Điều trị COPD theo phân nhóm ABCD như GOLD hay theo kiểu hình?
COPD là một bệnh mạn tính của đường hô hấp có tính đa dạng nên có nhiều biểu hiện lâm sàng khác nhau
không chỉ ở phổi mà còn ở nhiều cơ quan khác. Các hướng dẫn điều trị một bệnh nào đó lúc nào cũng phải
cân bằng giữa tính đơn giản và dễ áp dụng với tính chi tiết, đầy đủ để có thể cá thể hoá việc điều trị. Hướng
dẫn điều trị COPD theo GOLD trong một thời gian dài sử dụng FEV1 là một chỉ số duy nhất để xếp loại và
lựa chọn điều trị. Chỉ số này đơn giản nên rất dễ thực hiện nhưng nhiều bằng chứng cho thấy chỉ một mình
FEV
1 không đủ để hướng dẫn điều trị COPD. Do vậy, GOLD đã điều chỉnh mô hình quản lý COPD theo
phân nhóm ABCD và hiện đang áp dụng từ năm 2011 đến nay (dù có một số thay đổi nhỏ). Tuy nhiên, các
phân chia bệnh nhân thành 4 nhóm (ABCD) dựa vào triệu chứng lâm sàng và nguy cơ đợt cấp như GOLD
(từ năm 2017 đến nay) vẫn chưa thể đem lại lợi ích cho một nhóm bệnh nhân có những đặc điểm lâm sàng
chung và đáp ứng tốt với một can thiệp điều trị nào đó. Nhóm bệnh nhân có chung đặc điểm như vậy gọi
là có chung một “kiểu hình”. Một số tác giả đề xuất điều trị COPD nên dựa vào kiểu hình vì cách tiếp cận
này phù hợp với xu hướng điều trị “nhắm trúng đích” trong y khoa hiện nay. Bài tổng quan này bàn luận về
ưu nhược điểm của cách quản lý COPD hiện nay theo GOLD và theo kiểu hình. Ngoài ra, mô hình quản lý
COPD đa yếu tố cũng được giới thiệu và thảo luận.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị COPD theo phân nhóm ABCD như GOLD hay theo kiểu hình?
Hướng dẫn tHực HànH 33 Hô hấp số 17/2018 ĐIỀU TRỊ COPD THEO PHÂN NHÓM ABCD NHƯ GOLD HAy THEO KIỂU HÌNH? THS. BS. NGUyễN NHƯ VINH Khoa Thăm dò chức năng Hô hấp – Bệnh viện Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh Trung tâm Đào tạo Bác sĩ Gia đình – Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh Tóm tắt COPD là một bệnh mạn tính của đường hô hấp có tính đa dạng nên có nhiều biểu hiện lâm sàng khác nhau không chỉ ở phổi mà còn ở nhiều cơ quan khác. Các hướng dẫn điều trị một bệnh nào đó lúc nào cũng phải cân bằng giữa tính đơn giản và dễ áp dụng với tính chi tiết, đầy đủ để có thể cá thể hoá việc điều trị. Hướng dẫn điều trị COPD theo GOLD trong một thời gian dài sử dụng FEV 1 là một chỉ số duy nhất để xếp loại và lựa chọn điều trị. Chỉ số này đơn giản nên rất dễ thực hiện nhưng nhiều bằng chứng cho thấy chỉ một mình FEV 1 không đủ để hướng dẫn điều trị COPD. Do vậy, GOLD đã điều chỉnh mô hình quản lý COPD theo phân nhóm ABCD và hiện đang áp dụng từ năm 2011 đến nay (dù có một số thay đổi nhỏ). Tuy nhiên, các phân chia bệnh nhân thành 4 nhóm (ABCD) dựa vào triệu chứng lâm sàng và nguy cơ đợt cấp như GOLD (từ năm 2017 đến nay) vẫn chưa thể đem lại lợi ích cho một nhóm bệnh nhân có những đặc điểm lâm sàng chung và đáp ứng tốt với một can thiệp điều trị nào đó. Nhóm bệnh nhân có chung đặc điểm như vậy gọi là có chung một “kiểu hình”. Một số tác giả đề xuất điều trị COPD nên dựa vào kiểu hình vì cách tiếp cận này phù hợp với xu hướng điều trị “nhắm trúng đích” trong y khoa hiện nay. Bài tổng quan này bàn luận về ưu nhược điểm của cách quản lý COPD hiện nay theo GOLD và theo kiểu hình. Ngoài ra, mô hình quản lý COPD đa yếu tố cũng được giới thiệu và thảo luận. Abstract Should COPD treatment follow the ABCD group approach as GOLD guidelines or based on clinical phenotype? COPD is a chronic lung disease which is heterogeneous thus there are many different clinical manifestations not only in the lungs but also in many other organs. Guidelinesfor any disease management are always balanced between simplicity and ease of use and detail, sufficient to be able to personalize treatment. The GOLDguidelinesfor a long time using FEV 1 is a unique indicator for grading and selecting treatment of COPD. This index is simple, so it is easy to implement the