Điều trị phẫu thuật bệnh loạn sản sợi của xương ở chi dưới

Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu

Loạn sản sợi của xương (LSSCX) là một tổn thương lành tính, đặc trưng bởi mô

sợi thay thế mô xương bình thường. Hậu quả của bệnh làm cho xương yếu đi, khả

năng chịu lực cơ học kém, nhất là xương chi dưới, dẫn đến nguy cơ gãy bệnh lý

và biến dạng chi. Do vậy, việc điều trị bệnh có hiệu quả là một thách thức cho các

phẫu thuật viên chỉnh hình. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm phân tích các biểu

hiện lâm sàng của bệnh và đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật theo các phương

thức khác nhau.

pdf 9 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị phẫu thuật bệnh loạn sản sợi của xương ở chi dưới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị phẫu thuật bệnh loạn sản sợi của xương ở chi dưới

Điều trị phẫu thuật bệnh loạn sản sợi của xương ở chi dưới
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
169
Lê Văn Thọ1 
Diệp Thế Hòa2 
& cs
1Tiến sĩ, Bác sĩ Phó khoa 
Bệnh học Cơ-Xương-Khớp 
BVCTCH
 2Bác sĩ CK2, Trưởng khoa 
Bệnh học Cơ-Xương-Khớp 
BVCTCH
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT BỆNH LOẠN SẢN SỢI
CỦA XƯƠNG Ở CHI DƯỚI
THE SURGICAL MANAGEMENT OF FIBROUS 
DYSPLASIA OF BONE IN THE LOWER EXTREMITIES
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu
Loạn sản sợi của xương (LSSCX) là một tổn thương lành tính, đặc trưng bởi mô 
sợi thay thế mô xương bình thường. Hậu quả của bệnh làm cho xương yếu đi, khả 
năng chịu lực cơ học kém, nhất là xương chi dưới, dẫn đến nguy cơ gãy bệnh lý 
và biến dạng chi. Do vậy, việc điều trị bệnh có hiệu quả là một thách thức cho các 
phẫu thuật viên chỉnh hình. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm phân tích các biểu 
hiện lâm sàng của bệnh và đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật theo các phương 
thức khác nhau. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu 38 BN bệnh LSSCX ở chi dưới được phẫu thuật tại khoa 
Bệnh học Cơ- Xương- Khớp BVCTCH từ tháng 1/ 20013 đến 12/ 2015. Đánh giá 
kết quả điều trị dựa vào các khả năng (1) lành xương ghép; (2) lành xương sau 
gãy bệnh lý; (3) ngừa gãy bệnh lý; (4) chỉnh sửa biến dạng.
Kết quả
Với thời gian theo dõi trung bình 24,2 tháng, cho thấy: (1) Ghép xương có đóng 
góp vai trò trong điều trị, chủ yếu loạn sản sợi dạng thoái hóa bọc. Mặc dù lành 
xương ghép không hoàn toàn như bình thường, tổn thương LSS vẫn còn nhưng nó 
đã giúp gia tăng khả năng chịu lực cơ học của xương, hạn chế được nguy cơ gãy 
xương bệnh lý; (2) Kết hợp xương có vai trò rất quan trọng nhằm để phòng ngừa 
hoặc điều trị các gãy xương bệnh lý cũng như phòng ngừa hoặc chỉnh sửa các biến 
dạng. Kết quả cho thấy các trường hợp gãy xương bệnh lý đều lành xương, tác dụng 
phòng ngừa gãy bệnh lý cũng như khả năng chỉnh sửa biến dạng đều đạt kết quả tốt.
Kết luận
Mặc dù chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu, nhưng phẫu thuật đã mang lại kết 
quả rất hữu ích trong việc điều trị bệnh loạn sản sợi của xương ở chi dưới.
Từ khóa
Monostotic fibrous dysplasia: LSS thể 1 xương; polyostotic fibrous dysplasia: 
LSS thể nhiều xương; McCune- Albright Syndrome (MAS)
Le Van Tho 
Diep The Hoa 
et al
ABSTRACT
Introduction and objectives
Fibrous dysplasia of bone is a benign lesion, characterized by fibrous tissue replaces 
normal bone tissue. The consequences of the disease makes the bones weaker, 
mechanical bearing capacity is poor, especially the bones of the lower extremities, 
leading to risk of pathological fractures and deformed limbs. Therefore, effective 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
170
treatment is a challenge for the orthopaedic surgeon. The objective of this study 
was to analyze the clinical manifestations of the disease and evaluate the results 
of surgical treatment according to different methods.
