Điều trị duy trì COPD: đã đến lúc rút ICS và chuyển sang các thuốc hít LAMA/LABA mới?
Việc điều trị duy trì dài hạn cho bệnh COPD đang có những tiến bộ một cách nhanh chóng. Các
thuốc giãn phế quản kép mới là ức chế kháng thụ thể muscarin tác dụng kéo dài và đồng vận beta
tác dụng kéo dài (LAMA/LABA) phối hợp định liều dạng hít đã được sử dụng trong hai năm qua.
Trong các thử nghiệm lâm sàng, những thuốc dạng hít này làm cải thiện chức năng phổi đáng kể
(thông qua giá trị trung bình thể tích khí thở ra gắng sức trong 1 giây đầu tiên), kết quả được ghi
nhận của bệnh nhân và đo lường chất lượng cuộc sống được so với placebo, với các thành phần
đơn chất tương ứng và tiotropium. Các phản ứng bất lợi ghi nhận được từ các thuốc hít mới này
cũng tương tự như từ các đơn chất tương ứng hay với placebo. Một số lo ngại về các biến chứng
dài hạn (tăng cân, loãng xương, đục thủy tinh thể) và tăng nguy cơ viêm phổi cộng đồng khi sử
dụng corticoids hít (ICS). Các thuốc hít mới LAMA/LABA có thể có khả năng làm giảm việc sử
dụng ICS một phần hay toàn bộ trong việc điều trị duy trì cho bệnh nhân COPD. Các nghiên cứu
gần đây so sánh những thuốc hít LAMA/LABA với ICS/LABA cho bệnh nhân COPD mức độ
vừa đến nặng. Các kết quả mang nhiều hứa hẹn và có lợi cho LAMA/LABA dạng hít, đặc biệt là
các thử nghiệm có thời gian kéo dài hơn. Hơn nữa, có một bức tranh mới mẻ và rõ ràng hơn trong
phân nhóm COPD và những bệnh nhân này có thể thành công khi chuyển điều trị hiện hành là
ICS/LABA sang các thuốc dạng hít mới LAMA/LABA.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị duy trì COPD: đã đến lúc rút ICS và chuyển sang các thuốc hít LAMA/LABA mới?
Dịch 39 Hô hấp số 13/2017 MỞ ĐẦU Các hướng dẫn điều trị của Viện quốc gia ưu tú của Vương quốc Anh về lâm sàng và chăm sóc sức khỏe (NICE) khuyến khích sử dụng (ICS/LABA) dạng hít trong điều trị COPD(1). Tuy nhiên, sử dụng ICS lâu dài có thể gây tác dụng phụ cho người bệnh. Có một số tác dụng phụ có thể được xem xét về tính thẩm mỹ hay không đáng lưu ý, như mỏng da hay bầm da, tái phân bố mỡ trên cơ thể, trong khi một số tác dụng phụ khác lại có thể gây những bệnh lý đáng lo ngại (tăng cân, viêm phổi, loãng xương dẫn đến gãy xương). Khi ĐIỀU TRỊ DUy TRÌ COPD: ĐÃ ĐếN LÚC RÚT ICS VÀ CHUyỂN SANG CÁC THUỐC HÍT LAMA/LABA MỚI? Syed Mohammad Tariq, Enson C Thomas Khoa Hô Hấp, Bệnh viện trường Đại học Luton và Dunstable, Luton Đơn vị Hô hấp, Bệnh viện Bedford, Bedford, Anh Người dịch: ThS.BS Huỳnh Anh Tuấn Khoa Nội BV Hoàn Mỹ Cửu Long E-mail: [email protected] Tóm tắt: Việc điều trị duy trì dài hạn cho bệnh COPD đang có những tiến bộ một cách nhanh chóng. Các thuốc giãn phế quản kép mới là ức chế kháng thụ thể muscarin tác dụng kéo dài và đồng vận beta tác dụng kéo dài (LAMA/LABA) phối hợp định liều dạng hít đã được sử dụng trong hai năm qua. Trong các thử nghiệm lâm sàng, những thuốc dạng hít này làm cải thiện chức năng phổi đáng kể (thông qua giá trị trung bình thể tích khí thở ra gắng sức trong 1 giây đầu tiên), kết quả được ghi nhận của bệnh nhân và đo lường chất lượng cuộc sống được so với placebo, với các thành phần đơn chất tương ứng và tiotropium. Các phản ứng bất lợi ghi nhận được từ các thuốc hít mới này cũng