guidelines in clinical practice, however, many evidences suggested that FEV 1 alone is not enough to guide COPD treatment.Consequently, GOLD has adjusted the COPD management model under the ABCD subgroup strategy and is currently in use from 2011 to now (although there are some minor changes). However, categorizing all patients into four groups (ABCD) based on clinical symptoms and risks of exacerbation as GOLD (since 2017) has not yet been able to benefit for a group of patients who had common clinical characteristics and benefit from a particular treatment. The group of patients who share such features is called having the same“clinical phenotype”. Some authors recommended using phenotyping strategy in COPD management because this approach is consistent with the current “targeting treatment” of modern medicine. This paper will discuss advantages and disadvantages of the current COPD management byGODL guidelines and phenotyping strategy. In addition, themultidimensional approach in COPD treatmentis also introduced and discussed. Hướng dẫn tHực HànH 34 Hô hấp số 17/2018 1. ĐẶT VẤN ĐỀ COPD là một bệnh mạn tính của đường hô hấp với các biểu hiện lâm sàng gồm ho, khạc đàm và khó thở kéo dài. Bệnh có xu hướng diễn tiến ngày càng nặng với mức độ sụt giảm chức năng hô hấp (FEV 1 ) ngày càng nhiều và cho đến nay chưa có biện pháp can thiệp bằng thuốc nào có thể ngăn chặn được diễn tiến ngày càng nặng hơn của bệnh. Tình trạng viêm trong COPD không chỉ xảy ra ở phổi mà còn phát hiện ở nhiều hệ cơ quan khác nên COPD còn được xem là bệnh toàn thân. Do vậy, bên cạnh các biểu hiện tại phổi thì các biểu hiện tại các cơ quan khác cũng góp phần vào diễn tiến, tiên lượng và nên được xem xét trong lựa chọn điều trị cho người bệnh. Xen lẫn với diễn tiến ngày càng nặng dần của bệnh là các đợt cấp mà mỗi khi xuất hiện sẽ gây nhiều biến cố bất lợi cho người bệnh như tiến triển của bệnh nhanh hơn, chi phí điều trị tăng cao hơn và rất dễ bị tử vong. Do vậy, mục tiêu điều trị COPD từ trước đến nay là giảm triệu chứng (bao gồm giảm các triệu chứng, cải thiện khả năng gắng sức và cải thiện tình trạng sức khoẻ) để người bệnh có chất lượng cuộc sống tốt hơn và ngăn ngừa các nguy cơ (bao gồm nguy cơ xuất hiện các đợt cấp, nguy cơ tiến triển nhanh của bệnh và nguy cơ tử vong) (1). Để có thể đạt được mục tiêu điều trị này, hiện nay có nhiều cách tiếp cận điều trị đã và đang được áp dụng cho bệnh nhân COPD. Trong đó, 2 cách đang được ứng dụng nhiều nhất là điều trị theo hướng dẫn của GOLD dựa vào cách phân nhóm bệnh nhân (thành 4 nhóm A, B, C và D) và điều trị dựa vào kiểu hình của bệnh nhân. Ngoài ra còn có cách điều trị dựa vào nhiều yếu tố gọi là tiếp cận điều trị đa yếu tố. Ưu nhược điểm của từng cách tiếp cận sẽ được trình bày trong bài tổng quan này. 2. COPD VÀ ĐIỀU TRỊ COPD COPD là bệnh hô hấp phổ biến có thể phòng và điều trị được. Bệnh đặc trưng bởi các triệu chứng hô hấp dai dẳng và giới hạn luồng khí, là hậu quả của những bất thường của đường thở và/hoặc phế nang thường do phơi nhiễm với các phân tử hoặc khí độc hại, trong đó khói thuốc lá, thuốc lào là yếu tố nguy cơ chính, ô nhiễm không khí và khói chất đốt cũng là yếu tố nguy cơ quan trọng gây COPD. Các bệnh đồng mắc và đợt kịch phát làm nặng thêm tình trạng bệnh. Đây là bệnh gây ra do sự tương tác giữa bộ gen của bệnh nhân với các tác nhân môi trường bên ngoài. Do sự đa dạng về kiểu gen và sự tác động khác nhau giữa kiểu gen với các yếu tố bên ngoài ở những cá thể riêng biệt, bệnh COPD có rất nhiều biểu hiện khác nhau trên lâm sàng. Tuy vậy, 2 yếu tố chung nhất là triệu chứng khó thở và xen kẽ các giai đoạn ổn định là các đợt cấp. Do vậy, nếu xem xét một cách tương đối đầy đủ thì rất nhiều yếu tố nên được xem xét trong chẩn đoán, phân loại, can thiệp điều trị và cả tiên lượng cho bệnh nhân COPD. Các yếu tố này được liệt kê ở bảng 1 và được gọi là