Điều trị ít xâm lấn các bệnh lý mạch máu xu hướng tất yếu
Hiện nay, bệnh lý mạch máu (bệnh lý động mạch ngoại biên, động mạch chủ, tĩnh mạch ) ngày càng được phát hiện nhiều hơn do sự phát triển của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh cộng với tuổi thọ ngày càng tăng của dân số. Điều trị bệnh lý mạch máu hiện nay đang chuyển dần từ mổ mở sang can thiệp nội mạch ít xâm lấn tại các trung tâm mạch máu trên thế giới và Việt Nam. Chúng tôi khái quát lại các tiến bộ trong điều trị ít xâm lấn các bệnh lý mạch mạch và phân tích sự thay đổi tất yếu trên thế giới và tại Việt nam
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị ít xâm lấn các bệnh lý mạch máu xu hướng tất yếu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị ít xâm lấn các bệnh lý mạch máu xu hướng tất yếu

ĐIỀU TRỊ ÍT XÂM LẤN CÁC BỆNH LÝ MẠCH MÁU XU HƯỚNG TẤT YẾU 43 ĐIỀU TRỊ ÍT XÂM LẤN CÁC BỆNH LÝ MẠCH MÁU XU HƯỚNG TẤT YẾU Phạm Minh Ánh*, Phan Duy Kiên* TÓM TẮT Hiện nay, bệnh lý mạch máu (bệnh lý động mạch ngoại biên, động mạch chủ, tĩnh mạch) ngày càng được phát hiện nhiều hơn do sự phát triển của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh cộng với tuổi thọ ngày càng tăng của dân số. Điều trị bệnh lý mạch máu hiện nay đang chuyển dần từ mổ mở sang can thiệp nội mạch ít xâm lấn tại các trung tâm mạch máu trên thế giới và Việt Nam. Chúng tôi khái quát lại các tiến bộ trong điều trị ít xâm lấn các bệnh lý mạch mạch và phân tích sự thay đổi tất yếu trên thế giới và tại Việt nam. SUMMARY NECESSARY TREND OF MINIMAL INVASIVE TREATMENT OF VASCULAR DISEASES Patients with vascular disease (peripheral arterial, aortic, venous disease) are more detected nowadays due to modern imaging modalites and older population. There is a shift from open surgery to minimal invasive treatment in worldwide vascular centers and Vietnam. We review current progresses and neccesary trends of endovascular treatment in the world and Vietnam. I. TÓM TẮT LỊCH SỬ PHẪU THUẬT MẠCH MÁU 50 năm gần đây được xem là thời kỳ phát triển của ngành phẫu thuật mạch máu trên thế giới. Để đạt được thành tựu đó, ngành phẫu thuật mạch máu đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Lịch sử của phẫu thuật mạch máu được chia làm 2 giai đoạn chính là thời kỳ thắt mạch và thời kỳ phẫu thuật tái tạo phục hồi lưu thông mạch máu. Từ thời kỳ đế quốc La Mã, thời kỳ Phục Hưng tới giữa thế kỷ XX, phẫu thuật thắt mạch máu vẫn là phẫu thuật chính, cơ bản trong xử trí vết thương mạch máu. Từ thời kỳ Hippocrate, người ta đã tiến hành thắt buộc các mạch máu và cắt cụt để điều trị tại vị trí mà các mạch máu bị tắc để tránh biến chứng chảy máu. Antyllus đã đề nghị phương pháp điều trị ngoại khoa phổng động mạch bằng phương pháp thắt mạch máu ở đầu trung tâm của túi phổng vào thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Thời kỳ phẫu thuật tái tạo phục hồi mạch máu được Alexis Carrel đặt nền móng vào năm 1902 với kỹ thuật khâu nối mạch máu cơ bản. Sự phát hiện ra heparin của Mc Lean năm 1916 và sử dụng nó vào trong lâm sàng ở cuối những năm 30*của thế kỷ XX cùng với sự ra đời kỹ thuật chụp cản quang mạch máu, tiến bộ trong gây mê, tuần hoàn nhân tạo vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XX là một bước phát triển nhảy vọt của chuyên ngành ngoại khoa phục hồi mạch máu. Trong một thời gian dài, phẫu thuật mổ mở được xem là tiêu chuẩn vàng để điều trị các * Khoa Phẫu thuật Mạch máu, Bệnh viện Chợ Rẫy Người chịu trách nhiệm khoa học: TS. Phạm Minh Ánh Ngày nhận bài: 15/07/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/07/2018 Phản Biện Khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng GS.TS. Lê Ngọc Thành PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 