Điều trị ngoại khoa phồng động mạch chủ bụng - Chậu sử dụng mạch nhân tạo tráng bạc tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm

sàng của phồng động mạch chủ (PĐMC) bụng -

chậu đã được phẫu thuật sử dụng mạch nhân tạo

tráng bạc (MNTTB) tại Bệnh viện Hữu nghị Việt

Đức (BVHNVĐ) và đánh giá kết quả sớm và trung

hạn của phẫu thuật.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên

cứu mô tả theo dõi dọc hồi cứu kết hợp tiến cứu

các bệnh nhân có sử dụng MNTTB tại Khoa Phẫu

thuật tim mạch - lồng ngực, BVHNVĐ từ 12/2010

đến 9/2014.

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị ngoại khoa phồng động mạch chủ bụng - Chậu sử dụng mạch nhân tạo tráng bạc tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị ngoại khoa phồng động mạch chủ bụng - Chậu sử dụng mạch nhân tạo tráng bạc tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức

Điều trị ngoại khoa phồng động mạch chủ bụng - Chậu sử dụng mạch nhân tạo tráng bạc tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.201636
Điều trị ngoại khoa phồng động mạch chủ bụng - 
chậu sử dụng mạch nhân tạo tráng bạc tại Bệnh 
viện Hữu nghị Việt Đức
Đoàn Quốc Hưng*, Lê Ánh Ngọc**, Phùng Duy Hồng Sơn*
Khoa Phẫu thuật tim mạch - lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức*
 Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng của phồng động mạch chủ (PĐMC) bụng - 
chậu đã được phẫu thuật sử dụng mạch nhân tạo 
tráng bạc (MNTTB) tại Bệnh viện Hữu nghị Việt 
Đức (BVHNVĐ) và đánh giá kết quả sớm và trung 
hạn của phẫu thuật.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên 
cứu mô tả theo dõi dọc hồi cứu kết hợp tiến cứu 
các bệnh nhân có sử dụng MNTTB tại Khoa Phẫu 
thuật tim mạch - lồng ngực, BVHNVĐ từ 12/2010 
đến 9/2014.
Kết quả: Có 41 bệnh nhân, tuổi trung bình 
63,4±11,6 tuổi, đa số là nam (88%). Triệu chứng 
thường gặp: đau bụng/lưng (82,9%); có khối ở 
bụng đập theo mạch (97,6%), hội chứng nhiễm 
trùng 63,4%, hội chứng thiếu máu: 36,6%, số bệnh 
nhân có tăng bạch cầu là 28, đa số khối phồng hình 
túi (68,3%), kích thước trung bình là 59,7 ± 16,7 
mm, có 16 bệnh nhân có kết quả cấy vi sinh dương 
tính (E.Choli, Citro bacter freundii, Salmonella). 
Đặc điểm phẫu thuật: mổ cấp cứu 26 (63,4%) bệnh 
nhân; cả 41 bệnh nhân được tái thông mạch máu tại 
chỗ: đoạn mạch thẳng 18(44%) và đoạn mạch chữ 
Y 23 (56%). Thời gian nằm viện trung bình 15,3±7 
ngày, tử vong sớm sau mổ 4 (9,8%) bệnh nhân, mổ 
lại 5 bệnh nhân. 37 bệnh nhân xuất viện, 2 bệnh 
nhân mất liên lạc. Thời gian theo dõi sau mổ trung 
bình: 23,57 ± 13,4 tháng, tử vong 1 bệnh nhân vì 
bệnh tim mạch (2,9%), 2 bệnh nhân nhiễm trùng 
vết mổ.
Kết luận: Sử dụng mạch nhân tạo tráng bạc 
trong phẫu thuật bệnh lý PĐMC bụng - chậu là an 