Materials and methods of study
Retrospective study 38 patients with fibrous dysplasia of bone in the lower 
extremities has been done for 3 years from January 2013 to December 2015 at the 
Department of Orthopaedic diseases and Oncology, Hospital for Traumatology 
and Orthopaedics, Hochiminh City. Assessment of treatment outcomes based on 
the ability to (1) graft bone healing; (2) bone healing after pathological fractures; 
(3) preventing pathological fractures; (4) edit deformation.
Results
With a mean follow-up time of 24.2 months, showed that: (1) Bone grafting 
contributes role in the treatment, mainly cystic degenerative fibrous dysplasia. 
Although not completely healed bone graft as normal, fibrous dysplastic lesions 
but still it helped increase the ability of the bone mechanical strength, limiting 
the risk of pathological fractures; (2) Bone fixation plays a very important role in 
order to prevent or treat pathological fracture, as well as to prevent or modify the 
deformations. Results showed that these cases are pathological fracture healing 
of bone, fracture preventive effect as well as pathological deformation editing 
capabilities are achieved good results. Results showed that these pathological 
fracture cases are healing of bone, fracture preventive effect as well as pathological 
deformation editing capabilities are achieved good results.
Conclusion
Although there is no specific treatment, but surgery has brought results very useful 
in the treatment of fibrous dysplasia of bone in the lower extremities.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Loạn sản sợi của xương (LSSCX) là một tổn thương 
xương lành tính, tương đối hay gặp, do khiếm khuyết trong 
quá trình tạo xương và hóa khoáng của trung mô tạo xương 
cũng như trong sự duy trì mô xương xốp. Một hoặc nhiều 
vùng xương không trưởng thành bình thường và vẫn ở 
dạng bè xương non, hóa khoáng kém nằm rải rác trong mô 
sợi loạn sản. Hậu quả là bệnh có thể gây ra nhiều biểu hiện 
lâm sàng khác nhau như đau, gãy bệnh lý, biến dạng nặng 
và khả năng tái phát cao, đặc biệt là các tổn thương loạn 
sản sợi ở chi dưới do phải chịu tải trọng của cơ thể.
Cho đến hiện nay, vẫn chưa có phương pháp điều trị 
đặc hiệu cho bệnh LSSCX. Mục đích của phẫu thuật nhằm 
phòng ngừa hoặc chỉnh sửa các biến dạng, phòng ngừa 
hoặc điều trị gãy xương bệnh lý và lấy bỏ các tổn thương 
gây triệu chứng. Tuy nhiên, các hướng dẫn cụ thể điều trị 
chỉnh hình cho bệnh LSSCX ở chi dưới vẫn chưa được phổ 
biến, các phẫu thuật viên thường sẽ chọn lựa phương pháp 
phẫu thuật phù hợp cho từng trường hợp cụ thể tùy thuộc 
vào cấu trúc bệnh học cũng như vị trí của tổn thương.
Chính vì vậy, nghiên cứu điều trị phẫu thuật bệnh loạn 
sản sợi của xương ở chi dưới của chúng tôi được thực 
hiện nhằm 2 mục tiêu:
1. Phân tích các biểu hiện lâm sàng và hình ảnh y 
học của bệnh
2. Đánh giá kết quả điều trị và hiệu quả của 
phương pháp
ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.Đối tượng nghiên cứu
bao gồm 38 t.h bệnh loạn sản sợi của xương ở chi dưới 
được điều trị phẫu thuật tại khoa Bệnh học Cơ- Xương- 
Khớp Bệnh viện Chấn Thưong Chỉnh Hình TPHCM 
trong 3 năm, từ tháng 1/ 2013 đến tháng 12/ 2015.
2. Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu, báo cáo hàng loạt ca.
– ghi nhận các dữ kiện về lâm sàng, hình ảnh y học, 
giải phẫu bệnh, phương pháp điều trị và các biến 
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
171
chứng sớm trong quá trình điều trị từ hồ sơ lưu trữ.
– ghi nhận các biến cố xảy ra trong suốt quá trình điều 
trị và theo dõi bệnh nhân dựa vào sổ khám bệnh.
– mời tái khám tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu, 
đánh giá kết quả điều trị sau cùng về các khả năng: 
(1) lành xương ghép; (2) lành xương sau gãy bệnh 
lý; (3) ngừa gãy bệnh lý; (4) chỉnh sửa biến dạng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh y học
1. Tuổi, giới:
Tuổi trung bình tại thời điểm phẫu thuật trong lô 
nghiên cứu: 24,7 tuổi (nhỏ nhất 3 tuổi, lớn nhất 68 tuổi). 