các biến số độc lập liên quan đến biểu hiện lâm sàng và tiên lượng của bệnh nhân COPD. Bảng 1. Các ví dụ về đặc điểm lâm sàng, giải phẫu, chức năng và biểu hiện toàn thân có liên quan đến lâm sàng và/hoặc tiên lượng trong COPD(2) Đặc điểm lâm sàng: − Khó thở − Tăng tiết nhầy − Khả năng gắng sức − Đợt cấp Đáp ứng viêm đường thở: − Tình trạng viêm tại chỗ − Kiểu viêm Đặc điểm giải phẫu và hình ảnh học: − Dày thành đường thở − Căng phồng phổi − Hồi phục phế quản − Tăng đáp ứng phế quản Biểu hiện toàn thân và bệnh đồng mắc: − Viêm toàn thân − Thay đổi dinh dưỡng − Rối loạn chức năng cơ ngoại biên − Ảnh hưởng lên hệ tim mạch − Các bệnh đồng mắc khác Hướng dẫn tHực HànH 35 Hô hấp số 17/2018 Cách tiếp cận như trên đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Đầu tiên là không phải tất cả các bệnh nhân COPD đều có FEV 1 sụt giảm nhanh hơn người bình thường (sụt giảm sinh lý) theo thời gian. Trong nghiên cứu ECLIPSE theo dõi FEV 1 ở bệnh nhân COPD trong 3 năm, các tác giả nhận thấy mức độ sụt giảm FEV 1 rất không đồng nhất giữa các bệnh nhân và thậm chí có nhóm bệnh nhân có FEV 1 cải thiện hơn trong 3 năm theo dõi (3). Một vấn đề khác là không có sự tương quan tốt giữa FEV 1 và triệu chứng lâm sàng nghĩa là khi FEV 1 giảm nhiều, nhiều bệnh nhân vẫn không có triệu chứng lâm sàng diễn tiến nặng hơn tương ứng và ngược lại (4). Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng chứng minh được rằng giới hạn đường thở (FEV 1 ) không phản ánh chính xác gánh nặng bệnh tật và liên quan kém với các kết cục lâm sàng có lợi cho bệnh nhân như khả năng gắng sức, mức độ khó thở 35 Hô hấp số 17/2018 Với những hiểu biết về cơ chế bệnh sinh và biểu hiện tại chỗ cũng như toàn thân của COPD, để có một cách tiếp cận đầy đủ nhất nhằm đem lại lợi ích điều trị tối ưu cho từng cá thể người bệnh thì tất cả các yếu tố liên quan như trên và nhiều đặc điểm nữa cần phải được xem xét. Tuy nhiên, để có thể có áp dụng được trên lâm sàng ở nhiều hoàn cảnh y tế khác nhau (nước phát triển khác nước đang phát triển, y tế tuyến cao khác tuyến chăm sóc ban đầu) thì các cách tiếp cận/hướng dẫn phải đủ đơn giản để có thể áp dụng. Vì lý do này, mỗi cách tiếp cận hiện nay đều có những ưu và nhược điểm và đều phải cân bằng giữa tính toàn diện khi đánh giá bệnh và tính đơn giản dễ áp dụng trong thực hành lâm sàng. Hiện có 3 cách tiếp cận đang được áp dụng phổ biến tại nhiều nơi trên thế giới và đặc điểm của từng cách tiếp cận được mô tả ở các phần sau đây. 3. CÁC CÁCH TIẾP CẬN ĐIỀU TRỊ COPD HIỆN NAy Tiếp cận điều trị COPD dựa vào các biến số độc lập: Có nhiều yếu tố liên quan đến cơ chế bệnh sinh, biểu hiện lâm sàng và diễn tiến bệnh của COPD như trình bày ở bảng 1. Các yếu tố này liên quan một cách độc lập đến tiên lượng bệnh nên có thể cung cấp một bức tranh toàn diện về tình trạng bệnh và giúp xây dựng một chiến lược điều trị thích hợp. Việc sử dụng 1 hay nhiều các biến số độc lập này để xây dựng mô hình điều trị bệnh nhân COPD được gọi là tiếp cận điều trị COPD dựa vào các biến số độc lập. Hướng dẫn quản lý COPD của GOLD đi theo cách tiếp cận này trong tất cả các phiên bản dù đã có nhiều sửa đổi từ khi mới ra đời năm 1998 cho đến hiện nay (phiên bản 2019). GOLD các phiên bản 1998 - 2010: Trong các biến số được sử dụng thì tình trạng tắc nghẽn đường thở được các phiên bản GOLD trước năm 2011 xem là biến số quan trọng nhất. Mức độ nặng của tình trạng tắc nghẽn có vai trò quan trọng trong chẩn đoán COPD và góp phần vào xếp loại và tiên lượng cho bệnh nhân. Do vậy, các hướng điều trị ở thời điểm này sử dụng FEV 1 để xếp giai đoạn COPD thành 4 mức từ nhẹ đến nặng và căn cứ vào cách xếp loại này để lựa chọn điều trị như bảng 2. Bảng 2. Cách phân giai đoạn và hướng dẫn điều trị theo GOLD trước năm 2011 Cách phân giai đoạn − Nhẹ (giai đoạn 1): FEV 1 ≥ 80% − Trung bình (giai đoạn 2): 50% ≤ FEV 1 < 80% − Nặng (giai đoạn 3): 