toàn, hiệu quả với tỷ lệ biến chứng và tử vong thấp. 
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phồng động mạch chủ bụng dưới thận chiếm 
90-95% trong số các PĐMC nói chung [1]. 
Nguyên nhân có tới 90% là do vữa xơ thành mạch, 
còn lại là do bẩm sinh, sau chấn thương, viêm 
nhiễm [2] PĐMC nhiễm trùng chiếm 22% 
PĐMC nói chung, được ghi nhận ở tất cả các lứa 
tuổi [3],[4]. Để xử lý các tổn thương mạch máu 
nhiễm trùng hoặc có nguy cơ nhiễm trùng, nhiễm 
trùng mạch nhân tạo, trên thế giới hiện nay đang 
áp dụng nhiều giải pháp, một trong số đó là sử 
dụng mạch nhân tạo tráng bạc (MNTTB). Tại 
BV Việt Đức, sử dụng MNTTB để điều trị những 
tổn thương mạch máu nhiễm trùng hoặc nguy cơ 
nhiễm trùng từ tháng 12/2010 [5],[6]. Một câu 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.2016 37
hỏi đặt ra: "Sử dụng MNTTB trong phẫu thuật 
có thực sự cải thiện tiên lượng của bệnh nhân 
PĐMCB dưới thận, phồng động mạch chậu nhiễm 
trùng hoặc nguy cơ nhiễm trùng?". Từ thực tiễn 
trên, chúng tôi thực hiện đề tài: "Kết quả trung hạn 
phẫu thuật PĐMC bụng - chậu sử dụng MNTTB 
tại BVHNVĐ" với hai mục tiêu: Mô tả đặc điểm 
lâm sàng, cận lâm sàng của PĐMC bụng - chậu đã 
phẫu thuật có sử dụng MNTTB tại BVHNVĐ và Đánh 
giá kết quả sớm và trung hạn của phẫu thuật này.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp mô tả có theo dõi dọc hồi cứu - 
tiến cứu. Các bệnh nhân được chẩn đoán PĐMCB 
dưới thận, phồng ĐM chậu đã phẫu thuật sử dụng 
MNTTB tại Khoa Phẫu thuật tim mạch - lồng ngực 
BVHNVĐ từ 12/2010 đến 9/2014.
Tiêu chuẩn lựa chọn
+ Các bệnh nhân được chẩn đoán PĐMCB 
dưới thận, PĐMCB-chậu hoặc phồng ĐM chậu 
được phẫu thuật thay đoạn ĐMC bụng dưới thận 
và hoặc ĐM chậu bằng MNTTB từ 12/2010 đến 
9/2014.
+ Hồ sơ bệnh án đầy đủ đáp ứng được các chỉ 
tiêu nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
+ BN chẩn đoán là PĐMCB dưới thận, phồng 
ĐMCB - chậu hoặc phồng ĐM chậu nhưng không 
phẫu thuật hoặc không dùng mạch nhân tạo tráng 
bạc.
+ Các bệnh nhân mổ lại do nhiễm trùng mạch 
nhân tạo không tráng bạc.
+ Hồ sơ bệnh án không đầy đủ. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ 12/2010 đến 9/2014 có 41 
BN đủ tiêu chuẩn nghiên cứu trong đó có 36 (88%) 
nam. Tuổi trung bình: 63,4 ± 11,6 tuổi, bệnh gặp 
chủ yếu ở người trên 50 tuổi (91,2%). Phần lớn BN 
được nhập viện từ 1 đến 2 tháng kể từ khi xuất hiện 
triệu chứng đầu tiên (61%). 6 bệnh nhân (14,9%) 
nhập viện sau 2 tháng kể từ khi xuất hiện triệu 
chứng đầu tiên, trong đó có 2 trường hợp đã được 
chẩn đoán trong 3 năm. Các triệu chứng lâm sàng 
thường gặp là: đau bụng/lưng: 82,9%, khối đập 
theo mạch: 97,6%, hội chứng nhiễm trùng: 63,4%, 
hội chứng thiếu máu 36,6%, suy thận 17,1%, Shock 
mất máu 7,3%.