24 - THÁNG 8/2018 44 bệnh lý mạch máu và chấn thương. Khái niệm can thiệp nội mạch được đánh dấu vào năm 1963 khi Charles Dotter, một bác sĩ chuyên khoa Xquang cùng với đồng nghiệp Bill Cook lần đầu tiên thực hiện phương pháp nong mạch qua da và chụp động mạch vành. Ngày 16 tháng giêng năm 1964 Dotter thực hiện thành công ca nong động mạch chậu bị hẹp trên bệnh nhân nữ 82 tuổi. Từ đó đến nay, phương pháp can thiệp nội mạch được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới Hình 1: Charles Dotter (1920-1985) - cha đẻ của ngành can thiệp mạch máu Bước đầu được áp dụng trên bệnh lý mạch máu ngoại biên và mạch vành, hiện nay can thiệp nội mạch còn phát triển để điều trị các dạng bệnh lý mạch máu khác như: bệnh lý động mạch chủ, động mạch cảnh, động mạch tạng (thận, mạc treo), tĩnh mạch Về bệnh lý động mạch ngoại biên, sau trường hợp đầu tiên được nong mạch máu qua da bởi Dotter và Judkins năm 1964, can thiệp nội mạch đã có những bước phát triển mạnh mẽ so với mổ mở trong điều trị bệnh lý động mạch ngoại biên cấp và mạn tính bởi những ưu điểm như ít xâm lấn, có thể thực hiện trên bệnh nhân nguy cơ phẫu thuật cao. Theo thống kê, hiện nay có hơn 200 triệu bệnh nhân bị bệnh lý động mạch ngoại biên trên toàn thế giới, trong đó 27 triệu bệnh nhân ở Bắc Mỹ và Châu Âu [5]. Ngoài điều trị nội khoa, phục hồi lưu thông mạch máu là điều trị chính nhằm tái lập tuần hoàn trong đó can thiệp mạch máu qua da được xem rất hiệu quả trên tổn thương TASC A và B. Ngoài những dụng cụ căn bản như dây dẫn, ống dẫn, ống thông, bóng, stent, ngành can thiệp nội mạch hiện nay đã có những bước phát triển nhảy vọt nhờ những phương tiện hỗ trợ như bóng phủ thuốc, stent phủ thuốc, dụng cụ khoan cắt mảng xơ vữa, dụng cụ hút huyết khối, siêu âm nội mạchgiúp giải quyết những tổn thương tắc hoàn toàn mạn tính phức tạp. II. NHỮNG TIẾN BỘ TRONG ĐIỀU TRỊ ÍT XÂM LẤN CÁC BỆNH LÝ MẠCH MÁU 2.1. Bóng phủ thuốc (drug-eluting balloon) Nong bóng tạo hình mạch máu qua da là thủ thuật can thiệp có biến chứng thấp, ít xâm lấn, có thể làm lại nhiều lần, rất thích hợp cho nhiều tổn thương không vôi hoá nặng nề. Hiện này với loại bóng có kích thước dài, chúng ta có thể nong được nhiều tổn thương dài và nhiều tầng. Nhiều kết quả nghiên cứu của tác giả Darling, Bensley cho thấy tỷ lệ thành công sớm của nong bóng qua da trên 90% ở tổn thương tầng đùi khoeo và dưới gối, kể cả trong trường hợp thiếu máu chi trầm trọn [9,14] . Tuy nhiên, kết quả lâu dài của phương pháp này cho thấy tỷ lệ tái hẹp trên 60% sau 12 tháng. Tái hẹp sau nong bóng tạo hình qua da có thể được khắc phục bằng đặt khung giá đỡ (stent) nhưng khi ĐIỀU TRỊ ÍT XÂM LẤN CÁC BỆNH LÝ MẠCH MÁU XU HƯỚNG TẤT YẾU 45 tiếp tục có tái hẹp trong stent hoặc có những vị trí tổn thương không thể đặt stent được thì vấn đề trở nên khá phức tạp, cần có giải pháp khắc phục để tránh phải chuyển sang phẫu thuật bắc cầu. Có thể có nhiều giải pháp khắc phục nhưng hiện nay sử dụng bóng phủ thuốc (drug eluting balloon) vẫn là giải pháp được sử dụng phổ biến nhất. Ưu điểm của bóng phủ thuốc là có hiệu quả chống tái hẹp sau can thiệp nhờ cơ chế giải phóng thuốc ức chế sự tăng sinh nội mạc tại chỗ của thành mạch. Dược phẩm được sử dụng phổ biến nhất hiện nay ở bề mặt bóng phủ thuốc là paclitaxel. Trong khoảng hơn một thập kỷ gần đây, bóng phủ thuốc đã được sử dụng rộng rãi trong can thiệp nội mạch qua da điều trị bệnh lý động mạch ngoại biên, với nhiều chủng loại và đặc tính khác nhau đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu. Nghiên cứu DEBATE-BTK theo dõi sau 1 năm cho thấy nhóm bệnh nhân sử dụng bóng phủ thuốc có tỷ lệ tái hẹp thấp hơn so với nhóm bóng thường ( 27% so với 74 %, p<0,001 [6]. Nghiên cứu THUNDER cũng cho thấy nhóm bóng phủ thuốc có tỷ lệ can thiệp lại thấp hơn nhóm bóng thường (21% so với 56%, p=0,0005 [8]. Đến cuối năm 2017, tại Mỹ có 3 loại bóng phủ thuốc được FDA công nhận là Lutonix (Bard), In.Pact Admiral (Medtronic) và Stellarex (Boston). Hình 2: Minh hoạ cơ chế bóng phủ thuốc 2.2. Giá đỡ nội mạch phủ thuốc (stent phủ thuốc) Stent được chỉ định trong can thiệp mạch máu khi hẹp tồn lưu sau nong bóng, bóc tách mạch máu gây giới hạn dòng chảy lòng mạch. Nghiên cứu của Schilliner (2006) [14], Soga (2010) [15]cho thấy stent tự bung cải thiện kết quả so với sử dụng bóng với tổn thương tầng đùi khoeo. Nhưng cũng giống với nong bóng thường qua da, stent thường tự bung cũng có tỷ lệ tái hẹp do phản ứng tăng sinh nội mạc sau đó. Để cải thiện vấn đề này, các loại stent phủ thuốc (drug eluted stent) và stent có phủ ống ghép (cover stent) ra đời. Hiện nay các loại stent phủ thuốc và cover stent được công nhận như Viabahn (Gore), Eluvia (Boston), Zilver PTX (Cook), aSpire (LeMaitre). 2.3. Dụng cụ hút huyết khối Thiếu máu cấp tính động mạch chi dưới (acute limb ischemia) là một trong những tình PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 24 - THÁNG 8/2018 46 trạng bệnh lý cấp cứu mạch máu nguy hiểm, đe doạ nghiêm trọng đến khả năng bảo tồn chi, có tỷ lệ tàn tật do cắt cụt và tỷ lệ tử vong cao. Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây ra tình trạng tắc động mạch chi dưới cấp tính là huyết khối di chuyển từ buồng tim đến (emboli) và huyết khối hình thành tại chỗ do xơ vữa động mạch (thrombosis). Điều trị cơ bản là tái thông lòng mạch cho người bệnh có tắc mạch cấp tính. Hiện nay, ngoài phẫu thuật lấy huyết khối, can thiệp nội mạch sử dụng tiêu sợi huyết trực tiếp qua catheter hoặc hút huyết khối qua catheter cho thấy hiệu quả cao. Có nhiều loại dụng cụ lấy huyết khối qua da với nhiều cơ chế tác dụng khác nhau như hút (aspiration thrombectomy), phá vỡ cơ học trực tiếp (direct contact mechanical fragmentation), bẫy và kéo (pullback and trapping thrombectomy), dùng sóng siêu âm (ultrasound), cơ học tuần hoàn (recirculation mechanical)... Mỗi phương tiện đều có những đặc tính, đặc điểm khác nhau được chỉ định cho những điều kiện cụ thể. Nhìn chung, các phương tiện này đề có ưu điểm là hiệu quả phá vỡ và lấy huyết khối cao, thời gian làm sạch huyết khối rất ngắn và đặc biệt là có cơ chế thu hồi huyết khối, không cho huyết khối di chuyển về phía ngọn chi. Nghiên cứu của Katsargyris và cộng sự trên 262 bệnh nhân thiếu máu động mạch nuôi chi cấp tính trong 5 năm được sử dụng dụng cụ lấy huyết khối cho thấy tỷ lệ thành công 91%, tỷ lệ thất bại phải chuyển sang mổ mở chỉ 4,2% [11]. Nhược điểm chung của các phương tiện lấy huyết khối cơ học là giá thành còn cao. Hình 3 : Hệ thống Angiojet (Boston) hút huyết khối 2.4. Dụng cụ khoan cắt mảng xơ vữa Trong can thiệp mạch máu ngoại biên, tổn thương tắc hoàn toàn mạn tính do vôi hoá (chronic total occlusion ) luôn là thử thách với phẫu thuật viên. Giải quyết thương tổn vôi hoá nặng làm giảm tỷ lệ tái hẹp sau can thiệp. Để làm việc đó, dụng cụ phá bỏ mảng xơ vữa đóng vai trò rất quan trọng. Hiện nay các dụng cụ phá bỏ mảng xơ vữa (atherectomy) được chỉ định trong tổn thương tắc hẹp động mạch do xơ vữa từ dạng gây đau cách hồi đến thiếu máu chi trầm trọng, đặc biệt điều trị ở các vùng bệnh lý động mạch vùng chạc ba. Hiện nay có 3 loại dụng cụ phá bỏ mảng xơ vữa được Cục quản lý ĐIỀU TRỊ ÍT XÂM LẤN CÁC BỆNH LÝ MẠCH MÁU XU HƯỚNG TẤT YẾU 47 thực phẩm, dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) công nhận là hệ thống cắt mảng xơ vữa Silverhawk, hệ thống Diamondback 360 và hệ thống CVX- 300 Excimer laser. Mỗi loại dụng cụ có cơ chế phá bỏ mảng xơ vữa khác nhau, hệ thống silverhawk bao gồm lưỡi dao xoay với tốc độ khoảng 8000 vòng/phút để bào mòn mảng xơ vữa, hệ thống Diamondback cắt bỏ mảng xơ vữa nhờ chuyển động xoay tròn của lưỡi dao đặt lệch tâm trong khi hệ thống CVX-300 hoạt động nhờ năng lượng laser. Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho thấy hiệu quả cao của dụng cụ cắt bỏ mảng xơ vữa. Về hệ thống Silverhawk, nghiên cứu TALON thực hiện tại 19 trung tâm tim mạch ở Hoa Kỳ trên 601 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ thành công 97,6%, chỉ có 6,3% bệnh nhân cần đặt thêm stent. Tỷ lệ tái thông sau 6 tháng và 12 tháng lần lượt là 90 % và 80% [19]. Nghiên cứu OASIS thực hiện với hệ thống Diamondback 360 trên 124 bệnh nhân ở đa trung tâm cho thấy tỷ lệ thành công kỹ thuật là 72%, ABI trung bình cải thiện từ 0,6 lúc chưa can thiệp lên 0,9 ở 30 ngày và 0,82 lúc 6 tháng [3] . Với hệ thống CVX-300 excimer laser, hai nghiên cứu lớn được thực hiện là PELA và LACI. Nghiên cứu PELA là 1 nghiên cứu đa trung tâm, tiến cứu trên bệnh nhân có tắc động mạch đùi nông dài, so sánh giữa 2 nhóm có dùng dụng cụ cắt bỏ mảng xơ vữa và nhóm chỉ nong bóng tạo hình đơn thuần. Kết quả cho thấy nhóm có sử dụng CVX-300 có tỷ lệ cần đặt stent thấp hơn nhóm nong bóng đơn thuần ( 42% so với 59% [19] . Nghiên cứu LACI đa trung tâm thực hiện trên 145 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ tái thông sau 6 tháng là 92,5%, chỉ số ABI cải thiện từ 0,54 lên 0,84 [8]. Mặc dù có những biến chứng kỹ thuật như thủng động mạch, thuyên tắc xa và giá thành mắc nhưng các dụng cụ cắt bỏ mảng xơ vữa cho thấy vai trò rất hiệu quả trong xử lý những tổn thương xơ vữa, vôi hoá nặng, làm giảm tỷ lệ can thiệp lại cho tái hẹp. Hình 4 : Minh hoạ các hệ thống khoan cắt mảng xơ vữa (từ trái sang : Silverhahk, Diamondback 360 và CVX-300 laser) 2.5. Siêu âm trong lòng mạch (intravascular ultrasound IVUS) Siêu âm trong lòng mạch (IVUS) sử dụng một đầu dò siêu âm rất nhỏ (< 1mm) luồn vào trong lòng động mạch qua vị trí bị tổn thương để đánh giá tổn thương của động mạch. Đây là một phương pháp mới có độ an toàn và chính xác cao, có thể tiến hành lại được nhiều lần trong đánh giá cấu trúc thành mạch và các bệnh lý liên quan, cũng như sự thay đổi của PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 24 - THÁNG 8/2018 48 lòng mạch trước và sau can thiệp. Siêu âm trong lòng mạch có thể phân biệt được 3 lớp cấu trúc của thành động mạch (lớp áo trong, lớp áo giữa, lớp áo ngoài). Bước đầu được áp dụng trong can thiệp mạch vành, hiện nay IVUS ngày càng áp dụng rộng rãi trong can thiệp động mạch ngoại biên và động mạch chủ. Hình 5: Siêu âm nội mạch Mặc dù chi phí còn cao nhưng IVUS giúp đánh giá đường kính lòng mạch chính xác hơn chụp mạch thông thường do vậy giúp các thầy thuốc lựa chọn các dụng cụ can thiệp phù hợp với người bệnh hơn. IVUS giúp đánh giá kết quả can thiệp về mặt giải phẫu học và phát hiện các biến chứng bao gồm bóc tách thành động mạch vành, diện tích cắt ngang lòng mạch tối thiểu sau thủ thuật, huyết khối trong stent, tụ máu trong thành động mạch, vỡ động mạchTheo một nghiên cứu tổng hợp tại Mỹ của Sidakpal và cộng sự, từ năm 2006 đến 2011 có tổng cộng 92714 bệnh nhân động mạch ngoại biên được can thiệp. Trong đó, 1299 bệnh nhân (1,4%) được sử dụng IVUS trong lúc can thiệp. Nghiên cứu cho thấy nhóm bệnh nhân có sử dụng IVUS có tỷ lệ biến chứng chung liên quan đến mạch máu thấp hơn so với nhóm không sử dụng IVUS ( 9,2% so với 11,4%, p <0,001). Tỷ lệ đoạn chi của nhóm dùng IVUS là 5,3% , thấp hơn so với nhóm không dùng IVUS (9,8%, p<0,001) [12] . III. XU HƯỚNG TẤT YẾU Với tiến bộ và phát triển của dụng cụ can thiệp