Tuy nhiên, tuổi này không phản ánh đúng thực chất 
vì nhiều trường hợp bệnh nhân đã biết bệnh từ nhiều 
năm nhưng không đến khám, nhiều trường hợp có bệnh 
nhưng không có triệu chứng lâm sàng và bệnh nhân chỉ 
đến khám khi bị gãy bệnh lý...)
Giới: nam: nữ = 1: 2,2. Như vậy nữ thường mắc bệnh 
gấp đôi nam
2. Tần suất:
38 bệnh nhân LSSCX trong nghiên cứu bao gồm 2 
thể bệnh chủ yếu, trong đó:
– Thể 1 xương: chiếm đa số 29 t.h (76,3%), trong đó:
 + xương cánh chậu: 1 t.h
 + xương đùi: 16 t.h
 + xương cẳng chân: 12 t.h (11 t.h xương chày, 1 
t.h xương mác).
– Thể nhiều xương: 9 t.h (23,7%), trong đó 1 t.h được 
chẩn đoán là hội chứng Mc Cune- Albright (LSS thể 
nhiều xương kèm nhiều dát sắc tố da phẳng) xảy ra ở 
bé gái 9 tuổi.
3. Lý do vào viện:
đa số bn vào viện vì đau (22 t.h chiếm 57,9%); do 
gãy bệnh lý (12 t.h chiếm 31,6%); hoặc do biến dạng 
xương chày hình “lưỡi kiếm cong” (4 t.h chiếm 10,5%).
4. Hình ảnh tổn thương loạn sản sợi của xương trên Xquang:
– Đa số (31 t.h # 82%) tổn thương từ tủy xương, giới 
hạn rõ, phình mỏng vỏ xương, không phản ứng màng 
xương; 7 t.h còn lại (# 18%) tổn thương ở tủy kèm 
theo tổn thương vỏ xương.
– Đặc điểm đặc trưng với hình ảnh “kính mờ” đơn thuần 
có 23 t.h; hình ảnh “kính mờ” kèm thoái hóa bọc 11 
t.h; và hình ảnh thoái hóa bọc đơn thuần chỉ có 4 t.h.
– Vị trí tổn thương trên xương: trong 24 t.h tổn thương 
liên quan xương đùi có 16 t.h cổ- mấu chuyển xương 
đùi, 1 t.h thân xương đùi và 7 t.h cổ- mấu chuyển- 
thân xương đùi. Như vậy, cổ- mấu chuyển là vị trí 
thường gặp khi tổn thương ở xương đùi. Trong khi 
đó, tất cả 15 t.h tổn thương liên quan xương chày đều 
xảy ra ở thân xương.
– Biến dạng: biến dạng “gậy chân cừu” có 4 t.h/ 24 t.h 
tổn thương liên quan xương đùi, trong khi đó biến 
dạng “lưỡi kiếm cong” có 5 t.h/ 15 t.h tổn thương 
liên quan xương chày.
– Gãy bệnh lý: 12 t.h bao gồm gãy cổ xương đùi 3 t.h, 
gãy dưới mấu chuyển 4 t.h, gãy thân xương đùi 4 t.h 
và gãy thân xương chày 1 t.h
2. Kết quả điều trị phẫu thuật
1. Nhóm chỉ phẫu thuật sinh thiết và điều trị nội khoa:
6 t.h bao gồm 2 t.h thể nhiều xương, 4 t.h thể 1 xương 
(1 cánh chậu, 1 xương mác và 2 t.h cổ- mấu chuyển xương 
đùi ở bé 11 và 13 tuổi), hiện vẫn đang tiếp tục theo dõi.
Chỉ định điều trị này chỉ áp dụng cho các t.h biểu 
hiện lâm sàng nhẹ, bệnh nhân đau không đáng kể, nguy 
cơ gãy bệnh lý thấp hoặc bệnh nhân nhỏ tuổi có tổn 
thương gần vùng sụn tiếp hợp có thể phẫu thuật trì hoãn 
khi tuổi trưởng thành hơn.
2. Nhóm phẫu thuật cắt - nạo tổn thương+ ghép 
xương ± KHX:
đều là thể 1 xương, áp dụng cho các t.h tổn thương 
LSS dạng thoái hóa bọc. Xương ghép được sử dụng 
chủ yếu là xương mác tự thân kết hợp với xương đồng 
loại và vài trường hợp có thêm xương mào chậu tự thân 
(nếu khuyết hổng lớn). Trong nhóm này:
– Cắt-nạo tổn thương+ ghép xương: 6 t.h, bao gồm 2 t.h 
cổ- mấu chuyển xương đùi và 4 t.h thân xương chày. 