30% ≤ FEV 1 < 50% − Rất nặng (giai đoạn 4): FEV 1 < 30% Điều trị bằng thuốc dựa vào giai đoạn − Nhẹ: Thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn khi cần − Trung bình: thêm thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài − Nặng: Thêm ICS − Rất nặng: Thêm thở oxy Hướng dẫn tHực HànH 36 Hô hấp số 17/2018 hay tình trạng sức khoẻ (5). Do vậy điều trị COPD chỉ dựa vào FEV 1 không đem lại hiệu quả như mong đợi. Để khắc phục nhược điểm này và để có được một cách tiếp cận điều trị hợp lý, các tác giả đã chọn nhiều hơn một biến số để có thể phản ánh chính xác hơn mức độ nặng và tính phức tạp của bệnh COPD. Để có thể áp dụng trong thực hành, các biến số này phải đơn giản, dễ thu thập nhưng cũng đủ đại diện để mô tả được một cách chính xác bệnh. Cách tiếp cận dựa vào một nhóm biến số như vậy đã được các tác giả Tây Ban Nha mô tả đầu tiên năm 2010 (6) và trong mô hình này, 3 biến số quan trọng được xem xét là FEV 1 , mức độ khó thở và nguy cơ đợt cấp được mô tả thành 3 trục như hình 1. Mỗi trục được xem xét một cách độc lập và chiến lược tổng hợp sẽ dựa nhiều vào trục có mức độ nặng nhất. Một năm sau đó, GOLD 2011 được xây dựng trên cùng ý tưởng với bảng 2x2 và ba biến số như trên (hình 2). Hình 1. Mô hình tiếp cận điều trị dựa vào tổng hợp 3 biến số độc lập của các tác giả Tây Ban Nha (2,6) GOLD 2011: GOLD 2011 nhấn mạnh vai trò của triệu chứng vì nó liên quan với chất lượng cuộc sống (liên quan đến bệnh tật) của bệnh nhân hơn tình trạng tắc nghẽn (7,8). Thêm vào đó, tầm quan trọng của đợt cấp cũng được nhìn nhận đúng mức trong thời gian đó. Do vậy GOLD 2011 không xếp loại COPD chỉ dựa vào mức độ tắc nghẽn (FEV 1 ) một mình nữa mà thêm các biến số thể hiện tác động của bệnh lên người bệnh là triệu chứng (bao gồm giới hạn vận động) và nguy cơ đợt cấp (9). Mặc dù sử dụng 3 biến số giống các tác giả Tây Ban Nha năm 2010 nhưng cách xếp loại bệnh nhân COPD được chia thành 4 nhóm ABCD dựa vào 2 trục là mức độ triệu chứng và nguy cơ đợt cấp (hình 2). Mức độ triệu chứng được đánh giá dựa vào thang điểm khó thở mMRC hay bảng câu hỏi đánh giá COPD là CAT. Nguy cơ đợt cấp được đánh giá dựa vào mức FEV 1 so với giá trị dự đoán hay tiền sử có đợt cấp trong 1 năm vừa qua (lựa chọn cuối cùng dựa vào tiêu chí nào có mức độ nguy cơ cao hơn). Hình 2. Xếp loại COPD theo 4 nhóm ABCD theo GOLD 2011 Như vậy có 4 nhóm bệnh nhân COPD với các đặc điểm là A (nguy cơ thấp, ít triệu chứng), B (nguy cơ thấp, nhiều triệu chứng), C (nguy cơ cao, ít triệu chứng) và D (nguy cơ cao, nhiều triệu chứng) (9). Trên cơ sở phân loại này, các trị liệu thuốc sẽ được chỉ định. Cách xếp loại này mặc dù có nhiều tiến bộ vì được cho là lần đầu tiên lấy bệnh nhân làm trung tâm với việc quan tâm đến các tiêu chí mà bệnh nhân cảm nhận được hay tác động trực tiếp đến người bệnh là triệu chứng lâm sàng và đợt cấp nhưng cách tiếp cận này vẫn còn rất nhiều bất cập khi áp dụng trong thực hành lâm sàng. Đầu tiên là việc đánh giá nguy cơ trong phân loại ABCD lại dựa vào 2 tiêu chí cùng lúc là FEV 1 và tiền sử đợt cấp trong 1 năm vừa qua. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng có rất nhiều bệnh nhân không có sự tương đồng giữa 2 cách đánh Hướng dẫn tHực HànH 37 Hô hấp số 17/2018 giá này, nghĩa là bệnh nhân có thể có nguy cơ cao về tắc nghẽn nhưng nguy cơ thấp về tiền sử đợt cấp hay ngược lại. Nghiên cứu COPD Gene phân tích 4.484 bệnh nhân được xếp vào nhóm C và D nhận thấy đa phần bệnh nhân được xếp vào 2 nhóm này là do tiêu chuẩn FEV 1 (FEV 1 <50%) đơn độc. Tiếp đến là do đợt cấp còn tỷ lệ có đủ 2 tiêu chuẩn FEV 1 và đợt cấp rất thấp (10). Do vậy, nếu việc điều trị là giống nhau cho những bệnh nhân có cùng nguy cơ nhưng có tiêu chuẩn xếp loại khác nhau thực sự là khó được chấp thuận. Vì lý do này, các phiên bản GOLD sau này đã bỏ FEV 1 trong các đánh giá nguy cơ của bệnh nhân. Bên cạnh đó, nhiều bằng