nội mạch đã đề cập ở trên, xu hướng điều trị phục hồi mạch máu trên thế giới cũng đã có những xu hướng thay đổi mạnh mẽ. Tại Mỹ năm 2009, Philip Goodney và cộng sự đã tổng hợp số liệu nguồn Medicare từ 1996 đến 2006 cho thấy số lượng can thiệp nội mạch điều trị bệnh lý động mạch ngoại biên tăng hơn 3 lần ( từ 138 đến 455/100000, RR 3,3, độ tin cậy 95%), trong khi mổ bắc cầu giảm 42% (từ 219 xuống 126/100000, RR 0.58, độ tin cậy 95%) [7] . Cũng trong thời gian này, người ta nhận thấy số lượng can thiệp phần lớn được thực hiện bởi bác sĩ Xquang mạch máu vào năm 1996. Nhưng đến 2006, hơn 80% số lượng ca được thực hiện bởi bác sĩ phẫu thuật mạch máu và ĐIỀU TRỊ ÍT XÂM LẤN CÁC BỆNH LÝ MẠCH MÁU XU HƯỚNG TẤT YẾU 49 tim mạch can thiệp. Với những trường hợp thiếu máu nuôi chi cấp tính, nghiên cứu của Donald Baril từ 1998 đến 2009 ghi nhận tỷ lệ mổ mở giảm từ 57,1% xuống 51,6% trong khi can thiệp nội mạch lại tăng từ 15% lên 33,1% [1] . Tại Hàn Quốc, theo số liệu của y tế quốc gia, từ năm 2004 đến 2013 có 233408 bệnh nhân bệnh lý động mạch ngoại biên được điều trị, trong đó 37464 bệnh nhân được mổ mở, 195944 bệnh nhân được can thiệp nội mạch. Tỷ lệ mổ mở giảm từ 26% năm 2004 xuống còn 8,9% năm 2013 ( RR 0,73 , độ tin cậy 95%), tỷ lệ can thiệp nội mạch tăng từ 74% năm 2004 lên đến 91,1% năm 2013 (RR 2,62 , độ tin cậy 95% [13] . Những thay đổi này có ý nghĩa thống kê (P<0,0001). Nguyên nhân của sự thay đổi xu hướng này có thể giải thích do 2 lý do chính: thứ nhất, sự phát triển của các dụng cụ can thiệp, đặc biệt là bóng, stent, dụng cụ khoan cắt mảng xơ vữa giúp phẫu thuật viên có thể đưa dây dẫn qua những thương tổn kéo dài mà trước đó không thể làm được. Nguyên nhân thứ hai là kinh nghiệm và kỹ thuât can thiệp của phẫu thuật viên của các trung tâm mạch máu được nâng cao qua thời gian. Hiện nay với tổn thương TASC C,D , mổ mở vẫn được xem ưu tiên hơn so với can thiệp nội mạch. Tuy nhiên, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của dụng cụ can thiệp, trong tương lai gần, phác đồ điều trị có thể sẽ có những thay đổi. Hình 6: Biểu đồ cho thấy sự thay đổi của can thiệp mạch máu trong 10 năm tại Mỹ Về bệnh lý động mạch chủ (phình, bóc tách và chấn thương ), theo số liệu thống kê của trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ, hàng năm có gần 13000 bệnh nhân tử vong vì bệnh lý động mạch chủ, trong đó nguyên nhân tử vong hàng đầu là do vỡ động mạch chủ. Trước đây, điều trị các bệnh lý liên quan động mạch chủ là phẫu thuật thay đoạn phình bằng ống ghép nhân tạo với tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ cao, thời gian nằm hồi PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 24 - THÁNG 8/2018 50 sức và nằm viện lâu. Tuy nhiên, kể từ khi Juan Parodi và Michael Dake báo cáo những trường hợp phình động mạch chủ bụng và ngực đầu tiên trên thế giới được điều trị bằng can thiệp đặt ống ghép nội mạch lần lượt vào năm 1991 và 1994, phương pháp điều trị ít xâm lấn này ngày càng phát triển và áp dụng rộng rãi ở các trung tâm phẫu thuật mạch máu lớn trên thế giới. So với phương pháp mổ mở kinh điển, đặt ống ghép nội mạch có nhiều lợi thế ưu việt như có thể thực hiện mà không cần gây mê toàn thân, đường mổ nhỏ, thời gian phục hồi nhanh, biến chứng sau mổ thấp. Một vấn đề hay gặp trong can thiệp đặt ống ghép nội mạch là chuyển vị các nhánh động mạch tạng hoặc động mạch trên quai động mạch chủ để có chiều dài vùng hạ đặt ống ghép thích hợp. Hiện nay, với sự xuất hiện và phát triển của cái loại stent graft có nhánh, việc chuyển vị ngày càng giảm đi. Tại Mỹ, theo số liệu thống kê từ hệ thống Medicare của nghiên cứu Bjoem Suckow, từ 2003 đến 2013 số lượng bệnh nhân phình động mạch chủ bụng được