Chỉ định không KHX cho các trường hợp này do tổn 
thương có kích thước nhỏ, nguy cơ gãy bệnh lý thấp.
 Kết quả: tất cả đều có tín hiệu lành xương ghép 
không hoàn toàn, tổn thương dạng LSS vẫn còn, 
bệnh nhân hết đau và chức năng đi lại tốt.
– Cắt-nạo tổn thương+ ghép xương+ KHX: 8 t.h, bao 
gồm 6 t.h cổ- mấu chuyển xương đùi và 2 t.h thân 
xương chày. Chỉ định KHX cho các trường hợp này 
là để điều trị gãy bệnh lý (1 t.h) hoặc để ngừa gãy 
bệnh lý (7 t.h) do tổn thương kích thước lớn, nguy cơ 
gãy bệnh lý cao.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
172
3. Nhóm chỉ phẫu thuật KHX đơn thuần:
bao gồm 11 t.h thể 1 xương và 7 t.h thể nhiều xương. 
Nhóm này không có chỉ định cắt-nạo tổn thương và 
ghép xương do tổn thương của vùng xương bệnh “đặc”, 
toàn mô loạn sản sợi lan rộng, mặt cắt của mô bệnh trên 
đại thể mềm như cao su, màu trắng xám và bít hoàn toàn 
lòng tủy, trên XQ có dạng “kính mờ”. Các trường hợp 
tổn thương thể nhiều xương cũng không có chỉ định này.
Mục tiêu điều trị của nhóm này là phẫu thuật KHX 
nhằm phòng ngừa gãy bệnh lý, điều trị gãy bệnh lý (nếu 
có) hoặc chỉnh sửa các biến dạng do bệnh gây ra. 
Kết quả điều trị của 8 t.h có KHX của nhóm này như sau (bảng 1):
Vị trí tổn 
thương LSS
Dụng cụ KHX Hiệu quả KHX
Lành 
xương 
ghép
Tổn 
thương 
LSS
Chức 
năng
Cổ- mấu 
chuyển 
xương đùi
gãy bệnh lý: 1 
t.h
DHS
lành xương gãy 
tốt LÀNH 
KHÔNG 
HOÀN 
TOÀN
CÒN TỐT6 t.h
2 đinh γ; 1 DCS, 1 nẹp 
vít khóa, 1 bắt vis xốp
tác dụng ngừa 
gãy tốt
Thân xương 
chày 2 t.h
2 đinh nội tủy
tác dụng ngừa 
gãy tốt
Kết quả điều trị 18 t.h của nhóm này như sau (bảng 2)
Vị trí tổn thương Dụng cụ KHX
Hiệu quả 
KHX
Tổn thương 
LSS
Chức năng
Điều trị gãy 
bệnh lý: 11 t.h
cổ xương đùi: 2 t.h 1 bắt vít xốp, 1 PTH
tất cả đều 
lành xương 
gãy tốt tổn thương 
LSS còn, 
nhưng không 
tiến triển 
thêm
TỐT
dưới mấu chuyển 
xương đùi: 4 t.h
2 nẹp vít khóa, 2 
đinh γ
thân xương đùi: 4 t.h
3 nẹp vít khóa, 1 
đinh nội tủy
thân xương chày: 
1 t.h
1 đinh nội tủy
Ngừa gãy bệnh 
lý: 3 t.h
cổ- mấu chuyển 
xương đùi: 3 t.h
1 bắt vít xốp, 2 
đinh γ
tác dụng 
ngừa gãy tốt
Chỉnh sửa biến 
dạng: 4 t.h
cắt xương sửa trục 
xương chày (lưỡi 
kiếm cong): 4 t.h
1 nẹp vít khóa, 3 
đinh nội tủy
chỉnh sửa tốt 
biến dạng, 
lành xương 
tốt
Trường hợp 1: Bn nữ, 15t, LSS xương chày (P), biến dạng “hình lưỡi kiếm cong” tái phát sau mổ KHX nẹp vit 3 
năm: hình ảnh lâm sàng trước và trong mổ.