tương tự như từ các đơn chất tương ứng hay với placebo. Một số lo ngại về các biến chứng dài hạn (tăng cân, loãng xương, đục thủy tinh thể) và tăng nguy cơ viêm phổi cộng đồng khi sử dụng corticoids hít (ICS). Các thuốc hít mới LAMA/LABA có thể có khả năng làm giảm việc sử dụng ICS một phần hay toàn bộ trong việc điều trị duy trì cho bệnh nhân COPD. Các nghiên cứu gần đây so sánh những thuốc hít LAMA/LABA với ICS/LABA cho bệnh nhân COPD mức độ vừa đến nặng. Các kết quả mang nhiều hứa hẹn và có lợi cho LAMA/LABA dạng hít, đặc biệt là các thử nghiệm có thời gian kéo dài hơn. Hơn nữa, có một bức tranh mới mẻ và rõ ràng hơn trong phân nhóm COPD và những bệnh nhân này có thể thành công khi chuyển điều trị hiện hành là ICS/LABA sang các thuốc dạng hít mới LAMA/LABA. Từ khóa: COPD, giãn phế quản kết hợp hai thuốc, đợt cấp, corticosteroid hít, đồng vận beta tác dụng kéo dài, kháng thụ thể muscarin tác dụng kéo dài. Dịch 40 Hô hấp số 13/2017 xem xét các tác dụng phụ này, trên thực tế cho thấy không có lợi ích rõ ràng cho những bệnh nhân không có đợt cấp, và chúng ta nên tránh kê toa ICS cho những bệnh nhân trong phân nhóm COPD này (2). Trong 2 năm qua, giãn phế quản kép với kháng thụ thể muscarin mới tác dụng kéo dài (LAMA)/LABA dạng hít đã có mặt trên thị trường. Hướng dẫn điều trị hiện hành của NICE về COPD đã được công bố năm 2010 (1) Vì thế, tài liệu này đã không đề cập đến các thuốc hít mới này. Tuy nhiên, Chiến lược toàn cầu về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (gOLD) gần đây đã cập nhật hướng dẫn điều trị và thay thế việc sử dụng giãn phế quản tác dụng kép sớm hơn cả ICS trong điều trị tăng thang từng bước dựa trên các triệu chứng (Bảng đánh giá COPD) và tần suất các đợt cấp(3). Đây là bước sự thay đổi lớn, vì các hướng dẫn cũ về điều trị duy trì cho bệnh nhân COPD có thể tích khí thở ra gắng sức trong giây đầu tiên ổn định (FEV1). Tuy nhiên, thay đổi này được đảm bảo vì chức năng phổi thường không tương ứng với mức độ nặng của triệu chứng, các hạn chế chức năng và tần suất đợt cấp(4). Trong các thử nghiệm có kiểm soát, sử dụng các thuốc hít mới LAMA/LABA cho thấy hiệu quả lâm sàng có ý nghĩa về mặt thống kê qua việc xem xét đến chất lượng cuộc sống đạt được, các kết quả ghi nhận từ bệnh nhân và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe đạt được ở những bệnh nhân COPD với mức độ trung bình đến nặng so với placebo, tiotropium và đơn trị liệu trong các thành phần tương ứng(5-11). Những kết quả về FEV1 với các thuốc hít mới là tương đương nhau, các tác dụng phụ cũng tương đương với điều trị bằng một thứ thuốc, tiotropium, hoặc placebo. Nhưng liệu chúng có thể thay thế ICS/LABA dạng hít hay không? Trong bài tổng quan này, dựa trên các chứng cứ từ các nghiên cứu so sánh giữa giãn phế quản kép so với ICS/LABA, chúng tôi gợi ý đến những thay đổi đáng lưu ý trong điều trị duy trì cho bệnh nhân COPD. Thử nghiệm lâm sàng các thuốc hít mới LAMA/LABA so với ICS/LABA: Có 4 loại thuốc hít hiện nay đã được lưu hành LAMA/LABA phối hợp định liều (FDC: fixed dose combination). Ngoài tiotropium + olodaterol, các thuốc còn lại thuộc dạng hít bột khô: 1. Umeclidinium 62.5 μg + vilanterol 25 μg (glaxoSmithKlein, Brentford, Middlesex, UK). 