chứng khác cũng cho thấy FEV 1 không thực sự phản ánh đúng nguy cơ của bệnh nhân. Một khía cạnh nữa là nguy cơ của bệnh nhân không phải là hằng định. Nghiên cứu ECLIPSE nhận thấy các bệnh nhân được xếp vào nhóm “có đợt cấp thường xuyên” có tính ổn định (không thay đổi) trong thời gian 3 năm nghiên cứu và có thể tiên đoán này chủ yếu dựa vào tiền sử đợt cấp trong quá khứ (11). Tuy nhiên, chỉ có 12% bệnh nhân nhóm “có đợt cấp thường xuyên” và 23% nhóm “không có đợt cấp” không thay đổi đặc điểm này sau 3 năm nghiên cứu. Có đến 65% bệnh nhân có sự chuyển đổi nguy cơ trong nghiên cứu này (11,12). Do vậy, nếu đánh giá đúng nguy cơ đợt cấp, nên chia làm 3 nhóm (thay vì 2 nhóm) gồm nhóm “không có đợt cấp”, nhóm “có đợt cấp thường xuyên” và nhóm “có đợt cấp thay đ ... thuốc giãn phế quản tác dụng dài - Quản lý thêm về mặt dị ứng Kiểu hình nhiều đợt cấp 1. Chức năng phổi giảm nhanh 2. Tăng sử dụng nguồn lực y tế 3. Tăng tử vong gấp 3 lần 4. Tăng nguy cơ xuất hiện các triệu chứng trầm cảm Có 2 hay nhiều hơn 2 đợt cấp mỗi năm - Giãn phế quản tác dụng dài - ICS - Các điều trị chống viêm khác: macrolides, roflumilast, acetyl- cysteine. Kiểu hình khí phế thũng thuỳ trên phổi Nhiều khả năng cải thiện lâm sàng đáng kể sau khi cắt thuỳ phổi (LVRS)a − CT thấy khí phế thũng thuỳ trên phổi chiếm ưu thế - Xem xét phẫu thuật cắt thuỳ phổi LVRS Kiểu hình “sụt giảm nhanh” Tử vong cao − Sụt giảm chức năng phổi nhanh − Tương đối trẻ − Dinh dưỡng kém − Bệnh đồng mắc đáng kể Chuyển khám chuyên khoa sớm và xem xét ghép phổi Kiểu hình có bệnh đồng mắc 1. Tăng sử dụng nguồn lực y tế 2. Chất lượng cuộc sống kém 3. Tăng nguy cơ tử vong − Vẫn còn triệu chứng dai dẳng dù đã điều trị toàn diện − Bất tương xứng giữa triệu chứng và mức độ tắc nghẽn − Gánh nặng bệnh đồng mắc cao, đặc biệt bệnh tim mạch − Điều trị tích cực bệnh đồng mắc Mirza và cộng sự mô tả 7 kiểu hình sau đây được xem như cách mô tả kiểu hình đầy đủ nhất trong thời gian gần đây (46): Kiểu hình hen và COPD chồng lắp (ACO), Kiểu hình nhiều đợt cấp, Kiểu hình khí phế thũng ưu thế thuỳ trên phổi, Kiểu hình sụt giảm chức năng hô hấp nhanh, Kiểu hình có bệnh đồng mắc, Kiểu hình thể chất và Kiểu hình suy mòn cảm xúc. Ý nghĩa lâm sàng, đặc điểm nhận dạng và các tiếp cận điều trị của 7 kiểu hình này được mô tả ở bảng 3 như sau. Hướng dẫn tHực HànH 43 Hô hấp số 17/2018 Triết lý của phương pháp này là để xác định các kiểu hình lâm sàng có thể giúp bác sĩ xác nhận những bệnh nhân sẽ đáp ứng với một số biện pháp can thiệp dược lý cụ thể nào đó (47). Lợi thế chính của phương pháp này là nó cho phép bác sĩ dễ dàng nhận ra các loại bệnh nhân, những người có khác biệt lâm sàng với các nhóm khác, mà một chiến lược điều trị cụ thể nào đó đã được chứng minh có hiệu quả. Ngoài ra, một cách tiếp cận dựa trên biểu hiện gen có tương tác bởi các yếu tố môi trường có vẻ là cách tiếp cận chính xác từ một quan điểm khoa học gần đây (2). Tuy nhiên cách tiếp cận này có một số nhược điểm. COPD là bệnh đa dạng và phức tạp với nhiều biểu hiện lâm sàng khác nhau nên việc một bệnh nhân chỉ thuộc một kiểu hình nào đó mà không có các đặc tính của kiểu hình khác là rất ít. Hay nói cách khác, có sự trùng lắp giữa các nhóm bệnh nhân về kiểu hình và như thế, một bệnh nhân có thể xếp vào nhiều hơn 1 loại kiểu hình. Một kiểu hình lâm sàng được coi như là một đặc tính của bệnh và biểu hiện lâm sàng của kiểu hình này phải tương đối hằng định. Tuy nhiên, các biểu hiện lâm sàng này lại thay đổi khi điều trị - vì mục tiêu điều trị là nhằm thay đổi sự tiến triển của bệnh - do đó một khi điều trị đã được tiến hành thì việc đánh giá các đặc tính cụ thể của bệnh để xác định kiểu hình có thể không chính xác (2). Nếu chưa can thiệp điều trị thì các đặc tính của kiểu hình nên xem là ổn định theo thời gian. Tuy nhiên, mặc dù một số đặc tính bệnh (ví dụ, khí phế thũng và giãn phế quản) có thể ổn định qua