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
173
Phẫu thuật cắt xương sửa trục+ đóng đinh nội tủy có chốt xương chày Kết quả XQ sau mổ 1 năm khá tốt: 
trục xương chày được cải thiện, 
diễn tiến lành xương tốt
Kết quả lâm sàng được cải thiện đáng kể: trục cơ học đã được điều chỉnh, chức năng khá tốt
Trường hợp 2: Bn nữ, 9 tuổi, gãy bệnh lý dưới mấu chuyển xương đùi (T)/ hội chứng Mc Cune- Albright
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
174
BÀN LUẬN
1. Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh y học:
Theo kinh điển bệnh loạn sản sợi có 2 thể: một 
xương và nhiều xương (hội chứng McCune-Albright có 
thể được xem là một dạng của thể nhiều xương có kèm 
theo nhiều dát sắc tố da phẳng và rối loạn nội tiết), trong 
đó thể một xương là hay gặp hơn nhiều với tỉ lệ 8/1- 
10/1 tùy theo tác giả [1],[2],[6],[9],[10]. Tỉ lệ này trong 
nghiên cứu của chúng tôi đối với LSSCX ở chi dưới là 
3.3/1 Tuy nhiên trên thực tế, tỉ lệ này thường cao hơn do 
rất nhiều trường hợp tổn thương một xương không có 
triệu chứng nên không đến khám bệnh và không được 
phát hiện [3],[4],[5],[8].
Tuổi trung bình tại thời điểm phẫu thuật trong 
nghiên cứu là 24,7, tương đương với các tác giả khác 
[3],[10],[11]. Thực tế, tuổi khởi phát bệnh nhỏ hơn nhiều 
nhưng không được phát hiện. Bệnh nhân đến khám chủ 
yếu vì đau (57,9%), vì biến dạng chi (10,5%) và 31,6% 
(12/ 38 t.h) đến khám vì gãy bệnh lý. Nghiên cứu của Lê 
Chí Dũng [3] từ 80 t.h loạn sản sợi thể một xương cho 
thấy 69% gặp ở lứa tuổi 10- 30, trong khi chỉ 16% dưới 
10 tuổi và 15% trên 30 tuổi.
Về vị trí tổn thương trên xương: các xương hay bị 
theo y văn theo thứ tự là xương đùi, xương chày, xương 
chậu, sọ, hàm dưới, sườn, cánh tay và thay đổi tùy theo 
thể bệnh [1],[3],[7],[9], cũng phù hợp với nghiên cứu 
của chúng tôi đối với LSSCX ở chi dưới (24 t.h tổn 
thương liên quan xương đùi và 15 t.h tổn thương liên 
quan xương chày). Đặc biệt, đối với xương đùi thì cổ- 
mấu chuyển là vị trí thường gặp, trong khi tất cả các 
trường hợp ở xương chày đều xảy ra ở thân xương. Các 
biến dạng kinh điển như “gậy chân cừu” đầu trên xương 
đùi, “lưỡi kiếm cong” thân xương chày cũng hay gặp do 
các gãy xương vi thể, gãy xương “mệt” xảy ra nhiều đợt 
(4/24 t.h ở xương đùi và 5/15 t.h ở xương chày). Gãy 
bệnh lý sau một chấn thương nhẹ cũng là lý do bệnh 
nhân đến khám do chất lượng xương yếu, khả năng chịu 
Phẫu thuật KHX nẹp khóa: XQ sau mổ
Kết quả sau mổ 1 năm: xương gãy lành tốt, chức năng đi lại tốt
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
175
lực kém nhất là đối với chi dưới (12/38 t.h, trong đó 
gãy cổ xương đùi 3 t.h, gãy dưới mấu chuyển 4 t.h, gãy 
thân xương đùi 4 t.h và 1 t.h gãy thân xương chày trong 
nghiên cứu này).
2. Bản chất của bệnh loạn sản sợi của xương 
- sinh bệnh học
Theo Lê Chí Dũng [3], bệnh loạn sản sợi của xương 
là mô thừa dạng bướu do mô xương bị loạn sản sợi gây 
khiếm khuyết trong quá trình tạo xương và khoáng hóa. 
Mô xương sơ cấp không được khoáng hóa bình thường. 
Hậu quả là xương bị yếu dẫn đến biến dạng chi, gãy 
xương bệnh lý. Bệnh có tính chất bẩm sinh, xảy ra lẻ 
tẻ, do gien độc (oncogene) tính trội trên nhiễm sắc thể 
thường, chỉ biểu hiện kiểu hình ở một số tế bào dưới dạng 
“khảm” với tế bào bình thường. Bệnh làm gia tăng các 
đại bào hủy xương. Vì vậy, không có điều trị đặc hiệu đối 
với bệnh loạn sản sợi của xương[1],[2],[3],[4],[5],[6].