2. Indacaterol 85 μg + glycopyrronium 43 μg (Pfizer, New York, NY, USA). 3. Tiotropium 2.5 μg + olodaterol 2.5 μg (Boehringer Ingelheim, Ingelheim am Rhein, germany). 4. Aclidinium 340 μg + formoterol 12 μg (AstraZeneca, London, UK). Một trong các thành phần thuộc thế hệ thứ ba và thứ tư LAMA/LABA FDCs đã liệt kê ở trên là loại thuốc đã được biết đến và sử dụng trong lâm sàng nhiều năm (đó là tiotropium và formoterol). Các nghiên cứu gần đây đã so sánh các thuốc hít này với ICS/LABA dạng hít, những thuốc đang sử dụng hiện nay. Umeclidinium/ vilanterol được dùng 1 lần trong ngày làm cải thiện đáng kể giá trị trung bình FEV1 trong 2 giờ vào ngày thứ 84 của quá trình điều trị và FEV1 trước khi dùng thuốc khi so với fluticasone/salmeterol 500/50 μg dùng 2 lần mỗi ngày(12). Tuy nhiên, những kết quả thu được từ chỉ số khó thở thay đổi transitional dyspnea index (TDI) và thang điểm St georges Respiratory Questionnaire (SgRQ) tương tự nhau trong 2 nhóm điều trị. Dịch 41 Hô hấp số 13/2017 Trong nghiên cứu LANTERN, FEV1 trước dùng thuốc tốt hơn vào ngày thứ 1, tuần thứ 12 và tuần thứ 26 ở những bệnh nhân điều trị với indacaterol/glycopyrronium dạng hít một lần mỗi ngày so với những bệnh nhân điều trị bằng fluticasone/salmeterol 500/50 μg hai lần mỗi ngày(13). Một lần nữa không có sự khác biệt trong sự cải thiện chỉ số khó thở thay đổi (TDI) và SgRQ giữa 2 nhóm điều trị. Tuy nhiên, tỉ lệ đợt kích phát hàng năm thấp hơn có ý nghĩa (0.31 so với 0.45; P=0.048) trong nhóm điều trị bằng indacaterol/ glycopyrronium, và tỉ lệ viêm phổi (2.7% so với 0.8%) cũng như nhiễm trùng hô hấp trên (7% so với 3.5%) cao hơn trong nhóm điều trị bằng fluticasone/salmeterol. Nghiên cứu FLAME đã so sánh việc sử dụng indacaterol/glycopyrronium một lần một ngày và fluticasone/salmeterol 500/50 μg hai lần mỗi ngày trong thời gian điều trị là 1 năm(14). Nhóm điều trị với indacaterol/ glycopyrronium có tỉ lệ đợt cấp thấp hơn 11% (P=0.003) so với nhóm điều trị bằng fluticasone/salmeterol, và thời gian trung bình đến khi có đợt cấp đầu tiên cũng lâu hơn và có ý nghĩa (71 so với 51 ngày; P<0.001). Như dự đoán, có nhiều trường hợp viêm phổi trong nhóm điều trị bằng fluticasone/ salmeterol (4.8% so với 3.2%). Thời gian nghiên cứu với thời gian lâu hơn này cũng cho thấy việc cải thiện một cách có ý nghĩa thang điểm SgRQ ở nhóm sử dụng indacaterol/ glycopyrronium so với những bệnh nhân điều trị bằng fluticasone/salmeterol hít. Nhóm sử dụng Aclidinium/formoterol hai lần mỗi ngày so với nhóm sử dụng fluticasone/salmeterol 500/50 μg hai lần mỗi ngày trong thử nghiệm pha III trong thời gian kéo dài 24 tuần(15). Aclidinium/formoterol làm tăng giá trị FEV1 trung bình đáng kể hơn hẳn fluticasone/salmeterol. Tỉ lệ đợt cấp và sự cải thiện về chỉ số khó thở thay đổi cũng tương tự trong 2 nhóm, trong khi đó viêm phổi (1.9% so với 0.6%) và tỉ lệ các phản ứng phụ sau khi loại bỏ các đợt cấp cũng cao hơn trong nhóm fluticasone/salmeterol. Nghiên cứu về Tiotropium/olodaterol (5/5 and 2.5/5 μg) dạng hít sử dụng hai liều ngày một lần được so sánh với salmeterol/ fluticasone (50/500 and 50/250 μg) 2 liều mỗi ngày trong thời gian điều trị 6 tuần(16). Có sự cải thiện có ý nghĩa về thống