thời gian nhưng những đặc tính khác có thể thay đổi theo thời gian (ví dụ, đợt cấp và tính tăng đáp ứng đường thở). Chính sự thay đổi này sẽ làm cho việc định danh 1 kiểu hình bất biến cho một bệnh nhân COPD cụ thể nào đó là khó được chấp nhận (40). Còn nhiều kiểu hình khác chưa được liệt kê ở bảng 3 ví dụ như kiểu hình dựa vào các biomarker như eosinophil, FeNO; kiểu hình của các tác giả Tây Ban Nha (có thêm các kiểu hình không có đợt cấp, có đợt cấp kèm viêm phế quản mạn, có đợt cấp kèm khí phế thũng); kiểu hình dựa vào test giãn phế quản (kiểu hình COPD có test giãn phế quản có đáp ứng); kiểu hình COPD có thở máy,(2). Việc tiếp cận điều trị theo kiểu hình đòi hỏi phải có một nền tảng kiến thức đúng mức về bệnh học và cần có nhiều xét nghiệm hỗ trợ. Những điều kiện này khó có thể áp dụng ở các tuyến y tế cơ sở nên chỉ có thể áp dụng ở các tuyến y tế cao hơn. KẾT LUẬN COPD là một bệnh mạn tính phức tạp nên đòi hỏi phải có cách tiếp cận đa chiều mới có thể Phenotype Ý nghĩa lâm sàng Nhận diện Quản lý Kiểu hình suy giảm thể chất 1. Có nhiều triệu chứng 2. Có đợt cấp thường xuyên 3. Có chức năng suy giảm 4. Hiệu quả tự quản lý kém Tầm soát: 4MGSb (<0.8 m/sec), TUGTc >10 sec, PRISMA-7 score ≥3 Chẩn đoán: Fried Criteria, Frailty Deficit Index Phục hồi chức năng hô hấp Kiểu hình suy mòn cảm xúc 1. Tăng sử dụng nguồn lực y tế 2. Chất lượng cuộc sống kém 3. Hiệu quả tự quản lý kém Tầm soát trầm cảm với PHQ-2d >3 điểm Tầm soát lo âu với GAD-2e >3 điểm Lo sợ khi khó thở: Tầm soát với “Trong 2 tuần vừa qua có bao nhiều lần bạn có cảm giác lo sợ/sợ hãi khi bạn bị khó thở?” Phục hồi chức năng hô hấp toàn diện bao gồm can thiệp hành vi như huấn luyện sức khoẻ và điều trị nhận thức. Điều trị bằng thuốc a : LVRS- lung volume reduction surgery; b : 4MG - 4-meter gait speed; c : TUGT - Time up-and-go test; d : PHQ-2 - Patient health questionnaire-2; e : GAD-2 - Generalized anxiety disorder-2 Hướng dẫn tHực HànH 44 Hô hấp số 17/2018 đánh giá đúng mức tình trạng bệnh để đưa ra một phương án điều trị tối ưu cho một bệnh nhân cụ thể. Các cách tiếp cận vừa trình bày đều có ưu và khuyết điểm, do vậy, ở những tuyến y tế khác nhau sẽ có các cách tiếp cận khác nhau phù hợp với điều kiện sẵn có của mình. Sự lựa chọn nào cũng cần có sự cân bằng giữa tính sẵn có về thuốc men, phương tiện chẩn đoán hay theo dõi với tính toàn diện trong đánh giá, theo dõi và điều trị cho bệnh nhân. Mô hình quản lý COPD theo GOLD tương đối dễ thực hiện nên có thể áp dụng được từ tuyến chăm sóc ban đầu. Mô hình quản lý đa yếu tố chỉ giúp tiên lượng và chưa được áp dụng vào điều trị mặc dù nó đánh giá người bệnh toàn diện hơn mô hình của GOLD. Quản lý COPD dựa vào kiểu hình đòi hỏi nhiều cách đánh giá chi tiết và phức tạp nên chỉ có thể áp dụng từ tuyến chăm sóc cấp 2 trở lên. Tuy nhiên, chưa có một mô hình nào là hoàn hảo, do vậy, các bác sĩ lâm sàng nên áp dụng nhiều mô hình trong khi quản lý một bệnh nhân cụ thể tùy vào diễn biến của bệnh cũng nhưtùy vào đáp ứng của họ với điều trị đang sử dụng. Với xu hướng cá thể hóa điều trị cũng như “y học chính xác”, tất cả các yếu tố, khía cạnh liên quan đến bệnh (ví dụ như di truyền, sinh học, môi trường, lâm sàng và xã hội) nên được xem xét khi có thể để có được một cách tiếp cận người bệnh một cách toàn diện và đưa ra một chiến lược điều trị riêng biệt, tối ưu nhất cho họ. Tài liệu tham khảo 1. GOLD, Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease. Available at: https://goldcopd.org/ wp-content/uploads/2018/11/GOLD-2019-v1.7- FINAL-14Nov2018-WMS.pdf, 2019. Accessed on 28-Jan- 2019. 2. Lopez-Campos, J.L., et al., Moving towards patient- centered medicine for COPD management: multidimensional approaches versus phenotype-based medicine--a critical view. COPD, 2014. 11(5): p. 591-602. 3. Vestbo, J., et al., Changes in forced expiratory volume in 1 second over time in COPD. N Engl J Med, 2011. 