mổ mở giảm 76% (từ 20533 năm 2003 xuống còn 4916 năm 2013, p<0,001) trong khi đó số lượng bệnh nhân được can thiệp nội mạch tăng từ 11049 năm 2003 lên đến 19247 năm 2011 [16] .Từ 2011 đến 2013, số lượng bệnh nhân sử dụng stent graft có nhánh (branched-fenestrated stent graft) tăng từ 334 trường hợp lên 2143 (P<0,01). Một nghiên cứu khác tại Seoul, Hàn Quốc năm 2015 cũng cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của can thiệp nội mạch trong điều trị bệnh lý động mạch chủ. Từ 2004 đến 2013 tại Hàn Quốc có 32130 bệnh nhân bị bệnh lý phình động mạch chủ được điều trị, trong đó tỷ lệ mổ mở giảm đáng kể từ 94% năm 2004 xuống còn 54,9 % năm 2013, trong khi đó, tỷ lệ can thiệp nội mạch tăng từ 6% năm 2004 lên đến 45,1% năm 2013 [10]. Hình 7 : Biểu đồ xu hướng điều trị phình động mạch chủ bụng tại Hàn Quốc từ 2004-2013 ĐIỀU TRỊ ÍT XÂM LẤN CÁC BỆNH LÝ MẠCH MÁU XU HƯỚNG TẤT YẾU 51 Để so sánh hiệu quả lâu dài giữa can thiệp nội mạch và mổ mở trong điều trị bệnh lý động mạch chủ, hiện tại chỉ có 4 nghiên cứu OVER, DREAM, EVAR 1 và ACE. Mặc dù kết quả dài hạn không cho thấy ưu điểm của can thiệp nội mạch so với mổ mở, tuy nhiên can thiệp nội mạch vẫn cho thấy đây là một phương pháp ít xâm lấn, an toàn, có tỷ lệ biến chứng thấp. Về bệnh lý tĩnh mạch, điều trị ít xâm lấn cũng đang là xu hướng chung trên các trung tâm mạch máu trên thế giới. Trước đây, điều trị bệnh lý suy giãn tĩnh mạch nông chi dưới chủ yếu là phẫu thuật lột bỏ tĩnh mạch hiển (stripping). Tuy nhiên, mổ mở điều trị bệnh lý suy giãn tĩnh mạch cho tỷ lệ tái phát cao khoảng 30%. Hiện nay các phương pháp điều trị ít xâm lấn bao gồm chích xơ, laser và sóng cao tần nội mạch cho thấy hiệu quả cao và tỷ lệ tái phát thấp. Không những thế, các phương pháp điều trị ít xâm lấn này chỉ cần thực hiện bằng gây tê tại chỗ và dưới hướng dẫn siêu âm nên tỷ lệ biến chứng sau can thiệp rất thấp. Về bệnh lý huyết khối tĩnh mạch sâu, can thiệp nội mạch cũng có những bước phát triển khi ứng dũng kỹ thuật đặt catheter tiêu sợi huyết và lưới lọc tĩnh mạch chủ dưới. Trước đây điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc động mạch phổi chủ yếu bằng thuốc kháng đông tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho thấy dù có điều trị kéo dài từ 3-6 tháng, tỷ lệ hội chứng hậu huyết khối vẫn còn cao từ 40-60%. Ngoài ra biến chứng chảy máu của dùng kháng đông là 1-4%/ năm, trong đó tỷ lệ xuất huyết nội sọ 0,25 – 1,5%. Phương pháp can thiệp đặt catheter tiêu sợi huyết là kỹ thuật đưa catheter vào vị trí có huyết khối lòng tĩnh mạch, từ đây thuốc tiêu sợi huyết được bơm ra để làm tiêu cục huyết khối. Vì không phải dùng liều tiêu sợi huyết toàn thân nên phương pháp can thiệp đặt catheter tiêu sợi huyết giảm được tỷ lệ biến chứng chảy máu toàn thân, xuất huyết nội sọ và hội chứng hậu huyết khối. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu quan sát về phương pháp can thiệp nội mạch đặt catheter tiêu sợi huyết, tuy nhiên số lượng thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên còn rất ít. Năm 2002, Elsharawy và cộng sự thực hiện nghiên cứu trên 35 bệnh nhân dùng tiêu sợi huyết sau 6 tháng. Kết quả cho thấy tỷ lệ tái thông mạch máu cải thiện ( 72 % so với 12 % , p<0,001), tỷ lệ dòng trào ngược giảm ( 11% so với 41%, p = 0,04). Năm 2012, Enden và cộng sự thực hiện nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên giữa 2 phương pháp can thiệp nội mạch đặt catheter tiêu sợi huyết và kháng đông đơn thuần trên 209 bệnh nhân. Sau 2 năm, nhóm dùng catheter tiêu sợi huyết giảm nguy cơ hội chứng hậu huyết khối 14% ( 41,1% so với 55,6%, p=0,047). Tỷ lệ chảy máu của nhóm can thiệp nội mạch là 3%, không trường hợp nào ghi nhận huyết khối nội