Có 28 (68,3%) bệnh nhân có tăng bạch cầu, 17 
bệnh nhân tăng CRP trong tổng số 22 bệnh nhân 
được làm xét nghiệm CRP trước mổ.
Trên MSCT: 18 (43,9%) bệnh nhân có PĐMC 
bụng - chậu, 13 (31,7%) - PĐMC bụng dưới thận, 10 
(24,4%) - phình động mạch chậu gốc. Phồng hình túi 
28 (68,3%) trường hợp, hình thoi -13 (31,7%) trường 
hợp. Đường kính khối phồng trung bình: 59,7 ± 
16,7 (từ 40 đến 100 mm).
Có 26 (63,4%) BN được phẫu thuật cấp cứu,15 
(36,6%) BN phẫu thuật có kế hoạch. Trong 41 
trường hợp PĐMCB dưới thận và phồng ĐM 
chậu thì có 16 BN bị vỡ khối phồng. 18 (43,9%) 
trường hợp thành khối phồng có dịch đục nghi 
mủ, 41/41(100%) trường hợp có huyết khối bám 
quanh khối phồng. 1 bệnh nhân có ứ nước thận 
phải. Tổn thương phối hợp: 1 bệnh nhân bị ung thư 
dạ dày, 1 bệnh nhân bị viêm dính túi thừa Meckel. 
Không có trường hợp tử vong vì tai biến trong 
phẫu thuật. Có 2 (4,9%) bệnh nhân bị tai biến 
trong phẫu thuật: 1 trường hợp bị rách tĩnh mạch 
chủ dưới và đụng giập động mạch mạc treo hồi 
tràng, 1 bệnh nhân bị rách tĩnh mạch chậu phải.
Cả 41 bệnh nhân được mổ cắt bỏ khối phồng và 
những tổ chức hoại tử xung quanh. Tái thông mạch 
máu tại chỗ: đoạn mạch thẳng ở 18 (44%) bệnh 
nhân và đoạn mạch chữ Y ở 23(56%) bệnh nhân.
Tỷ lệ cấy máu dương tính không cao, nhưng 
nhìn vào biểu đồ ta thấy có nhiều loại vi khuẩn khác 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.201638
nhau (biểu đồ 1). Thời gian sử dụng kháng sinh 
trung bình trên 1 bệnh nhân 15,3 ± 7 ngày (từ 3 
đến 35 ngày). Trong đó có 26 (63,6%) bệnh nhân 
sử dụng 2 loại kháng sinh, 14 (34%) bệnh nhân - 3 
loại kháng sinh, 1 (2,4%) bệnh nhân - 1 kháng sinh.
14.6 % 
9.7 % 
4.9 % 4.9 % 2.4 % 2.4 % 
61 % 
Biểu đồ 1. Kết quả xét nghiệm vi sinh
Thời gian nằm viện trung bình là 15,3 ± 7 ngày 
(từ 3 đến 35 ngày). Tất cả 41 bệnh nhân sau mổ 
mạch nhân tạo thông tốt, không có huyết khối, 
không hẹp tắc miệng nối. Các biến chứng sau mổ 
trình bày bảng 1. Trong 4 bệnh nhân tử vong sau 
phẫu thuật trong đó có 3 bệnh nhân mổ lại, trường 
hợp không mổ lại là ở bệnh nhân có tiền sử: suy tim, 
suy thận, tăng huyết áp.
Bảng 1. Tỷ lệ biến chứng của phẫu thuật (n = 41)
Biến chứng n Tỷ lệ (%)
Hoại tử ruột và đại tràng 1 2,4
Tụ dịch sau phúc mạc 5 12, 2 
Thở máy kéo dài 3 7,3
Suy thận 6 14,6
Mổ lại 5 12,2
Tử vong 4 9,8
Có 37 bệnh nhân xuất viện và hẹn tái khám 
định kì: khám lâm sàng và siêu âm, tuy nhiên có 2 
bệnh nhân mất liên lạc tại thời điểm hiện tại. Thời 
gian theo dõi sau mổ trung bình: 23,57 ± 13,4 
tháng, thời gian theo dõi ngắn nhất là 3 tháng, lâu 
nhất là 45 tháng. Có 1/35 (2,9%) trường hợp tử 
vong trong thời gian theo dõi, 2 trường hợp nhiễm 
trùng vết mổ, 3 bệnh nhân có biểu hiện thiếu máu 