365(13): p. 1184-92. 4. Agusti, A., et al., Characterisation of COPD heterogeneity in the ECLIPSE cohort. Respir Res, 2010. 11: p. 122. 5. Glaab, T., C. Vogelmeier, and R. Buhl, Outcome measures in chronic obstructive pulmonary disease (COPD): strengths and limitations. Respir Res, 2010. 11: p. 79. 6. Lopez-Campos, J.L., Treatment strategies in chronic obstructive pulmonary disease: a proposal for standardization]. Arch Bronconeumol, 2010. 46(12): p. 617-20. 7. Vestbo, J., et al., Global strategy for the diagnosis, management, and prevention of chronic obstructive pulmonary disease: GOLD executive summary. Am J Respir Crit Care Med, 2013. 187(4): p. 347-65. 8. Schlecht, N.F., K. Schwartzman, and J. Bourbeau, Dyspnea as clinical indicator in patients with chronic obstructive pulmonary disease. Chron Respir Dis, 2005. 2(4): p. 183-91. 9. Gruffydd-Jones, K., GOLD guidelines 2011: what are the implications for primary care? Primary Care Respiratory Journal, 2012. 21: p. 437. 10. Jones, P.W., et al., Comparisons of health status scores with MRC grades in COPD: implications for the GOLD 2011 classification. Eur Respir J, 2013. 42(3): p. 647-54. 11. Vestbo, J., et al., Evaluation of COPD Longitudinally to Identify Predictive Surrogate End-points (ECLIPSE). Eur Respir J, 2008. 31(4): p. 869-73. 12. Hurst, J.R., et al., Susceptibility to exacerbation in chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med, 2010. 363(12): p. 1128-38. 13. Espinosa de los Monteros, M.J., et al., Variability of respiratory symptoms in severe COPD. Arch Bronconeumol, 2012. 48(1): p. 3-7. 14. Kessler, R., et al., Symptom variability in patients with severe COPD: a pan-European cross-sectional study. Eur Respir J, 2011. 37(2): p. 264-72. 15. Lopez-Campos, J.L., C. Calero, and E. Quintana-Gallego, Symptom variability in COPD: a narrative review. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis, 2013. 8: p. 231-8. 16. Lopez Varela, M.V. and M. Montes de Oca, Variability in COPD: the PLATINO study viewpoint. Arch Bronconeumol, 2012. 48(4): p. 105-6. 17. Kim, S., et al., Differences in classification of COPD group using COPD assessment test (CAT) or modified Medical Research Council (mMRC) dyspnea scores: a cross- sectional analyses. BMC Pulm Med, 2013. 13: p. 35. 18. Holt, S., et al., Little agreement in GOLD category using CAT and mMRC in 450 primary care COPD patients in New Zealand. Npj Primary Care Respiratory Medicine, 2014. 24: p. 14025. 19. Kim, S., et al., Differences in classification of COPD group using COPD assessment test (CAT) or modified Medical Research Council (mMRC) dyspnea scores: a cross-sectional analyses. 2013. 13(1): p. 35. Hướng dẫn tHực HànH 45 Hô hấp số 17/2018 20. Lee, C.-H., et al., Chronic obstructive pulmonary disease (COPD) assessment test scores corresponding to modified Medical Research Council grades among COPD patients. The Korean journal of internal medicine, 2015. 30(5): p. 629-637. 21. Chhabra, S.K., GOLD Classification of COPD: Discordance in Criteria for Symptoms and Exacerbation Risk Assessment AU - Mittal, Richa. COPD: Journal of Chronic Obstructive Pulmonary Disease, 2017. 14(1): p. 1-6. 22. Martinez, F.J., et al., Baseline Symptom Score Impact on Benefits of Glycopyrrolate/Formoterol Metered Dose Inhaler in COPD. Chest, 2017. 152(6): p. 1169-1178. 23. Gedebjerg, A., et al., Prediction of mortality in patients with chronic obstructive pulmonary disease with the new Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease 2017 classification: a cohort study. The Lancet Respiratory Medicine, 2018. 6(3): p. 204-212. 24. López, C.C., et al., Comparison of the 2017 and 2015 Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease Reports. Impact on Grouping and Outcomes. 2018. 197(4): p. 463-469. 