sọ. Hiện nay, trong các hướng dẫn điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu, can thiệp nội mạch đặt catheter tiêu sợi huyết chủ yếu được khuyến cáo trong bệnh lý tắc cấp tính tĩnh mạch chậu đùi [4] . Tại Việt Nam, hội nhập chung với xu thế trên thế giới, ngành phẫu thuật mạch máu cũng có những bước tiến trong can thiệp nội mạch điều trị bệnh lý động mạch trong 20 năm gần đây. Bắt đầu bằng những ca can thiệp động mạch vành đầu tiên vào những năm 90 tại các trung tâm tim mạch lớn của cả nước như Bệnh viện Bạch Mai, Việt Đức, PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 24 - THÁNG 8/2018 52 Chợ Rẫy, can thiệp nội mạch đã dần được ứng dụng rộng rãi với số lượng ngày càng tăng để điều trị bệnh lý động mạch ngoại biên, động mạch chủ, suy tĩnh mạch chi dưới, hẹp tĩnh mạch dẫn lưu AVF ở bệnh nhân suy thận. Tuy nhiên tại Việt Nam hiện chưa có nghiên cứu tổng hợp kết quả phương pháp can thiệp nội mạch điều trị các bệnh lý mạch máu trên cả nước. Tại bệnh viện Chợ Rẫy, khoa phẫu thuật mạch máu được thành lập từ năm 2012. Từ đó đến nay, qua 6 năm chúng tôi đã triển khai kỹ thuật can thiệp nội mạch ít xâm lấn trong hầu hết các bệnh lý mạch máu như bệnh lý động mạch ngoại biên ( động mạch chi dưới, động mạch thận, động mạch cảnh), động mạch chủ (phình, bóc tách, chấn thương), suy tĩnh mạch và huyết khối tĩnh mạch sâu, can thiệp tĩnh mạch đường về FAV ở bệnh nhân suy thận với số lượng ngày càng tăng. Hình 8: Biểu đồ số lượng bệnh nhân can thiệp nội mạch qua các năm tại khoa Phẫu thuật Mạch máu Chúng tôi nhận thấy số lượng bệnh nhân có bệnh lý động mạch ngoại biên và động mạch chủ tăng qua các năm, nhóm bệnh lý tĩnh mạch có xu hướng giảm trong 2 năm gần đây. Điều này có thể được lý giải do các bệnh viện tuyến tỉnh trong vài năm gần đây đã có thể thực hiện thành thục các kỹ thuật can thiệp nội tĩnh mạch nên số lượng bệnh nhân nhập viện ít hơn. Trong nhóm bệnh nhân bệnh lý động mạch ngoại biên, bệnh lý tắc hẹp động mạch chi dưới mạn tính chiếm đa số. Đặc điểm chung của bệnh lý động mạch ngoại biên và động mạch chủ là đa số bệnh nhân lớn tuổi, có nhiều bệnh lý nội khoa đi kèm, nguy cơ phẫu thuật cao. Phương pháp can thiệp nội mạch ít xâm lấn rút ngắn thời gian phẫu thuật, đường mổ ngắn thẩm mỹ giúp bệnh nhân phục hồi nhanh. Về kết quả can thiệp động mạch ngoại biên, nghiên cứu của tác giả Lâm Văn Nút và Lê Đức Tín từ năm 2012 đến 2013 trên 73 bệnh nhân tắc hẹp động mạch mạn tính chi dưới cho tỷ lệ thành công ngắn hạn và trung hạn lần lượt ĐIỀU TRỊ ÍT XÂM LẤN CÁC BỆNH LÝ MẠCH MÁU XU HƯỚNG TẤT YẾU 53 là 95,9% và 91,1%, bước đầu cho thấy kết quả khả quan của can thiệp nội mạch trong điều trị bệnh lý động mạch ngoại biên. Về kết quả can thiệp động mạch chủ, theo nghiên cứu của tác giả Phạm Minh Ánh và Phan Duy Kiên từ tháng 5/2012 đến tháng 8/2017 trên 231 bệnh nhân bệnh lý động mạch chủ, tỷ lệ tử vong chu phẫu và trung hạn lần lượt là 3,8% và 8,6%, tỷ lệ thành công kỹ thuật 99,5%. Cũng giống như các nghiên cứu khác trên thế giới về can thiệp động mạch ngoại biên và động mạch chủ, nghiên cứu tại khoa chúng tôi cũng ghi nhận nhiều trường hợp phải can thiệp lại do tái hẹp, rò ống ghép Vì vậy, trong tương lai, các nghiên cứu với thời gian theo dõi dài hơn cần đánh giá đầy đủ tính hiệu quả và an toàn của can thiệp nội mạch trong điều trị bệnh lý mạch máu. IV. KẾT LUẬN Điều trị ít xâm lấn các bệnh lý mạch máu phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây trên toàn thế giới, cho thấy kết quả thành công cao. Tỷ lệ can thiệp nội mạch điều trị các bệnh lý mạch máu ngày càng tăng tại các trung tâm phẫu thuật mạch máu. Với số lượng bệnh nhân bệnh lý mạch máu ngày càng nhiều, can thiệp nội mạch là xu hướng tất yếu tại nước ta trong thời gian sắp tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Baril, D. T. (2013). Outcomes of lower extremity bypass performed for acute limb ischemia. J Vasc Surg , 58, 949-956. 