kê thống kê trên diện tích dưới đường cong của FEV1 từ 0-12 giờ trong nhóm tiotropium/olodaterol so với nhóm salmeterol/fluticasone. Kết quả thu được là 30%-40% (FEV1 AUC 0–12 cho nhóm tiotropium/olodaterol 5/5 và 2.5/5 μg =317 và 295 mL so với FEV1 AUC 0–12 của nhóm salmeterol/fluticasone 50/500 và 50/250 μg =188 và 192 mL). Tất cả các thuốc điều trị đều có tính dung nạp tốt. Tuy nhiên, thời gian nghiên cứu vẫn còn quá ngắn để có thể phát hiện sự khác biệt có ý nghĩa về các tiêu chí ghi nhận từ bệnh nhân hay tỉ lệ viêm phổi. Liệu chúng ta có thể dứt bỏ ICS ở bệnh nhân COPD để chuyển sang dạng mới LAMA/LABA dạng kết hợp định liều? Căn cứ vào phản ứng bất lợi đáng kể và tăng tỉ lệ viêm phổi mới mắc khi dùng ICS lâu dài, tính an toàn và hiệu quả thuận lợi của các thuốc mới LAMA/LABA FDCs so với ICS/ LABA ở bệnh nhân COPD rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, có thể chúng ta dứt hẳn ICS cho bệnh nhân COPD một cách an toàn và thay bằng các thuốc mới này mà không gây nguy hiểm trong việc kiểm soát bệnh hoặc nguy cơ gây ra các đợt kịch phát? Câu trả lời cho vấn đề quan trọng này đã có, thời gian gần đây, đó là từ nghiên cứu về việc rút ICS trong việc quản lý tối ưu thuốc giãn phế (Nghiên cứu WISDOM-The Withdrawal of Inhaled Dịch 42 Hô hấp số 13/2017 Steroids during Optimized Bronchodilator Management)(17). Trong nghiên cứu đoàn hệ quy mô lớn trên bệnh nhân COPD từ giai đoạn nặng đến rất nặng, các nhà nghiên cứu đã rút ICS (fluticasone) thành công mà không gây tác hại nguy hiểm đáng kể trên lâm sàng qua các tiêu chí ghi nhận từ bệnh nhân, cũng như không làm tăng thêm tỉ lệ đợt cấp có ý nghĩa về mặt thống kê (17). Trong nghiên cứu, bệnh nhân ngừng ICS đã được duy trì LAMA và LABA hít, trong khi nhóm chứng tiếp tục tam trị liệu. FEV1 trung bình giảm không đáng kể sau 18 tuần (−38 mL, P <0.001) và 1 năm (−43 mL, P=0.001) trong nhóm điều trị so với nhóm đối chứng. Sự khác biệt về chỉ số khó thở (Thang điểm điều chỉnh của Hội đồng nghiên cứu Y khoa [mMRC]) và bảng đánh giá về chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe là thấp và không có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Vai trò tiềm năng của việc đếm bạch cầu ái toan trong máu trong việc tiên đoán đáp ứng với ICS: Một phân tích post hoc của nghiên cứu WISDOM gợi ý việc điều trị với ICS lâu dài có thể làm giảm tần suất đợt cấp trong một nhóm nhỏ bệnh nhân COPD trung bình đến nặng có bạch cầu ái toan trong máu >300 tế bào/μL (hoặc> 4% tổng số bạch cầu)(18). Trong một phân tích tách biệt của 2 nghiên cứu lớn đa quốc gia so sánh việc điều trị sử dụng fluticasone furoate/vilanterol ngày một lần với vilanterol ngày một lần, Hinds và cs nhận thấy tất cả bệnh nhân có bạch cầu ái toan> 2.4%, nhìn chung, có đáp ứng tốt hơn với fluticasone furoate/vilanterol(19). Tuy nhiên, có một tác động ảnh hưởng từ thuốc lá lên các kết quả. Những rút ra từ các phân tích này cho thấy, nhìn chung bạch cầu ái toan thấp (≤2.4%) kết hợp với hút thuốc lá nặng (>46 gói năm) có thể tiên đoán sự đáp ứng kém với ICS và không làm giảm tần suất đợt cấp một cách có ý nghĩa. Trong khi đó cần xác nhận các điểm cắt về bạch cầu ái toan trong máu ở những bệnh nhân thường bị đợt cấp là