Theo Frederick Singer [8], nguyên nhân sâu xa của 
bệnh LSSCX cho đến hiện nay vẫn chưa hoàn toàn 
được hiểu rõ. Các nghiên cứu cho rằng tổn thương LSS 
gây ra bởi sự đột biến của gen, gọi là gen GNAS1. Đột 
biến này chỉ xảy ra trên một số tế bào sau khi đã thụ 
thai (somatic mutation), vì thế bệnh không di truyền từ 
cha mẹ. Gen GNAS1 tạo ra protein gọi là G-protein. 
Trong bệnh LSSCX, G-protein tăng sản quá mức, dẫn 
đến tăng sản quá mức phân tử cAMP (cyclic adenosine 
monophosphate), liên quan đến sự biệt hóa bất thường 
của các nguyên bào xương (osteoblast). Chính vì thế, 
quá trình chu chuyển xương liên quan đến các tạo cốt 
bào và hủy cốt bào của những bệnh nhân này sẽ bị 
thay đổi, trong đó chính sự biệt hóa bất thường của các 
nguyên bào xương do sự đột biến của gen GNAS1 sẽ 
góp phần gây ra bệnh LSSCX.
3. Kết quả điều trị phẫu thuật và hiệu quả 
của phương pháp
1. Nội khoa:
hóa trị không có kết quả. Tuy nhiên trong nhiều 
năm gần đây, nhiều tác giả sử dụng nhóm thuốc 
Biphosphonates có lẽ nhằm ức chế hoạt động của đại 
bào hủy xương, giúp giảm đau, cải thiện chu kỳ tạo 
xương mới và thay đổi hình ảnh XQ [3]. Nghiên cứu 
của Kushare IV [10], Stanton RP [11] có sử dụng 
biphosphonate cho một số bệnh nhân được lựa chọn 
cho thấy có hiệu quả giúp giảm đau, tuy nhiên không 
làm thay đổi tình trạng bệnh. Chúng tôi cũng đã sử dụng 
Alendronate (Fosamax) cho một số bệnh nhân trong 
nghiên cứu này, tuy nhiên việc sử dụng không thường 
xuyên và thời gian sử dụng còn ngắn nên chưa thể kết 
luận tính hiệu quả của nó.
2. Phẫu thuật:
Cho đến hiện nay, vẫn chưa có phương pháp điều trị 
đặc hiệu cho bệnh loạn sản sợi của xương. Mục đích của 
phẫu thuật là nhằm phòng ngừa hoặc sửa các biến dạng, 
phòng ngừa hoặc điều trị gãy xương bệnh lý và lấy bỏ 
các tổn thương gây triệu chứng.
♦ Vấn đề ghép xương và lành xương ghép
- Chúng tôi không chủ trương ghép xương cho các 
trường hợp loạn sản sợi thể nhiều xương và tổn thương 
có dạng “kính mờ” trên XQ. Chỉ định cắt-nạo mô bệnh 
và ghép xương chỉ áp dụng cho các trường hợp thể một 
xương có kích thước tổn thương không quá lớn và tổn 
thương có dạng thoái hóa bọc hoặc thoái hóa bọc kèm 
“kính mờ” được xác định bằng Xquang và CT Scan (nếu 
có). Xương ghép được sử dụng là xương mác tự thân kết 
hợp với xương đồng loại hoặc có thể thêm xương mào 
chậu tự thân (nếu khuyết hổng lớn). Kết quả của 14 t.h 
có ghép xương trong nghiên cứu này cho thấy mặc dù 
lành xương ghép không hoàn toàn như bình thường, tổn 
thương loạn sản sợi vẫn còn do quá trình tái tạo mẫu và 
khoáng hóa bị rối loạn, tuy nhiên nó vẫn giúp gia tăng 
khả năng chịu lực cơ học của xương, hạn chế được nguy 
cơ gãy xương bệnh lý. Nghiên cứu của Kushare IV [10] 
cũng cho thấy trong số 8/ 23 t.h có ghép xương cũng 
không có trường hợp nào giảm đi hoàn toàn tổn thương 
loạn sản sợi của xương trên XQ. Điều này cũng tương 
tự như nhận định của nhiều tác giả khác [5[,[8],[9],[11].