25. Singh, D., et al., Pharmacological treatment of COPD: the devil is always in the detail. Eur Respir J, 2018. 51(4). 26. Mirza, S., et al., COPD Guidelines: A Review of the 2018 GOLD Report. Mayo Clinic Proceedings, 2018. 93(10): p. 1488-1502. 27. Celli, B.R., et al., The body-mass index, airflow obstruction, dyspnea, and exercise capacity index in chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med, 2004. 350(10): p. 1005-12. 28. Cardoso, F., et al., Replacement of the 6-min walk test with maximal oxygen consumption in the BODE Index applied to patients with COPD: an equivalency study. Chest, 2007. 132(2): p. 477-82. 29. Soler-Cataluna, J.J., et al., Severe exacerbations and BODE index: two independent risk factors for death in male COPD patients. Respir Med, 2009. 103(5): p. 692-9. 30. Williams, J.E., et al., Development of the i-BODE: validation of the incremental shuttle walking test within the BODE index. Respir Med, 2012. 106(3): p. 390-6. 31. Puhan, M.A., et al., Expansion of the prognostic assessment of patients with chronic obstructive pulmonary disease: the updated BODE index and the ADO index. Lancet, 2009. 374(9691): p. 704-11. 32. Azarisman, M.S., et al., The SAFE (SGRQ score, air- flow limitation and exercise tolerance) Index: a new composite score for the stratification of severity in chronic obstructive pulmonary disease. Postgrad Med J, 2007. 83(981): p. 492-7. 33. Briggs, A., et al., Development and validation of a prognostic index for health outcomes in chronic obstructive pulmonary disease. Arch Intern Med, 2008. 168(1): p. 71-9. 34. Jones, R.C., et al., Derivation and validation of a composite index of severity in chronic obstructive pulmonary disease: the DOSE Index. Am J Respir Crit Care Med, 2009. 180(12): p. 1189-95. 35. Esteban, C., et al., The health, activity, dyspnea, obstruction, age, and hospitalization: prognostic score for stable COPD patients. Respir Med, 2011. 105(11): p. 1662-70. 36. GESEPOC, Moving towards a new focus on COPD. The Spanish COPD Guidelines (GESEPOC). Arch Bronconeumol, 2011. 47(8): p. 379-81. 37. Marin, J.M., et al., Multicomponent indices to predict survival in COPD: the COCOMICS study. Eur Respir J, 2013. 42(2): p. 323-32. 38. Roman, A., et al., Guidelines for the selection of lung transplantation candidates. Arch Bronconeumol, 2011. 47(6): p. 303-9. 39. Miravitlles, M., et al., Spanish COPD Guidelines (GesEPOC): Pharmacological treatment of stable COPD. Aten Primaria, 2012. 44(7): p. 425-37. 40. Han, M.K., et al., Chronic obstructive pulmonary disease phenotypes: the future of COPD. Am J Respir Crit Care Med, 2010. 182(5): p. 598-604. 41. Bosse, Y., Updates on the COPD gene list. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis, 2012. 7: p. 607-31. 42. Guyatt, G.H., et al., GRADE: an emerging consensus on rating quality of evidence and strength of recommendations. Bmj, 2008. 336(7650): p. 924-6. 43. Koblizek, V., et al., Chronic Obstructive Pulmonary Disease: official diagnosis and treatment guidelines of the Czech Pneumological and Phthisiological Society; a novel phenotypic approach to COPD with patient- oriented care. Biomed Pap Med Fac Univ Palacky Olomouc Czech Repub, 2013. 157(2): p. 189-201. 44. Siafakas, N., A. Corlateanu, and E. Fouka, Phenotyping Before Starting Treatment in COPD? Copd, 2017. 14(3): p. 367-374. 45. Miravitlles, M., M. Calle, and J.J. Soler-Cataluna, Clinical phenotypes of COPD: identification, definition and implications for guidelines. Arch Bronconeumol, 2012. 48(3): p. 86-98. 46. Shireen Mirza and Roberto Benzo, COPD Phenotypes - implications for care. Mayo Clin Proc, 2017. 92(7): p. 1104-1112. 47. Miravitlles, M., et al., Treatment of COPD by clinical phenotypes: putting old evidence into clinical practice. Eur Respir J, 2013. 41(6): p. 1252-6.
File đính kèm:
dieu_tri_copd_theo_phan_nhom_abcd_nhu_gold_hay_theo_kieu_hin.pdf

