Điều trị bệnh mạch máu phức tạp bằng can thiệp nội mạch phối hợp phẫu thuật (HYBRID)

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh lý mạch máu tại Việt Nam nói chung và miền Bắc nói riêng trong những năm gần đây diễn biến theo xu hướng tăng dần về số lượng bệnh nhân cũng như mức độ phức tạp của bệnh. Nguyên nhân là tuổi thọ trung bình tăng cũng như thay đổi chế độ dinh dưỡng của bệnh nhân dẫn tới tỷ lệ bệnh mạch máu ngày càng tăng. Các bệnh mạch máu phức tạp xuất hiện đang là thách thức với các bác sĩ lâm sàng cả về ngoại khoa cũng như can thiệp tim mạch. Với những bệnh nhân có bệnh mạch máu phức tạp, tuổi cao, nhiều vị trí tổn thương, việc áp dụng các phương pháp kinh điển như phẫu thuật đơn thuần hoặc can thiệp đơn thuần sẽ không mang lại hiệu quả tốt do phẫu thuật tại nhiều vị trí cùng một lúc trên bệnh nhân già yếu sẽ ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe bệnh nhân, việc can thiệp mạch máu trên nhiều vị trí cùng một lúc không phải lúc nào cũng thực hiện được, mặt khác là gánh nặng kinh tế lớn cho bệnh nhân và bảo hiểm y tế. Xu hướng trên thế giới hiện nay là áp dụng phối hợp phẫu thuật và can thiệp trên một bệnh nhân trong một thì (hybrid) nhằm làm giảm độ khó của phẫu thuật/ can thiệp, giảm chi phí y tế và giảm tác động có hại trên sức khỏe bệnh nhân. Tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, với sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài cũng như kíp can thiệp mạch máu, chúng tôi đã áp dụng Hybrid phẫu thuật, can thiệp trong cùng một thì trên các bệnh nhân có bệnh lý mạch máu khó điều trị nếu chỉ sử dụng phẫu thuật hoặc can thiệp đơn thuần với kết quả ban đầu tương đối khả quan. Nghiên cứu này đánh giá kết quả của áp dụng hybrid trong điều trị bệnh mạch máu nhằm rút ra kết luận về chỉ định, lựa chọn bệnh nhân, ưu nhược điểm, kết quả, khả năng ứng dụng và phát triển

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị bệnh mạch máu phức tạp bằng can thiệp nội mạch phối hợp phẫu thuật (HYBRID)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị bệnh mạch máu phức tạp bằng can thiệp nội mạch phối hợp phẫu thuật (HYBRID)

Điều trị bệnh mạch máu phức tạp bằng can thiệp nội mạch phối hợp phẫu thuật (HYBRID)
Nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.201434
ĐIỀU TRỊ BỆNH MẠCH MÁU PHỨC TẠP BẰNG CAN 
THIỆP NỘI MẠCH PHỐI HỢP PHẪU THUẬT (HYBRID)
 Đoàn Quốc Hưng*, Nguyễn Duy Thắng* Nguyễn Hữu Ước*
 Phạm Quốc Đạt*, Lê Thanh Dũng*, Nguyễn Lân Hiếu**
 *Bệnh viện Việt Đức **Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý mạch máu tại Việt Nam nói chung 
và miền Bắc nói riêng trong những năm gần 
đây diễn biến theo xu hướng tăng dần về số 
lượng bệnh nhân cũng như mức độ phức tạp 
của bệnh. Nguyên nhân là tuổi thọ trung bình 
tăng cũng như thay đổi chế độ dinh dưỡng 
của bệnh nhân dẫn tới tỷ lệ bệnh mạch máu 
ngày càng tăng. Các bệnh mạch máu phức 
tạp xuất hiện đang là thách thức với các bác 
sĩ lâm sàng cả về ngoại khoa cũng như can 
thiệp tim mạch. Với những bệnh nhân có bệnh 
mạch máu phức tạp, tuổi cao, nhiều vị trí tổn 
thương, việc áp dụng các phương pháp kinh 
điển như phẫu thuật đơn thuần hoặc can thiệp 
đơn thuần sẽ không mang lại hiệu quả tốt do 