- Theo Lê Chí Dũng [3], ghép xương xốp tự thân 
liền xương nhanh nhưng trong quá trình tái tạo mẫu, 
xương ghép sẽ dần dần bị thay thế bởi mô xương mới là 
xương bị loạn sản nên tình trạng bệnh trở lại như trước 
khi chưa điều trị. Tái phát thường gặp ở trẻ em nhiều 
hơn người trưởng thành. Trong khi đó, ghép xương vỏ 
tự thân mang lại kết quả tốt hơn nên được ưa chuộng 
hơn, đặc biệt cho các tổn thương ở vùng chịu tải cao như 
cổ xương đùi, xương chày. Lý do vì trong quá trình tu 
sửa (tái tạo mẫu), chỉ có những đơn vị xương (osteon) 
(khoảng 50%) bị hấp thu và thay thế bởi mô xương mới 
bị loạn sản, 50% còn lại là các phiến xương kẻ vẫn tồn 
tại. Vì vậy khả năng chịu lực của xương bệnh được cải 
thiện, ngăn ngừa được gãy xương bệnh lý. Xương sử 
dụng thường là “đoạn xương mác” ghép vào nội tủy. 
Ngoài ra xương ghép vỏ đồng loại cũng được một số 
tác giả ưa chuộng, vì có 2 ưu điểm: (1) xương ghép tồn 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
176
tại lâu nhất; (2) cung cấp đủ xương ghép cho tổn thương 
lan rộng.
♦ Vấn đề kết hợp xương
Kết hợp xương có vai trò rất quan trọng trong phẫu 
thuật điều trị bệnh LSSCX nhằm mục đích phòng ngừa 
hoặc điều trị gãy xương bệnh lý cũng như phòng ngừa 
hoặc chỉnh sửa các biến dạng. Trong nghiên cứu này 
chúng tôi đã kết hợp xương cho 26/ 38 t.h bao gồm 12 
t.h do gãy xương bệnh lý, 10 t.h ngừa gãy bệnh lý và 4 
t.h chỉnh sửa biến dạng. Kết quả cho thấy các trường 
hợp gãy xương bệnh lý đều lành xương, tác dụng phòng 
ngừa gãy bệnh lý cũng như khả năng chỉnh sửa biến 
dạng đều đạt kết quả tốt (bảng 1; 2).
+ Đối với tổn thương xương đùi: có 19 t.h đã được 
KHX, trong đó đinh gamma 6 t.h, nẹp vít khóa 6 t.h, 
DHS 1 t.h, DCS 1 t.h, đinh nội tủy 1 t.h, bắt vit xốp 3 t.h 
và thay khớp nhân tạo 1 t.h.
- Các tổn thương ở vùng cổ- mấu chuyển và dưới 
mấu chuyển được ưu tiên chọn một trong các dụng cụ 
KHX như đinh gamma, nẹp vít khóa, DHS, DCS tùy 
theo vị trí và kích thước của tổn thương cũng như kiểu 
gãy bệnh lý. Trong nghiên cứu này chúng tôi ưa chuộng 
đinh gamma và nẹp vít khóa (12/19 t.h) vì nó có các 
đặc tính cố định khá vững chắc, ngăn ngừa nguy cơ biến 
dạng và làm giảm góc cổ- thân của xương đùi. Tuy nhiên 
đinh gamma trong một số trường hợp khó áp dụng nếu 
như tổn thương ở vùng cổ- mấu chuyển lan rộng xuống 
xương đùi làm cho vỏ xương mỏng, kênh tủy rộng và 
đinh gamma sẽ khó đưa vào và dễ nhô ra khỏi kênh, 
khi ấy nẹp vít khóa sẽ là một lựa chọn thay thế. Một số 
trường hợp (3 t.h) tổn thương ở vùng cổ xương đùi có 
kích thước nhỏ, nguy cơ gãy bệnh lý thấp được KHX 
bằng vít xốp để cố định.
- Ngoài ra, chúng tôi có 4 t.h biến dạng “gậy chân 
cừu” đã không được cắt xương sửa trục để chỉnh sửa góc 
cổ- thân xương đùi. Đây là một hạn chế của phẫu thuật 
trong nghiên cứu này và sẽ được cải tiến trong nghiên 
cứu về sau.
+ Đối với tổn thương xương chày: có 7 t.h đã được 
KHX, trong đó đinh nội tủy được sử dụng cho 3 t.h và 
nẹp vít khóa cho 1 t.h để phòng ngừa và điều trị gãy 
bệnh lý cũng như chỉnh sửa biến dạng “lưỡi kiếm cong” 
của xương chày. Kết quả của phẫu thuật đạt được đều 
tốt. Ý kiến của đa số các tác giả đều khuyên rằng nên 
dùng đinh nội tủy thay vì nẹp ốc để kết hợp xương ở 
xương chày để giúp tăng chịu lực dọc trục của xương 
[2],[4],[5],[6],[9],[10],[11]. Chúng tôi thống nhất với 
nhận định này, tuy nhiên những trẻ em còn nhỏ, việc sử 
dụng đinh nội tủy cần được cân nhắc vì có thể gây tổn 
thương sụn tiếp hợp. Những trường hợp này, đinh dẻo 
có thể được sử dụng nhưng không nên thương xuyên vì 
vai trò ngừa gãy và ngừa biến dạng không cao và nên 
thay thế bằng đinh nội tủy càng sớm càng tốt khi kích 
thước xương đùi cho phép.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, phân tích kết quả điều trị phẫu thuật 
38 BN loạn sản sợi của xương ở chi dưới từ tháng 1/ 
2013 đến 12/ 2015 tại BV.CTCH TPHCM, chúng tôi rút 
ra một số kết luận sau:
(1) Thể một xương hay gặp hơn thể nhiều xương 
(76,3% so với 23,7%). Tuổi trung bình tại thời điểm 
phẫu thuật 24,7 tuổi.