chi dưới mãn tính.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này tuổi trung bình BN là: 
63,4 ± 11,6 tuổi thấp hơn so với số liệu của Đoàn 
Quốc Hưng (67,3), Văn Tần (69), Lê Sỹ Sâm 
(67,7) [2],[3] [12]. Điều này hợp lý do nguyên 
nhân là bệnh lý nhiễm trùng. Nam giới chiếm tỷ lệ 
ưu thế với 36/41 (88%) bệnh nhân. Tỉ lệ này tương 
đương với kết quả của các tác giả trong và ngoài 
nước [3],[7],[11],[13]. Có 9 (22%) bệnh nhân có 
các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng trước phẫu thuật: 1 
BN nhiễm khuẩn huyết, 2 BN bệnh gút, 2 BN can 
thiệp mạch, 2 BN viêm đường mật và 2 BN sỏi niệu 
quản.
61% bệnh nhân nhập viện muộn. Điều này giải 
thích do bệnh nhân không khám sức khỏe định kỳ 
và năng lực các tuyến y tế chưa đồng đều nên phát 
hiện bệnh và chỉ định can thiệp chưa kịp thời. 
Có 26 (63,4%) bệnh nhân biểu hiện hội chứng 
nhiễm trùng, trước mổ có 28/41 (68,3%) bệnh 
nhân có số lượng bạch cầu tăng, 17/22BN có 
CRP tăng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ phân lập 
được vi khuẩn không nhiều 16/41 (39%), nhưng 
cũng cho thấy xuất hiện đa dạng các loại vi khuẩn 
định danh được là: 6 BN (+) E.coli (14,6%), 4 BN 
(+) Citrobacter freundii (9,7%), 2 BN (+) Salmonella 
(4,9%), 2 BN (+) P.aeruginosa (4,9%), 1 BN (+) 
Streptococcus spp (+) (2,4%), 1 BN (+) Bacilles 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.2016 39
(-) (2,4%). Có thể do sự hạn chế của môi trường 
nuôi cấy, quy trình lấy bệnh phẩm và việc sử dụng 
kháng sinh nên tỷ lệ cấy vi khuẩn dương tính chiếm 
tỷ lệ không cao. Mặt khác tất cả các BN vào viện có 
dấu hiệu nhiễm trùng hoặc có nguy cơ nhiễm trùng 
nên được sử dụng kháng sinh phổ rộng và thời gian 
sử dụng kháng sinh dài.
26 (63,6%) bệnh nhân được sử dụng 2 loại 
kháng sinh, 14 (34%) bệnh nhân -3 loại kháng sinh 
cho tới khi ra viện. Theo kinh nghiệm của chúng tôi 
thì lúc đầu thường phối hợp Cephalosporin thế hệ 
3 và Metronidazone, sau khi có kết quả kháng sinh 
đồ thì tiếp tục điều trị theo kết quả kháng sinh đồ.
26 (63,4%) bệnh nhân mổ cấp cứu, trong đó 15 
bệnh nhân bị vỡ khối phồng, 1 bệnh nhân nhiễm 
trùng khối máu tụ do vỡ sau phúc mạc tạo thành ổ 
áp xe, 10 bệnh nhân dọa vỡ khối. Tuy nhiên chỉ 3 
(7,3%) trường hợp đến trong tình trạng sốc vì khối 
phồng vỡ vào ổ bụng còn lại đa số vỡ ra sau phúc 
mạc nên tình trạng huyết động còn ổn định.
Tỷ lệ vỡ PĐMCB dưới thận tương tự với kết quả 
của các tác giả trong nước [2],[10] nhưng cao hơn 
hẳn so với các tác giả nước ngoài: Abdelazim.T.A 
(20%), Muller (24%) [8],[9]. Nguyên nhân là do 
phát hiện bệnh và điều trị chưa kịp thời.
Có 2 trường hợp có tổn thương phối hợp: 1 
trường hợp khối phồng ở động mạch chậu gốc 
phải chèn ép vào niệu quản gây ứ nước thận phải. 
Trong mổ phải giải phóng niệu quản và đặt sonde 