phẫu thuật tại nhiều vị trí cùng một lúc trên 
bệnh nhân già yếu sẽ ảnh hưởng nặng nề đến 
sức khỏe bệnh nhân, việc can thiệp mạch máu 
trên nhiều vị trí cùng một lúc không phải lúc 
nào cũng thực hiện được, mặt khác là gánh 
nặng kinh tế lớn cho bệnh nhân và bảo hiểm 
y tế. Xu hướng trên thế giới hiện nay là áp 
dụng phối hợp phẫu thuật và can thiệp trên 
một bệnh nhân trong một thì (hybrid) nhằm 
làm giảm độ khó của phẫu thuật/ can thiệp, 
giảm chi phí y tế và giảm tác động có hại trên 
sức khỏe bệnh nhân. Tại Bệnh viện Hữu nghị 
Việt Đức, với sự giúp đỡ của các chuyên gia 
nước ngoài cũng như kíp can thiệp mạch máu, 
chúng tôi đã áp dụng Hybrid phẫu thuật, can 
thiệp trong cùng một thì trên các bệnh nhân 
có bệnh lý mạch máu khó điều trị nếu chỉ sử 
dụng phẫu thuật hoặc can thiệp đơn thuần với 
kết quả ban đầu tương đối khả quan. Nghiên 
cứu này đánh giá kết quả của áp dụng hybrid 
trong điều trị bệnh mạch máu nhằm rút ra 
kết luận về chỉ định, lựa chọn bệnh nhân, ưu 
nhược điểm, kết quả, khả năng ứng dụng và 
phát triển.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Bệnh mạch máu phức tạp bao gồm tổn 
thương mạch máu tại các vị trí mạch quan 
trọng và khó điều trị (Ví dụ quai động mạch 
chủ, ĐM chủ ngực đoạn xuống) hoặc tổn 
thương mạch máu nhiều vị trí trên cùng một 
bệnh nhân.
Nghiên cứu hồi cứu dựa trên hồ sơ của tất 
cả BN mạch máu đã áp dụng phối hợp phẫu 
thuật- can thiệp nội mạch tại Bệnh viện Việt 
Đức từ 1/2011 tới 11/2013. Các phẫu thuật-
thủ thuật được thực hiện tại phòng mổ hoặc 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 35
tại phòng can thiệp mạch - khoa điện quang 
Bệnh viện Việt Đức, với sự tham gia của phẫu 
thuật viên mạch máu, chuyên gia Pháp, bác sĩ 
can thiệp Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện 
Đại học Y Hà Nội. Can thiệp nội mạch có thể 
được thực hiện trước, sau hoặc đồng thời với 
can thiệp phẫu thuật. Bệnh lý mạch ở các vị trí 
khác nhau: Quai ĐM chủ, ĐM chủ bụng, ĐM 
chậu chung, chậu ngoài, ĐM chi dưới. Loại 
trừ bệnh mạch máu tại tim, phổi, chấn thương, 
vết thương mạch máu, tai biến do thầy thuốc. 
Các thăm dò trước mổ gồm lâm sàng, sinh 
hóa, chức năng gan thận, đông máu, điện tim, 
siêu âm tim, siêu âm doppler mạch, chụp cắt 
lớp vi tính, chụp ĐM, MRI. Tiền sử bệnh phối 
hợp và yếu tố nguy cơ (hút thuốc lá, thuốc lào, 
đái tháo đường, tăng huyết áp, mỡ máu), tiền 
sử phẫu thuật được ghi nhận chi tiết. Chỉ định 
can thiệp phẫu thuật hay nội mạch theo hướng 
dẫn của Châu Âu và Mỹ. Diễn biến trong quá 
trình phẫu thuật/thủ thuật, kết quả, biến chứng 
được thống kê, phân tích, so sánh từ đó đưa 
ra các nhận xét về chỉ định và kết quả của 
hybrid, đề xuất ý kiến thích hợp.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 1/2011 tới tháng 
11/2013, có 11 bệnh nhân có bệnh mạch máu 
phức tạp hội đủ các chỉ tiêu nghiên cứu được 
phân bố như sau: nam 11 (tỷ lệ 100%); tuổi 
thấp nhất 64, cao nhất 79, trung bình 70,6 
tuổi. Chúng tôi chia các bệnh nhân làm hai 
nhóm: nhóm I gồm các BN có bệnh lý của 
quai ĐM chủ và ĐM chủ xuống; nhóm II gồm 
các BN có tổn thương nhiều tầng của mạch 
máu chủ bụng, chậu, đùi chung, đùi nông và 
khoeo trong bệnh lý mạch máu ngoại biên.