các dấu ấn đáng tin cậy về sự đáp ứng với ICS. Điều thú vị là nghiên cứu FLAME cho thấy tần suất đợt cấp giảm trong nhóm bệnh nhân được điều trị với indacaterol-/ glycopyrronium khi so sánh với nhóm điều trị bằng fluticasone-/salmeterol mà không lưu tâm đến lượng bạch cầu ái toan trong máu của người bệnh(14). Ước tính giá thành của các thuốc mới LAMA/LABA FDCs: giá một tháng điều trị bằng các thuốc hít mới này ở trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu được so sánh như sau: 1. Umeclidinium/vilanterol £32.00 2. Tiotropium/olodaterol £32.50 3. Aclidinium/formoterol £32.50 4. Indacaterol/glycopyrronium £32.50 Một tháng điều trị với thuốc kết hợp chính hãng fluticasone/salmeterol 500/50 μg (glaxoSmithKline) và budesonide/formoterol 400/12 μg (AstraZeneca) bột hít khô có giá thành cao hơn các thuốc mới LAMA/LABA FDCs (£40.80 cho fluticasone/salmeterol và £38.00 cho budesonide/formoterol). Tuy nhiên, một tháng điều trị bằng beclomethasone/formoterol 100/6 μg bình xịt định liều (Chiesi Limited, Manchester, UK), hai xịt hai lần mỗi ngày, hay các thuốc generic fluticasone/salmeterol 500/50 μg hít, có thể có giá thấp hơn không đáng kể với giá lần lượt là £29.32 và £29.97. Price và cộng sự ước tính trên 26% bệnh nhân COPD (sau khi loại các trường hợp đồng mắc hen) ở Trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu của Anh đang dùng ICS/LABA đơn thuần.(2) Phân nhóm này có vẻ lý tưởng khi Dịch 43 Hô hấp số 13/2017 chuyển sang giãn phế quản kép với LAMA/ LABA FDCs. Căn cứ vào ước lượng của Prie và cs, chúng tôi ước tính có khoảng 730 bệnh nhân COPD được nhóm Luton Clinical Commissioning group (CCg) quản lý và 1,900 bệnh nhân được Bedford CCg quản lý có sử dụng ICS/LABA đơn thuần (Danh sách bệnh nhân từ Luton và Bedford CCg, 2016). Phần lớn những bệnh nhân này có thể không bị đợt cấp hay không có bạch cầu ái toan >300 tế bào /μL. Rõ ràng, việc điều trị với ICSD liên tục có thể gây thiệt hại đáng kể cho những bệnh nhân này mà không mang đến bất cứ lợi ích nào. Do đó, họ nên được chuyển từ ICS/LABA sang LAMA/LABA dạng hít. Suy từ kết quả của 2 nghiên cứu được công bố so sánh indacaterol/glycopyrronium với fluticasone/salmeterol, đó là các nghiên cứu thử nghiệm LANTERN(13) và FLAME(14), chúng ta ước tính việc rút ICS/LABA sang indacaterol/glycopyrronium FDC ở các vùng Bedford and Luton CCg (n=2630) có thể có khả năng làm giảm tỉ lệ đợt cấp từ trung bình đến nặng 150 trường hợp mỗi năm. Chuyển phân nhóm này sang thuốc cạnh tranh LAMA/LABA indacaterol/glycopyrronium FDC, là umeclidinium/vilanterol, tiotropium/ olodaterol và aclidinium/formoterol, có thể có khả năng đạt được hiệu quả như nhau. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa có dữ liệu so sánh tỉ lệ đợt cấp trong các nghiên cứu lâu dài của các thuốc FDCs trên. LAMA/LABA FDCs làm giảm nguy cơ viêm phổi một cách đáng kể từ 33%-67% so với các dạng thuốc phối hợp có chứa ICS. Tần suất viêm phổi hàng năm trong nhóm indacaterol/glycopyrronium =0.8% so với fluticasone/salmeterol =2.7% trong nghiên cứu LANTERN13, tần suất viêm phổi hàng năm trong nhóm indacaterol/glycopyrronium là 3.2% so với nhóm fluticasone/salmeterol =4.8% trong nghiên cứu FLAME(14), và viêm phổi