bể thận - bàng quang. 1 bệnh nhân bị viêm dính 
túi thừa Meckel ở hồi tràng, đã được cắt đoạn hồi 
tràng nối tận - tận.
Có 2/41 (4,9%) bệnh nhân bị tai biến trong 
mổ: 1 rách tĩnh mạch chậu gốc phải, 1 rách tĩnh 
mạch chủ bụng và đụng giập ĐM mạc treo hồi 
tràng; không có trường hợp nào tử vong vì tai 
biến trong mổ. Theo Đinh Xuân Huy khi nghiên 
cứu 85 bệnh nhân mổ PĐMC bụng dưới thận 
thì có 3/85 (3,5%) trường hợp bị tai biến trong 
mổ, không có trường hợp nào tử vong vì tai biến 
trong mổ [7].
Thăm khám sau phẫu thuật có 36 bệnh nhân 
có kết quả tốt: mạch nhân tạo lưu thông tốt, 
không có huyết khối, không hẹp tắc miệng nối, 
phổ doppler bình thường, 5 BN có tụ dịch sau 
phúc mạc, 1 trường hợp điều trị nội khoa và kết quả 
là BN không phải mổ lại. 4 trường hợp còn lại phải 
mổ lại lấy máu tụ.
Có 3 (7,3%) BN có thời gian thở máy kéo dài 
hơn 48 giờ, 1 trường hợp tử vong sớm sau mổ, 2 BN 
được rút ống nội khí quản sau đó. Theo tác giả Văn 
Tần có 6,4% suy hô hấp sau mổ phải thở kéo dài 
hơn 48 giờ, số trường hợp tử vong do suy hô hấp 
chiếm 1,3% tổng số tử vong nói chung [3].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 9,8% tử 
vong với 4 trường hợp:
 - Một trường hợp mổ lại làm sạch và dẫn lưu 
khoang sau phúc mạc, bệnh nhân suy kiệt, tử vong 
trong bệnh cảnh nhiễm trùng suy đa tạng.
 - Một trường hợp hoại tử ruột nghĩ đến tắc động 
mạch mạc treo do lóc ĐM chủ vì động tác kẹp 
clamp ĐM chủ.
 - Một bệnh nhân mổ lại làm sạch ổ áp xe, dẫn 
lưu sau phúc mạc và dẫn lưu ổ bụng, thắt mạch 
nhân tạo và bắc cầu nách - đùi 2 bên. Tử vong do 
bục miệng nối phía trên ĐMC với mạch nhân tạo.
 - Một BN già yếu, suy kiệt shock nhiễm trùng, 
suy đa tạng và tử vong.
Như vậy cả 4 bệnh nhân tử vong sớm sau phẫu 
thuật đều bị vỡ khối phồng chiếm tỷ lệ 25% tổng số 
bệnh nhân bị vỡ khối phồng. Tỷ lệ tử vong ở nhóm 
bệnh nhân có vỡ khối phồng cao hơn nhóm không 
vỡ khối phồng có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Tỷ lệ tử vong ở nhóm mổ cấp cứu là 11,5%, tỷ lệ 
này ở nhóm mổ kế hoạch là 6,7%. Mổ cấp cứu làm 
tăng nguy cơ tử vong so với mổ có kế hoạch lên gần 
2 lần. Tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống 
kê với p > 0,05.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.201640
Bảng 2. Tỉ lệ tử vong sớm trong nghiên cứu của tác giả nước ngoài
Ghép mạch Tác giả Năm Số lượng Tỷ lệ (%)
Mạch nhân tạo không tráng bạc Hayes [10] 1999 2/11 18%
Mạch nhân tạo tráng bạc
Batt M [4] 2003 4/27 15%
Szeberin Z [13] 2010 3/37 8%
Muller BT [9] 2010 12/33 36%
M. Ferrari [11] 2010 39/1424 2,7%
Trong 4 năm (từ 12/2010 đến tháng 9/2014) 
có 41 bệnh nhân PĐMCB - chậu đã được điều trị 
phẫu thuật ghép mạch tại chỗ bằng mạch nhân 