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân có tổn thương quai ĐMC và ĐMC ngực (n=3)
TT Giới Chỉ định Thương tổn Can thiệp hybrid
1 Nam 79t Đau ngực Phình hình túi của quai ĐMC
Phẫu thuật bắc cầu ĐM cảnh chung 
P-T; đặt Stentgraft quai ĐMC và ĐMC 
xuống (bít nguyên ủy của ĐM cảnh 
chung T)
2
Nam 
73t*
Đau ngực Phình hình túi của quai ĐMC
Phẫu thuật bắc cầu ĐM chủ lên vào 
ĐM cảnh hai bên; đặt stentgraft quai 
ĐMC và ĐMC xuống (bít nguyên ủy 
của ĐM dưới đòn T)
3 Nam 72t Đau ngực
Lóc ĐMC xuống type B (Stanford) vỡ 
vào khoang màng phổi trái
Phẫu thuật bắc cầu ĐM cảnh chung 
P-T; Can thiệp đặt Stentgraft quai 
ĐMC và ĐMC xuống (bít nguyên ủy 
của ĐM cảnh chung T)
Nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.201436
Bảng 2: Phân bố bệnh nhân có bệnh lý mạch máu ngoại biên (n=8)
TT Giới Chỉ định Thương tổn Can thiệp hybrid
4 Nam 69t
Thiếu máu g/đ III chân T/ 
Đã mổ bắc cầu đùi khoeo 
T bằng mạch nhân tạo
Hẹp miệng nối đầu trên và đầu 
dưới của cầu nối đùi khoeo
Phẫu thuật làm lại miệng nối đầu 
gần; nong miệng nối đầu xa
5 Nam 64t Thiếu máu g/đ IV 2 chân
Hẹp tắc ĐM chậu chung, chậu 
ngoài P, Hẹp ĐM chậu ngoài T, 
tắc ĐM đùi nông T
Nong ĐM chậu ngoài T, phẫu thuật 
bắc cầu đùi-đùi T-P (mạch nhân 
tạo)
6 Nam 65t
Thiếu máu cấp tính chân 
P/ Đã mổ bắc cầu đùi 
khoeo P 
Huyết khối gây tắc mạch nhân 
tạo ; Hẹp miệng nối đầu xa
Phẫu thuật mở mạch nhân tạo lấy 
huyết khối; nong miệng nối đầu xa
7 Nam 67t
Đau bụng/ BN đã mổ bụng 
4 lần do viêm phúc mạc 
RT và dính ruột
Phồng ĐM chủ bụng dưới thận - 
chậu gốc bên P (ĐM chậu gốc P 
phồng 3cm)
Đặt stentgraft cho ĐM chủ chậu P 
(Unilateral) ; Phẫu thuật bắc cầu 
đùi-đùi P-T (mạch nhân tạo)
8 Nam 73t
Thiếu máu g/đ III chân T, 
g/đ II chân P
Hẹp tắc ĐM chậu ngoài, tắc ngã 
ba đùi chung 2 bên
Nong và stent Đm chậu ngoài bên 
T, nong ĐM đùi nông phía dưới 
thương tổn; Phẫu thuật bóc nội 
mạc tạo hình ngã ba ĐM đùi T 
9 Nam 64t
Thiếu máu g/đ II chân P/ 
Đã bắc cầu đùi khoeo 2 
bên
Huyết khối gây tắc mạch nhân 
tạo đùi khoeo bên P, hẹp ĐM 
chày sau, tắc ĐM chày trước và 
ĐM mác 
Phẫu thuật mở mạch nhân tạo lấy 
huyết khối ; can thiệp nong mạch 
ngoại vi bằng bóng
10 Nam 74t
Thiếu máu g/đ IV chân T, 
g/đ II chân P 
Hẹp ĐM chậu gốc P, tắc ĐM 
chậu chung và chậu ngoài T, tắc 
ĐM đùi nông P, hẹp ĐM đùi 
nông T
Nong và stent ĐM chậu gốc P, 
Phẫu thuật bóc nội mạc ĐM đùi 