2. D. Scheinert, J. L. (2001). Excimer laser-assisted recanalization of long, chronic superficial femoral artery occlusions. J Endovasc Ther , 156-166. 3. Dattilo R, H. S. (2014). The COMPLIANCE 360 degrees Trial: A Randomized, Prospective, Multicenter, Pilot Study Comparing Acute and Long-Term Results of Orbital Atherectomy to Balloon Angioplasty for Calcified Femoropopliteal Disease. J Invasive Cardiol , 26 (8), 355-360. 4. Fleck, D. (2017). Catheter-directed thrombolysis of deep vein thrombosis: literature review and practice considerations . Cardiovascular Diagnosis and Therapy , S228-S237 5. Fowkes FG, R. D.-D. (2013). 1. Comparison of global estimates of prevalence and risk factors for peripheral artery disease in 2000 and 2010: a sys- tematic review and analysis. 1. Lancet , 1. 1329–1340. 6. Francesco Liistro, I. P. (2013, June). Drug-Eluting Balloon in peripherAl inTErvention for Below the Knee Angioplasty Evaluation (DEBATE-BTK): A Randomized Trial in Diabetic Patients with Critical Limb Ischemia. Circulation . 7. Goodney, P. P. (2009). National trends in lower extremity bypass surgery, endovascular interventions, and major amputations . J Vasc Surg , 50, 54-60. 8. J.R. Laird, T. Z. (2006). LACI Investigators. Limb salvage following laser- assisted angioplasty for critical limb ischemia: results of the LACI multicenter trial . J Endovasc Ther , 1-11. 9. Jeremy Darling, R. B. (2013, June). Long-term outcomes following infrapopliteal angioplasty for critical limb ischemia. J Vasc Surg , 1455–1464. PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 24 - THÁNG 8/2018 54 10. Jin hyun joh,. (2016). National trends for open and endovascular repair of aneurysms in Korea: 2004‐2013 . EXPERIMENTAL AND THERAPEUTIC MEDICINE , 3333-3338. 11. Katsargyris. (2015, June). Percutaneous endovascular thrombosuction for acute lower limb ischemia: a 5-year single center experience. THE JOURNAL OF CARDIOVASCULAR SURGERY , 375-81. 12. Panaich, S. S. (2016). Intravascular Ultrasound in Lower Extremity Peripheral Vascular Interventions: Variation in Utilization and Impact on In-Hospital Outcomes From the Nationwide Inpatient Sample (2006–2011). Journal of Endovascular Therapy , 23, 65-75. 13. Park, Y. Y. (2015). National trends for the treatment of peripheral arterial disease in Korea between 2004 and 2013 . Annals of Surgical Treatment and Research . 14. Schillinger, M. (2006). Balloon Angioplasty versus Implantation of Nitinol Stents in the Superficial Femoral Artery. N Engl J Med , 354, 1879-1888. 15. Soga, Y. (2010). Mid-term clinical outcome and predictors of vessel patency after femoropopliteal stenting with self-expandable nitinol stent. JOURNAL OF VASCULAR SURGERY , 52, 608-615. 16. Suckow, B. D. (2017). National trends in open surgical, endovascular, and branched- fenestrated endovascular aortic aneurysm repair in Medicare patients . J Vasc Surg , 1-8. 17. Tepe G, Z. T. (2008). Local delivery of paclitaxel to inhibit restenosis during angioplasty of the leg. N Engl J Med , 358, 689-699. 18. Youn Young Park, J. H. (2015). National trends for the treatment of peripheral arterial disease in Korea between 2004 and 2013 . Ann Surg Treat Res , 89 (6), 319-324. 19. Zeller T, S. S. (2004). Midterm results after atherectomy-assisted angioplasty of below-knee arteries with use of the Silverhawk device. J Vasc Interv Radiol , 15, 1391–1397.
File đính kèm:
dieu_tri_it_xam_lan_cac_benh_ly_mach_mau_xu_huong_tat_yeu.pdf