tạo Silver Graft. Có 35 bệnh nhân xuất viện và hẹn 
tái khám định kì và theo dõi được thời điểm hiện 
tại. Thời gian theo dõi sau mổ trung bình: 23,57 ± 
13,4 tháng (từ 3 - 45 tháng). Số lượng bệnh nhân 
tái khám định kì sau mổ giảm dần theo thời gian. 
Tại thời điểm sau mổ 1 tháng thì có 32 bệnh nhân 
khám lại, tuy nhiên sau 24 tháng thì chỉ còn 5 bệnh 
nhân khám lại sau mổ. 
Có 1 (2,9%) trường hợp tử vong trong 35 bệnh 
nhân theo dõi được. Bệnh nhân này tử vong sau mổ 
24 tháng vì bệnh lý tim mạch, 2 trường hợp nhiễm 
trùng vết mổ nhẹ đã được điều trị nội khoa ổn định. 
Có 3 bệnh nhân có biểu hiện thiếu máu chi dưới 
mãn tính giai đoạn 2 do tắc động mạch khoeo. Cả 
3 bệnh nhân này điều được khám và điều trị thuốc. 
Kết quả theo dõi bệnh nhân bước đầu của chúng tôi 
là khả quan, tỷ lệ tử vong là: 2,9%; không có trường 
hợp nào là tắc mạch nhân tạo. Theo Szeberin Z thay 
mạch nhân tạo tráng bạc cho 37 bệnh nhân, biến 
chứng tắc mạch nhân tạo muộn là 2 bệnh nhân, tỷ 
lệ tử vong muộn 11 bệnh nhân (38%) [13].
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 41 bệnh nhân PĐMCB - ĐM 
chậu đã được điều trị phẫu thuật ghép mạch tại chỗ 
bằng mạch nhân tạo Silver Graft, chúng tôi nhận 
thấy sử dụng mạch nhân tạo tráng bạc trong phẫu 
thuật bệnh lý PĐMCB - chậu là an toàn, hiệu quả 
với tỷ lệ biến chứng và tử vong thấp. Vì vậy mạch 
nhân tạo tráng bạc nên được sử dụng phổ biến 
trong phẫu thuật mạch máu nói chung, đặc biệt là 
bệnh lý mạch máu nhiễm trùng hoặc có nguy cơ 
nhiễm trùng.
SUMMARY
Results of treatment of abdominal aortic and/or iliac aneurysm usingsilver graft at Vietduc university 
hospital
Doan Quoc Hung*, Le Anh Ngoc**, Phung Duy Hong Son*
Department of CarVasc and Thor surgery, Vietduc hospital*
Thaibinh province hospital**
Purpose: Decrible clinical and paraclinical characteristics of patient with abdominal aortic and/or iliac 
aneurysm, undergont treatment at Vietduc university hospital by silver graft. Analize early and mid-term results.
Patients and method: Descriptive retrospective and prospective study included patients, undergont 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.2016 41
replacerment of abdominal aortic and/or iliac aneurysm by silver graft in derpartmentfor cardiovascular 
and thoracic surgery, Vietduc university hospital from 12/2010 to 9/2014.
Results: There were 41 patients. Mean age was 63,4±11,6 y.o. Man was 88%. Common sigs and symptoms 
were: pain in the abdomen/back 82,9%; breating mass 97,6%, infective symptom 63,4%, anemia 36,6%, 
leukocytosis 28%, saction form of aneurysm 68,3%, mean diametre of aneurysm 59,7 ±16,7 mm, 16 patients 
had positive bacterial test. Surgical characteristics: emergency surgery 26(63,4%); 41 patients had 