chung trái và bắc cầu đùi đùi P-T 
(mạch nhân tạo). Nong ĐM đùi 
nông T
11
Nam 
76t**
Thiếu máu giai đoạn III 
hai chân 
Tắc ĐM chậu gốc P, hẹp ĐM 
chậu gốc T, tắc Đm đùi nông 
hai bên
Can thiệp nong và đặt stent ĐM 
chậu gốc T, phẫu thuật bắc cầu đùi 
đùi trái – phải
Tổn thương
Cải thiện triệu 
chứng
Tử vong Thất bại/biến chứng
Tỷ lệ
thành công %
Quai ĐMC (n=3) 2/3 1/3 1/3* 67
ĐM chủ chậu (n=1) 1/1 0/1 0/1 100
Cầu nối đùi khoeo (n=3) 3/3 0/3 0/3 100
ĐM chậu đùi (n=4) 4/4 0/4 1/4** 75
Bảng 3: Kết quả của hybrid (N=11 BN)
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 37
* Bệnh nhân can thiệp số 2 trong nhóm can 
thiệp vào quai ĐMC sau hybrid có biến chứng 
nhồi máu cơ tim phải đặt stent mạch vành, 
điều trị sau đó suy tim, viêm phổi nặng, nhiễm 
trùng huyết và tử vong trong bệnh cảnh suy đa 
tạng, không có biến chứng trong quá trình làm 
hybrid, kiểm tra sau hybrid không có tai biến 
về kỹ thuật như chảy máu, di lệch stentgraft, 
rò.
** Bệnh nhân can thiệp số 11 sau hybrid 8 
ngày xuất hiện đau lại 2 chân, siêu âm và chụp 
kiểm tra có tắc ĐM chậu gốc phải trên vị trí 
đặt stent, đã được xử lý bằng bắc cầu nách đùi 
trái với kết quả tốt.
BÀN LUẬN
Lịch sử phát triển can thiệp nội mạch và 
Hybrid phẫu thuật - can thiệp
Năm 1964, Charles Theodore Dotter và 
cộng sự là người đầu tiên tiến hành nong 
động mạch đùi nông bằng bóng trên một bệnh 
nhân nữ 82 tuổi thiếu máu giai đoạn IV chân 
do tắc ĐM đùi nông với kết quả rất tốt, ông 
cũng là người đưa ra những khái niệm đầu 
tiên về dụng cụ can thiệp như bóng nong ĐM 
(Balloon catheter), guidewire, giá đỡ trong 
lòng mạch (stent). Ông được coi là cha đẻ 
của ngành can thiệp[4]. Năm 1973, Porter JM 
báo cáo trường hợp lâm sàng đầu tiên phối 
hợp giữa phẫu thuật (bắc cầu đùi khoeo) và 
can thiệp (nong ĐM bằng bóng) với kết quả 
lâm sàng không kém gì phẫu thuật[5]. Những 
nghiên cứu về sau cho những tổn thương mạch 
máu nhiều tầng đều cho thấy việc phối hợp 
giữa phẫu thuật và can thiệp mang lại lợi ích 
to lớn về hậu phẫu cho bệnh nhân so với phẫu 
thuật đơn thuần[1][2]. Năm 1977 Andreas 
Gruntzig đã sáng chế ống thông có bóng đủ 
chắc để lần đầu tiên trên thế giới thực hiện 
nong mạch vành, và 7 năm sau giá đỡ lòng 
mạch (stent) cho mạch vành ra đời. Carlos 
Parodi (Buenos Aires) năm 1990 lần đầu tiên 
đặt mạch nhân tạo ĐMC bụng thành công [8]. 