trong 24 tuần điều trị bằng aclidinium/ formoterol = 0.6% so với fluticasone/ salmeterol = 1.9%(15). Vì thế việc chuyển từ ICS/LABA sang LAMA/LABA với số lượng bệnh nhân ước lượng 2,630 COPD sử dụng ICS/LABA đơn thuần ở Bedfordshire, có thể cũng làm giảm số lượng viêm phổi hàng năm 40-70 trường hợp ít hơn trước. Căn cứ vào tần suất đợt cấp mức độ trung bình đến nặng và tần suất viêm phổi hàng năm giảm đáng kể, việc chuyển từ ICS/LABA sang LAMA/LABA FDCs làm tiết kiệm chi phí điều trị một cách đáng kể. Thêm vào đó, việc tránh tác dụng phụ kéo dài của corticoid là nguyên nhân cho việc chuyển thuốc hiện nay thực sự hết sức thuyết phục. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN CÁO Tóm lại, các dữ liệu so sánh trên các thử nghiệm về các thuốc hít mới LAMA/LABA FDC so với một trong các thuốc kết hợp ICS/ LABA (fluticasone với salmeterol) hiện nay đã sẵn có, các kết quả có lợi thiên về LAMA/ LABA có ý nghĩa trên phương diện hiệu quả (cải thiện FEV1), kết quả ghi nhận từ bệnh nhân (TDI, mMRC) và việc đo lường chất lượng cuộc sống (SgRQ). Hơn thế nữa, tỉ lệ đợt cấp giảm một cách có ý nghĩa cũng thể hiện trong các thử nghiệm có thời gian lâu hơn với một số giãn phế quản hít dạng kép. Một tổng quan hệ thống Cochrane được xuất bản gần đây bàn về điều trị bằng thuốc hít phối hợp hiện có cho bệnh COPD đã kết luận rằng “Mặc dù nguy cơ phản ứng bất lợi nghiêm trọng và tử vong không bị tác động bởi sự lựa chọn trong điều trị, so với LABA +ICS, LAMA +LABA có liên quan đến việc giảm nguy cơ đợt cấp, ít đợt viêm phổi hơn, cải thiện thiện nhiều hơn về chức năng phổi, cải thiện chất lượng cuộc sống”(20). Dịch 44 Hô hấp số 13/2017 Hiển nhiên có những lo ngại về việc chúng ta sử dụng quá mức và lâu dài ICS/ LABA trong điều trị COPD dẫn đến tác dụng phụ đáng kể, và nguy cơ làm tăng tần suất mới mắc viêm phổi mới(13-15,21). Tuy nhiên, hiện nay có bằng chứng tốt cho việc rút ICS/ LABA dạng hít ở bệnh nhân COPD trung bình đến nặng sang thuốc dạng hít mới LAMA/ LABA. Các thuốc LAMA/LABA FDCs hiện hành cho hiệu quả tốt có thể sánh được và các phản ứng bất lợi lại ít hơn hẳn. Việc chuyển điều trị cho bệnh nhân từ ICS/LABA sang LAMA/LABA dạng hít sẽ đạt giá thành hiệu quả trên phương diện giảm tần suất đợt cấp COPD và viêm phổi. giá thành từ các bệnh lý do biến chứng kéo dài từ ICS (gãy xương do loãng xương gây ra bởi corticoid, đái tháo đường, đục thủy tinh thể) ngày càng khó để ước tính. Rút lui dần việc sử dụng ICS/LABA dạng hít từ những lợi thế của LAMA/LABA FDCs ở một số lớn bệnh nhân COPD sẽ giảm đáng kể tần suất mới mắc của các biến chứng gây ra liên quan đến việc dùng corticoid kéo dài. Vì thế, chúng tôi khuyến cáo: 1. Với bệnh nhân mới được chẩn đoán COPD: - Chấp nhận cả 4 thuốc hít LAMA/LABA là điều trị đầu tay với bệnh nhân COPD trung bình đến nặng có triệu chứng. - Những bệnh nhân có đợt cấp: Xem xét lượng bạch cầu ái toan: o Nếu số lượng bạch cầu ái toan >0.3×109 μL – Kê toa ICS liều thấp (ví dụ, beclomethasone 100 µg/xịt bình định liều, 2 xịt 2 lần mỗi ngày). o Nếu số lượng bạc cầu ái toan < 0.3×109 μL – loại bỏ giãn phế quản, điều tri bằng LAMA/LABA FDC, và xem xét sử dụng kháng sinh dài hạn (azithromycin 250 mg 3 lần mỗi tuần hay doxycycline 100 mg một lần mỗi ngày). o Nếu có giãn phế quản kèm theo – xem xét sử dụng thêm các thuốc để loại bỏ đàm +/- tan đàm (carbocisteine). 