direct revascurisation: linear prothesis 18(44%) and Yprosthesis23(56%). Meanhospital stay: 15,3±7 days, 
early mortality 4(9,8%), reoperation 5patients. 37 patients discharged hospital, lost contact with 2 patients. 
Mean follow up time was 23,57±13,4 months, late mortality 1(2,9%), 2 patients had wound infection.
Conclusion: The use of silver graft forabdominal aortic and/or iliac aneurysm is safe, effective with low 
risk of complications and mortality. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Hanh Đệ và CS (2001). Phồng động mạch chủ bụng vỡ, Phẫu thuật cấp cứu tim mạch và lồng ngực, 
NXB Y học, 177 - 188.
2. Đoàn Quốc Hưng, Đặng Hanh Đệ (2009). Nhận xét điều trị vỡ PĐMCB tại BV Việt Đức. Tạp chí Tim 
mạch học Việt Nam, 51:36 - 48.
3. Văn Tần và CS (2010). Tiến bộ trong điều trị phồng động mạch chủ bụng, Tạp chí Y học Việt Nam 375, 311.
4. Michel Batt, J.L. M., Pierre Alric (2003). In situ revascularization with silver-coated polyester grafts to 
treat aortic infection:Early and midterm results, J VASCULAR SURGERY. 38, 983-989.
5. Đoàn Quốc Hưng, Nguyễn Duy Thắng (2012). Mạch nhân tạo tráng bạc trong bệnh lý mạch máu nhiễm 
trùng tại BV Việt Đức. Tạp chí Y học Việt Nam 390: 21-25.
6. Đoàn Quốc Hưng, Phạm Gia Dự, Nguyễn Duy Thắng (2014). Đánh giá kết quả phẫu thuật ĐMC có sử 
dụng mạch nhân tạo tráng bạc Silver Graft. Tạp chí Tim mạch học, 67:24-3.
7. Đinh Xuân Huy (2002). Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật phồng động mạch chủ bụng dưới thận tại 
Bệnh viện Việt Đức. Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội.
8. AbdelAzim, T. A. (2005). Infected Aortic Aneurysms, Acta chir belg. 105, 482-486.
9. Muller BT, W. O., Grabitz K, et al (2001). Mycotic aneurysms of the thoracic and abdominal aorta and 
iliac arteries: experience with anatomic and extra-anatomic repair in 33 cases, J Vasc Surg,33, 106-119.
10. Hayes PD, N. A., London NJ, et al (1999). In situ replacement of infected aortic grafts with 
rifampicin- bonded prostheses: the Leicester experience (1992 to 1998), J Vasc Surg, 30, 92-100.
11. M. Ferrari, B. Crescenzi, S. Ceragioli, et al (2010). Prophylactic Use of Silver - acetate - coated Polyester 
Dacron Graft in Aortic Disease for Prevention of Graft Infection. Thoraco - Abdominal Aorta Surgical 
Anesthetic Management, 737-747.
12. Lê Sỹ Sâm (2001). Một số nhận xét về bệnh phồng động mạch chủ tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ 
1995-1999, Tạp chí Y học TP.HCM,5, 228.
13. Münch Z Szeberin Z, F. M. (2010). Midterm results of silver-coated Dacron graft implantation in aortic 
and lower extremity revascularization, Magy Seb, 369 - 442.

File đính kèm:

  • pdfdieu_tri_ngoai_khoa_phong_dong_mach_chu_bung_chau_su_dung_ma.pdf