Từ đó đến nay can thiệp nội mạch máu cũng 
như phối hợp phẫu thuật và can thiệp mạch đã 
phát triển hết sức mạnh mẽ trong cả liñh vực 
mạch máu ngoại vi, mạch máu lớn, mạch tạng 
và tim (mạch vành). Tuy nhiên để có thể triển 
khai được kỹ thuật này đòi hỏi nhiều yếu tố: 
trang thiết bị (máy chụp mạch đủ tốt), vật tư 
tiêu hao (dây dẫn, bóng nong, stent, thuốc cản 
quang), phòng mổ hay phòng chụp mạch đủ 
lớn, và đặc biệt là phải có bác si ̃được đào tạo 
bài bản. Những người có thể thực hiện can 
thiệp nội mạch là phẫu thuật viên mạch máu, 
bác si ̃nội tim mạch can thiệp và bác si ̃điện 
quang. Tuy nhiên theo xu hướng chung trên 
thế giới, với các thương tổn khó đòi hỏi can 
thiệp phức tạp, phối hợp phẫu thuật và can 
thiệp thì tỷ lệ phẫu thuật viên mạch máu tham 
gia can thiệp càng ngày càng chiếm vai trò 
chủ đạo[1][3].
Tại Việt Nam, Bệnh viện Việt Đức từ 
những năm 1980 cũng đã bắt đầu áp dụng 
kỹ thuật chụp mạch và thực hiện một số can 
thiệp mạch thô sơ, nhỏ lẻ, không hệ thống (nút 
mạch phế quản, thủ thuật Brook điều trị thông 
ĐM-TM cảnh xoang hang). Mãi tới năm 2008, 
bệnh viện mới trang bị được máy chụp mạch 
tại khoa điện quang, và năm 2009 máy C-arm 
tại phòng mổ (không dành cho mạch máu). 
Tới năm 2011, với sự hỗ trợ về kinh nghiệm 
cũng như trang thiết bị của chuyên gia Pháp 
(AIPCV-ADVASE), chúng tôi đã thực hiện 
nhiều can thiệp nội mạch cho bệnh lý mạch 
máu. Đặc biệt từ cuối năm 2012, với việc đưa 
vào sử dụng đơn vị can thiệp – phẫu thuật 
tim mạch, chúng tôi đã có thể tiến hành các 
trường hợp hybrid phẫu thuật – can thiệp tại 
nhiều vị trí, cho các thương tổn phức tạp hơn. 
Theo Nguyễn Duy Thắng[9], việc áp dụng 
hybrid ban đầu trên bệnh nhân tại đây có kết 
quả tốt, không có tử vong và các biến chứng 
có thể kiểm soát được.
Nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.201438
Đặc điểm bệnh nhân và chỉ định can 
thiệp hybrid
Bệnh nhân đều là nam giới, 75% bệnh nhân 
có tiền sử hút thuốc lá, thuốc lào. 
Rõ ràng hút thuốc là một yếu tố nguy cơ 
cao trong bệnh lý mạch máu nói chung và gắn 
liền với giới nam. Tuổi trung bình của bệnh 
nhân là 70,6 tương ứng với tuổi mắc bệnh 
mạch máu tại châu Âu (62-73 tuổi) [3]. Tuổi 
trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi 
cao hơn trong nghiên cứu về bệnh mạch chi 
dưới của Đoàn Quốc Hưng năm 2006[7] có lẽ 
do chất lượng cuộc sống, tuổi thọ trung bình 
của bệnh nhân tại Việt Nam được cải thiện và 
bệnh nhân có điều kiện hơn để tiến hành phẫu 
thuật-can thiệp so với giai đoạn trước đây.
Chỉ định hybrid cho các bệnh nhân đều là 
các tổn thương nặng và phức tạp, khó hoặc 
không thể xử lý bằng can thiệp hoặc phẫu 
thuật đơn thuần. Với tổn thương của quai 
ĐMC (bảng 1) rõ ràng phẫu thuật thay quai 
ĐMC đơn thuần là một trong những sang chấn 
hết sức nặng nề cho bệnh nhân với nguy cơ tử 
vong cao. Với bệnh nhân tổn thương ĐM chủ 
- chậu đặc biệt nếu bệnh nhân có tiền sử mổ 
cũ, việc phẫu thuật vào bụng là một sang chấn 
nặng và tốn kém thời gian. Với tổn thương 
mổ cũ của mạch chi dưới, việc phối hợp phẫu 
thuật và can thiệp cho phép tiến hành đồng 
thời cả chẩn đoán thương tổn cũng như xử 
lý thương tổn trên nhiều vị trí mà không cần 
can thiệp nhiều vào các vị trí mổ cũ hoặc trên 
nhiều vị trí.