2. Bệnh nhân COPD hiện tại đang dùng ICS/LABA: - Bệnh nhân bị đợt cấp o Nếu bạch cầu ái toan <0.3×109 μL – bỏ ICS/LABA và bắt đầu với một LAMA/ LABA. Nếu họ vẫn bị đợt cấp, loại bỏ giãn phế quản và xem xét đến việc sử dụng kháng sinh dài hạn (azithromycin 250 mg ba lẫn mỗi tuần hoặc doxycycline 100 mg ngày một lần). o Nếu bạch cầu ái toan > 0.3×109 μL – tiếp tục ICS/LABA và thêm một LAMA - Bệnh nhân không bị đợt cấp o Bỏ ICS/LABA và bắt đầu bằng một LAMA/LABA. o Thay đổi chế độ cai ICS phù hợp với nghiên cứu WISDOM, dùng thuốc hít thích hợp chứa ICS khác với fluticasone, đặc biệt là ở những bệnh nhân thường bị đợt cấp. Nghiên cứu WISDOM tuân theo một phác đồ thực hành cho việc cai dần fluticasone (17,18). o Theo dõi sát bệnh nhân cai ICS với tần suất thăm khám ít nhất mỗi 2-3 tháng vì một số ít bệnh nhân có thể có triệu chứng COPD xấu hơn một ít sau khi ngừng ICS(17,18). Những gợi ý trên hiện có rộng rãi với hướng dẫn gOLD được cập nhật gần đây(3). Hướng dẫn điều trị của gOLD khuyến cáo bắt đầu với LAMA hoặc LABA đơn trị liệu cho bệnh nhân COPD có triệu chứng, và sau đó tăng bậc lên LAMA/LABA FDC nếu đáp ứng lâm sàng chưa tối ưu(3). Tuy nhiên dựa vào hiệu quả tốt hơn, độ dung nạp tương đương và giá Dịch 45 Hô hấp số 13/2017 thành của LAMA/LABA FDCs so với các đơn chất của chúng, việc dùng các thuốc này như thuốc đầu tay cho bệnh nhân COPD có triệu chứng mới được chẩn đoán có thể chính đáng. Việc sử dụng ICS đơn thuần không cải thiện đươc chức năng phổi đạt đến mức độ có ý nghĩa về mặt lâm sàng trong COPD. Tuy nhiên, khi kết hợp với giãn phế quản, nó có lợi với những bệnh nhân có hội chứng chồng lấp hen COPD (ACOS)(22). Với phân nhóm những người thường bị đợt cấp, chúng ta cần có nhiều nghiên cứu hơn về giá trị của bạch cầu ái toan trong máu để tiên đoán đáp ứng với ICS. Trong nghiên cứu WISDOM, có một tỉ lệ nhỏ bệnh nhân bị đợt cấp với bạch cầu ái toan> 300 tế bào/μL chịu nhiều đợt cấp hơn sau khi ngừng ICS(18). Vì thế, hiện nay phần lớn những bệnh nhân COPD trung bình-nặng đang dùng ICS/LABA hít có hay không một LAMA hít có thể rút ICS và thành công khi sang một trong các thuốc hít mới LAMA/ LABA. Dựa trên kết quả của nghiên cứu WISDOM, chúng tôi đã gợi ý dùng số lượng bạch cầu ái toan trong máu 0.3×109 μL như là yếu tố chỉ điểm tiềm năng về đáp ứng của ICS với bệnh nhân COPD. Tuy thừa nhận bằng chứng hiển nhiên cho điều này vẫn còn chưa đủ, chúng tôi tin rằng đây là một tiếp cận thực hành cho đến khi giải quyết được dấu ấn đáng tin cậy nhất cho đáp ứng ICS và giá trị điểm cắt tương ứng. Ngoài việc đếm bạch cầu ái toan trong máu, một dấu ấn có tiềm năng khác dùng để tiên đoán đáp ứng điều trị với ICS ở bệnh nhân COPD là nồng độ khí NO thở ra ở giai đoạn ổn định (FeNO) và sự hiện diện của cơ địa. Một nghiên cứu gần đây trên 200 bệnh nhân COPD cho thấy 8% bênh nhân có nồng độ FeNO ở mức trung bình 25–50 parts per billion (ppb) và 3% có nồng độ cao >50 ppb(23). Điều thú vị là, những bệnh nhân có nồng độ FeNO trung bình và cao thường có chung đặc điểm của hen/COPD chồng lấp(23). Hiệp hội Hô hấp