lành xương, không có trường hợp nào khớp giả, thoái hóa khớp. Không có hình ảnh hoại tử xương bán nguyệt. Tổng hợp đánh giá theo thang điểm Mayo và Cooney: + Rất tốt: 37 trường hợp chiếm 80,43% + Tốt: 8 trường hợp chiếm 17,39% + Khá: 1 trường hợp chiếm 2,18% Mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt là tổn thương nặng vùng cổ tay, kết quả điều trị tùy thuộc rất nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là: chẩn đoán sớm, phương pháp điều trị đúng và thích hợp. Theo kết quả lô nghiên cứu; tất cả bệnh nhân đều hài lòng với kết quả mổ, không đau hoặc đau ít sau mổ, biên độ vận động và sức nắm bàn tay tăng rõ rệt nên tất cả bệnh nhân đều có thể trở lại cộng việc lao động trước đây. Phương pháp điều trị phẫu thuật mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt gồm nắn trật khớp, xuyên đinh cố định khớp, tái tạo dây chằng thuyền- nguyệt (khi có tổn thương dây chằng thuyền – nguyệt), kết hợp xương thuyền (khi có gãy xương thuyền) đã giúp phục hồi giải phẫu vùng cổ tay, phục hồi lại chức năng cổ tay và bàn tay, đạt kết quả cao, cổ tay không đau khi vận động, hết tê các ngón tay, biên độ vận động khớp cổ tay và sức cầm nắm của bàn tay cải thiện tốt. KẾT LUẬN Mất vững cổ tay sau trật khớp quanh nguyệt nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời ở giai đoạn cấp và bán cấp cho kết quả tốt. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Văn Đức (2010). “Trật quanh nguyệt”. Chấn thương Chỉnh hình chi trên, tập 2, tr. 541-558. 2. Ngô Trí Hùng (2008). “Các xương cổ tay”. Bài giảng giải phẫu học, Trường đại học Y Dược, tập 1, tr 40-41. 3. Nguyễn Quang Quyền (2008), CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 41 “ Các xương cổ tay”, Bài giảng giải phẫu học, nhà xuất bản y học, tập 1, tr.40-42. 4. Nguyễn Thúc Bội Châu (2002), “Điều trị gãy cũ xương thuyền bằng phương pháp phẫu thuật xuyên kim, ghép xương”. Luận văn chuyên khoa II, Trường Đại học Y Dược TP.HCM. 5. Huỳnh Thị Linh Thu (2010) “Kết quả điều trị trật cũ xương nguyệt và khớp quanh nguyệt bằng phẫu thuật lấy bỏ hàng trên xương cổ tay”. Luận văn chuyên khoa II, Trường Đại học Y Dược TP.HCM 6. Bhavuk Garg (2012). “Staged reduction of neglected transscaphoid perilunate fracture dislocation: A report of 16 cases”. J Of Orthopaedic Surgery and Research,7, pp19-25. 7. Bhavuk Garg (2013). “Triple jeopardy: transscaphoid, transcapitate, transtriquetral, perilunate fracture dislocation”. J Orthopaed Traumatol, 14, pp223-226. 8. Cooney WP (1987). “Difficult wrist fractures. Perilunate fracture dislocations of the wrist”. Clin Orthop Relat Res, 214, pp 136-147. 9. Dhillon MS (2011). “Functional outcome of perilunate dislocations treated with open reduction and internal fixation”. Indian J Orthop, 45 (5), pp 427-431. 10. Garcia-Elias M (2005). “Carpal Instabilities and Dislocations”. Green’s Operative Hand Surgery, 1, pp 871- 897. 11. Gilula LA (2011). Wrist carpal instability. The Radiology Assistant. h t tp : / /www.rad io logyass i s tan t .n l / en/42a29ec06b9e8 12. Herzberg G (1993). “Perilunate dislocation and fracture-dislocation: a multicenter study”. J Hand Surg [Am], 18, pp 768-779. 13. John T.Capo (2012). “Treatment of dorsal perilunate dislocations and fracture-dislocations using a standardized protocol”. Hand, 7, pp 380-387. 14. Kevin A. Hildebrand (2000). “Dorsal Perilunate Dislocations and Fractured-Dislocations: Questionaire, Clinical, and Radiographic Evaluation”. J Hand Surg [Am], 25 A, pp 1069-1079. 15. Liang Kailu (2010). “Chronic perilunate dislocations treated with open reduction and internal fixation: results of medium-term follow-up”. International Orthopaedics (SICOT), 34, pp 1315-1320. 16. Victoria D. Knoll (2005). “Trans- Scaphoid perilunate Fracture Dislocations: Results of Screw Fixation of the Scaphoid and Lunotriquetral Repair With a Dorsal Approach”. J Hand Surg [Am], 30 A, pp 1145.e1-1145e11.
File đính kèm:
dieu_tri_phau_thuat_mat_vung_co_tay_sau_trat_khop_quanh_nguy.pdf