Có thể chỉ định hybrid cho nhiều loại tổn 
thương mạch máu khác nhau, áp dụng cho 
bệnh nhân có kế hoạch hoặc cấp cứu. Tổn 
thương mạch có thể là thương tổn hẹp, phồng 
mạch, lóc cũng như tắc mạch do huyết khối. 
Vị trí mạch bị tổn thương có thể áp dụng hết 
sức đa dạng cho ĐM chủ, ĐM chậu, ĐM chi 
dưới và cả cầu nối mạch nhân tạo (bảng 1,2).
Bắc cầu ĐM cảnh-cảnh P-T (BN 1)
 và đặt stentgraft quai ĐMC
Ảnh: Hybrid trên quai ĐMC và tổn thương nhiều tầng của mạch máu
Lóc tách type B vỡ vào khoang màng phổi T
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 39
Ảnh: BN 5 với tắc ĐM chậu P, hẹp ĐM chậu T 
Các thăm dò cận lâm sàng được áp dụng 
trong nghiên cứu chúng tôi là siêu âm doppler, 
chụp mạch và MSCT (thăm dò ít xâm lấn, rất 
tốt với các mạch kích thước lớn và vừa). Phối 
hợp với các thăm khám lâm sàng kĩ lưỡng và 
toàn diện sẽ cho phép chúng ta chẩn đoán và 
xử trí kịp thời các biến chứng.
Ưu điểm và nhược điểm của hybrid 
phẫu thuật và can thiệp
Hybrid có thể áp dụng được cho nhiều vị 
trí tổn thương một lúc, trong nghiên cứu của 
chúng tôi bệnh nhân bị tổn thương từ mạch lớn 
(quai ĐMC) cho tới các mạch máu ngoại vi 
(ĐM chày trước, chày sau) với nhiều tầng tổn 
thương trên cùng một bệnh nhân. Có những tổn 
thương không thể phẫu thuật như tổn thương 
lóc tách đã vỡ của ĐMC. Can thiệp hybrid cho 
phép chúng tôi xử lý các thương tổn một cách 
triệt để trong một thì. Các nghiên cứu trên thế 
giới cũng chứng minh vai trò và ưu điểm tuyệt 
đối của hybrid so sánh với phẫu thuật hoặc 
can thiệp đơn thuần với các tổn thương nhiều 
tầng[1],[2],[6]. 
Hybrid phối hợp được ưu điểm của phẫu 
thuật và can thiệp nội mạch. Phẫu thuật cho 
phép chúng tôi bộ lộ rõ thương tổn, tiếp cận và 
xử trí những mạch máu mà can thiệp rất khó 
khăn (như ĐM đùi chung bị tắc hoàn toàn, 
huyết khối gây tắc trong lòng mạch). Bên 
cạnh đó, việc can thiệp nội mạch cho phép 
chúng tôi xử lý những thương tổn của mạch 
máu lớn (quai ĐMC) và các vị trí khó, xa (ĐM 
chày trước, chày sau, miệng nối mạch máu 
cũ) với những kỹ thuật tiên tiến (nong mạch 
bằng bóng, đặt stentgraft) một cách nhanh 
chóng, hiệu quả và an toàn. Việc phối hợp các 
ưu điểm trên đã cho phép chúng tôi xử lý được 
các thương tổn khó, phức tạp đôi khi không 
thể thực hiện được nếu phẫu thuật hoặc can 
thiệp đơn thuần. Nhiều nghiên cứu đã chứng 
minh hiệu quả phục hồi lưu thông mạch máu 
của hybrid không khác gì phẫu thuật nhưng có 
tỷ lệ biến chứng thấp hơn, giảm thời gian hồi 
sức và nằm viện cho bệnh nhân [2], [3]. Việc 
tránh được các biến chứng do mở ngực, mở 
xương ức, gây mê, chạy máy tim phổi là ưu 
thế lớn của can thiệp.