châu Âu nghiên cứu về Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính phát hiện yếu tố cơ địa chiếm 18% trong số bệnh nhân COPD(24). Những bệnh nhân này thường là nam giới, thừa cân/béo phì và trẻ hơn, họ thường có tần suất bị ho cao hơn (Tỉ số chênh [OR] 1.71) và đàm (OR 1.50). Những triệu chứng này đáp ứng tốt với điều trị budesonide hít(24). Điều không may là, không có bất cứ ảnh hưởng nào của ICS trên tần suất đợt cấp trong nghiên cứu đoàn hệ này được ghi nhận. Vì thế cần thiết được đánh giá nhiều hơn FeNO và yếu tố cơ địa như các dấu ấn tiềm năng cho đáp ứng ICS ở bệnh nhân COPD. Với những bệnh nhân bị đợt cấp thường xuyên có bạch cầu ái toan > 300 con/μL, việc điều trị bằng kháng sinh dự phòng kéo dài (azithromycin 250 mg ba lần mỗi tuần, hoặc doxycycline 100 mg mỗi ngày) thêm với một LAMA/LABA FDC hít thích hợp(25,26). Tuy nhiên sự xuất hiện của chủng vi khuẩn kháng thuốc vẫn còn là mối quan tâm đáng kể khi dùng kháng sinh phổ rộng kéo dài(27). Nhìn chung, kháng sinh macrolide có tính bao phủ cho các tác nhân thường gặp hàng ngày trong đợt cấp COPD(28). Khi sử dụng chúng như tác nhân phòng ngừa đợt cấp do nhiễm khuẩn cho những bệnh như COPD, giãn phế quản không thuộc nhóm bệnh phổi xơ nang, và viêm quanh tiểu phế quản lan tỏa, chúng có thể được sử dụng với hiệu quả điều hòa miễn dịch mức độ lan rộng làm hạn chế sự hư hại cho mô gây ra bởi bạch cầu đa nhân trung tính(28). Tuy nhiên, khi thực hành chúng ta nên lưu ý thích đáng và theo dõi sát bệnh nhân, vì sử dụng lâu dài macrolide có thể gây những tác dụng phụ đáng kể như giảm thích lực và gây độc tính cho gan. Dịch 46 Hô hấp số 13/2017 Doxycycline là một thay thế, có thể có lợi ích tiềm tàng khi sử dụng trong phòng ngừa chống nhiễm khuẩn đợt cấp trong COPD. Nó cũng có hiệu quả lâm sàng đáng kể chống lại các tác nhân trong đợt cấp COPD và có chứa nhiều thành phần kháng viêm, bao gồm ức chế sự thu hút bạch cầu đa nhân trung tính và các men ức chế khuôn metalloproteinase(26). Khảo sát các yếu tố đợt cấp thường xuyên về sự đồng mắc giãn phế quản là vấn đề được khuyến cáo vì nó có thể có lợi hơn trong việc tập khạc đàm hàng ngày và điều trị đều đặn bằng tác nhân tan đàm carbocisteine. Các thuốc phối hợp định liều mới LAMA/ LABA FDCs hiện nay có mặt rộng rãi và là phần thêm vào được chào đón cho những lựa chọn hiện hành trong điều trị duy trì COPD. Tuy nhiên, các liều trong mỗi lần hít/xịt của các thuốc này có thể thay đổi khác nhau giữa các nước và các vùng. Vì thế ở một số nước, hiệu quả điều trị của các thuốc LAMA/ LABA mới phối hợp định liều có thể không tương thích với các kết quả và tiêu chí của các nghiên cứu được liệt kê trong tổng quan này. Lời cám ơn: Chúng tôi xin cám ơn Azim và Partners, grovemead Health Centre, 67 Elliot Road, London NW4 3EB, đã cung cấp chi phí điều trị hiện tại hàng tháng của bệnh nhân COPD với ICS/LABA và LAMA/LABA dạng hít -dữ liệu từ Trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu của Vương quốc Anh. Khai báo: Các tái giả xác nhận không có xung đột lợi ích với bài viết này. Tài liệu tham khảo xin xem bản gốc trên web: www.hoitho-cuocsong.org.vn/Cần Thơ
File đính kèm:
dieu_tri_duy_tri_copd_da_den_luc_rut_ics_va_chuyen_sang_cac.pdf