Đau, gãy bệnh lý và biến dạng xương là lý do chính 
BN vào viện.
Cổ- mấu chuyển là vị trí thường gặp ở xương đùi, 
trong khi xương chày thường xảy ra ở thân xương.
(2) Kết quả điều trị phẫu thuật và hiệu quả của 
phương pháp:
- Các trường hợp cắt-nạo tổn thương+ ghép xương: 
mặc dù lành xương ghép không hoàn toàn như bình 
thường, tổn thương loạn sản sợi vẫn còn nhưng nó đã 
giúp gia tăng khả năng chịu lực cơ học của xương, hạn 
chế được nguy cơ gãy xương bệnh lý. Ngoài ra, ghép 
xương vỏ tự thân cho kết quả tốt hơn ghép xương xốp.
- KHX có vai trò rất quan trọng nhằm để phòng ngừa 
hoặc điều trị các gãy xương bệnh lý cũng như phòng 
ngừa hoặc chỉnh sửa các biến dạng. Kết quả cho thấy 
các trường hợp gãy xương bệnh lý đều lành xương, tác 
dụng phòng ngừa gãy bệnh lý cũng như khả năng chỉnh 
sửa biến dạng đều đạt kết quả tốt.
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
177
1. LÊ CHI DŨNG (1999); “Loạn sản sợi của xương- lịch sử, 
bệnh nguyên, diễn tiến và điều trị”; Y học TPHCM; Đại học y 
dược TPHCM; tập 3; số 2; 83-89
2. LÊ CHI DŨNG (2003); “Loạn sản sợi của xương- nghiên cứu đối 
chiếu lâm sàng- Xquang- giải phẫu bệnh”; Y học TPHCM; Đại học 
y dược TPHCM; tập 7; Phụ bản của số 1; 41-45.
3. LÊ CHI DŨNG (2003); “Loạn sản sợi”; trong Bướu xương- 
lâm sàng- hình ảnh y học và giải phẫu bệnh; Nhà xuất bản y 
học- Chi nhánh TPHCM; 267-274.
4. AEGERTER E, KIRPATRICK JA (1975); “Fibrous dysplasia”; 
trong Orthopedic diseases; W.B. Saunders Co.; 4th ed; 167-174
5. DiCaprio MR, Enneking WF (2005). “Fibrous Dysplasia. 
Pathophysiology, Evaluation, and Treatment”; J Bone Joint 
Surg Am.; 87:1848-1864
6. DORFMAN HD, CZERNIAC B (1998); “Fibrous dysplasia”; 
trong Bone tumors; Mosby Inc; St Louis; 441-491
7. ENNEKING WF, BERREY BH et al (1998); “Fibrous 
dysplasia”; trong Clinical Musculoskeletal Pathology 
Semina; University of Florida Orthopaedic Association Inc. 
and Howmedica; 10-1 → 10-8.
8. Frederick Singer (2016). “Fibrous Dysplasia”; National 
Organization for Rare Disorders (NORD)
9. Ippolito E, Bray EW (2003). “Natural history and treatment 
of fibrous dysplasia of bone: a multicenter clinicopathologic 
study promoted by the European Pediatric Orthopaedic 
Society”; Journal of Pediatric Orthopaedics B; 12:155-177
10. Kushare IV, Dormans JP (2014). “Fibrous dysplasia of 
the proximal femur: surgical management options and 
outcomes”; J Child Orthop.; 8:505-511
11. Stanton RP, Ippolito E (2012). “The surgical management 
of fibrous dysplasia of bone”; Orphanet J Rare Dis.; 7:S1
Tài liệu tham khảo

File đính kèm:

  • pdfdieu_tri_phau_thuat_benh_loan_san_soi_cua_xuong_o_chi_duoi.pdf