Bên cạnh những lợi ích của nó, việc áp 
dụng Hybrid phẫu thuật-can thiệp cũng có 
những nhược điểm. Có hai bệnh nhân của 
chúng tôi gặp biến chứng, một bệnh nhân tử 
vong. Như vậy với việc áp dụng Hybrid bệnh 
nhân có thể gặp đầy đủ các biến chứng của 
quá trình can thiệp nội mạch hoặc phẫu thuật 
gây ra.
Việc bệnh nhân và nhân viên y tế cùng tiếp 
xúc với phóng xạ tia X có nguy cơ mắc các 
Nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.201440
bệnh lý da do phóng xạ, đục thủy tinh thể cao hơn nhiều lần đã được chứng minh với nhiều 
bằng chứng khoa học[1]. Bên cạnh đó với chi phí cao của can thiệp mạch máu, việc bảo hiểm 
y tế chưa chi trả cho toàn bộ quá trình điều trị, việc áp dụng Hybrid rõ ràng là một gánh nặng 
kinh tế cho bệnh nhân và gia đình bệnh nhân.
Một hạn chế không nhỏ của việc áp dụng Hybrid tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức là trang 
thiết bị, vật tư cho can thiệp-phẫu thuật còn chưa đầy đủ, nhân lực của chúng tôi chưa có nhiều 
kinh nghiệm trong việc áp dụng các kỹ thuật mới, tiên tiến của can thiệp nội mạch cho bệnh 
nhân. Việc bổ sung vật tư thiết bị cũng như không ngừng trau dồi chuyên môn, học tập kỹ thuật 
mới và mở rộng hợp tác sẽ giúp chúng tôi có nhiều điều kiện, kinh nghiệm hơn trong điều trị 
cho bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Tuy mới bắt đầu được triển khai nhưng với những ưu điểm nổi trội và kết quả sớm rất tốt, 
phối hợp phẫu thuật và can thiệp nội mạch (hybrid) là một hướng đi đúng đắn cần được nghiên 
cứu mở rộng cho các bệnh lý mạch máu phức tạp. Tuy còn nhiều khó khăn như trang thiết bị 
còn thiếu, chi phí y tế còn cao và năng lực con người còn hạn chế. Việc lựa chọn bệnh nhân phù 
hợp, đào tạo nhân lực chuyên sâu, thực hành thường xuyên, trang bị đầy đủ, cải thiện chế độ 
bảo hiểm xã hội sẽ giúp phương pháp điều trị này cho kết quả ngày một tốt hơn tại Việt Nam.
SUMMARY
Treatment of complicated vascular diseases with combined open surgery and endovascular 
interventions (hybrid).
Đoàn Quốc Hưng*, Nguyễn Duy Thắng*
Nguyễn Hữu Ước*, Phạm Quốc Đạt* 
Lê Thanh Dũng*, Nguyễn Lân Hiếu**
* Viet Duc university hospital ** Hanoi medical university hospital
Complicated vascular disease includes lessions of important positions of the vascular system (aortic arch and descending 
aorta) or multi-level lessions in PAD. Application of Hybrid procedures: open surgery and endovascular interventions in 
now becomes the common trend in treatment of complicated vascular diseases worldwide due to its advantages: results of 
treatment and economic burdens. We apply Hybrid procedures in 11 patients at Viet Duc University Hospital during 2011-
2013, in which 8 cases are peripheral arteriopathy (PAD) and 3 cases are aortic arch disease. The early results is good: 
Technique is feasible; low morbidity, patients get rid of symptoms and the medical fee is acceptable for the patients family. 
However the application of these procedures remains difficulty for most of our patients due to lack of man power; medical 
equipments and the insurance issue. We need further research for this kind of treatment.
Keywords: Hybrid, vascular intervention, combined surgery and intervention
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alan T. Hirsch et al. (2006) ACC/AHA 2005 Practice Guidelines for the Management of Patients With Peripheral 
Arterial Disease (Lower Extremity, Renal, Mesenteric, and Abdominal Aortic) : A Collaborative Report from the American 
Association for Vascular Surgery/Society for Vascular Surgery,* Society for Cardiovascular Angiography and Interventions, 
Society for Vascular Medicine and Biology, Society of Interventional Radiology, and the ACC/AHA Task Force on Practice 
Guidelines (Writing Committee to Develop Guidelines for the Management of Patients With Peripheral Arterial Disease): 
Endorsed by the American Association of Cardiovascular and Pulmonary Rehabilitation; National Heart, Lung, and 
Blood Institute; Society for Vascular Nursing; TransAtlantic Inter-Society Consensus; and Vascular Disease Foundation. 
Circulation.113:e463-e654
2.Antoniou GA, Sfyroeras GS, C.Karathanos. (2009) Hybrid endovascular and open treatment of severe multilevel 
lower extremity arterial disease. Eur J Vasc Endovasc Surg 38:616-622.
3.Goodney P.Philip, Robert M Zwolak. (2009) National trends in lower extremity bypass surgery, endovascular 
intervention, and major amputations. J Vasc Surg 50: 54-60.
4. Misty M. Payne. (2001) Charles Theodore Dotter: The Father of Intervention. Tex Heart Inst J. 28(1): 28–38.
5. Porter JM, Eidemiller LR, Dotter CT, Rösch J, Vetto RM: (1973) Combined arterial dilatation and femorofemoral 
bypass for limb salvage. Surg Gynecol Obstet 137:409–412
6. P.-S. Aho, M. Venermo. (2012) Hybrid procedures as a novel technique In the treatment of critical limb ischemia. 
Scandinavian Journal of Surgery 101: 107–113.
7.Đoàn Quốc Hưng, Đặng Hanh Đệ. (2006) Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị phẫu thuật thiếu máu 
chi dưới mạn tính do vữa xơ động mạch. Tạp chí y học Việt Nam 324,7:21-30.
8. Đoàn Quốc Hưng. (2011) Can thiệp nội mạch và phối hợp phẫu thuật mổ mở- Can thiệp nội mạch: xu hướng mới 
trong điều trị bệnh mạch máu. Tạp chí nghiên cứu y học: 80;354:64-60.
9. Nguyễn Duy Thắng, Đoàn Quốc Hưng, Nguyễn Hữu Ước, Phạm Quốc Đạt. (2013)“Kết quả phối hợp phẫu thuật 
và can thiệp nội mạch một thì (hybrid) trong điều trị bệnh lý mạch máu tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức”. Tạp chí y học 
thực hành 7(876): 44-47.
Tóm tắt: Cùng với sự phát triển của xã hội, các bệnh lý mạch máu xuất hiện ngày càng nhiều với tổn thương phức tạp, 
nhiều tầng, ở các vị trí nguy hiểm trên các bệnh nhân nhiều tuổi, có nhiều bệnh phối hợp. Phối hợp phẫu thuật và can thiệp 
nội mạch (hybrid) trong điều trị bệnh lý mạch máu khó hiện đang là xu hướng phát triển chung trên thế giới do những ưu 
điểm vượt trội của nó so với can thiệp hoặc phẫu thuật đơn thuần. Chúng tôi áp dụng hybrid cho 11 bệnh nhân tại Bệnh 
viện Hữu nghị Việt Đức từ năm 2011 đến 2013 trong đó 8 trường hợp áp dụng cho bệnh mạch máu ngoại biên và 3 trường 
hợp áp dụng cho bệnh quai ĐMC và ĐM chủ xuống. Kết quả ban đầu khả quan: Thành công về kỹ thuật cao, không có tử 
vong liên quan đến hybrid, biến chứng có thể kiểm soát được, triệu chứng lâm sàng được cải thiện rõ rệt và chi phí phẫu 
thuật – can thiệp ở mức độ gia đình có thể chi trả. Tuy nhiên việc áp dụng kỹ thuật này còn gặp nhiều khó khăn do nhân 
lực, trang thiết bị của chúng tôi còn chưa đầy đủ, giá thành còn cao so với số đông bệnh nhân và bảo hiểm y tế chưa thanh 
toán. Đây là một hướng đi mới hiệu quả cần nghiên cứu và áp dụng rộng rãi trong lâm sàng.
Từ khóa: Hybrid, can thiệp nội mạch; can thiệp nội mạch phối hợp phẫu thuật. 

File đính kèm:

  • pdfdieu_tri_benh_mach_mau_phuc_tap_bang_can_thiep_noi_mach_phoi.pdf