Điều trị áp xe vú bằng chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm tại Bệnh viện Ung Bướu TP Hồ Chí Minh

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm trong điều trị áp xe vú.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi hồi cứu lại 62 trường hợp áp xe vú được điều trị bằng

chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm tại khoa Ngoại 4, Bệnh viện Ung Bướu từ 1/1/2017 đến

31/12/2018. Chọc hút mủ được thực hiện bằng kim 18G, dưới hướng dẫn siêu âm hoặc không. Chúng tôi lặp

lại sau 2 - 4 ngày đến khi hút được <1ml. kháng="" sinh="" ban="" đầu="" được="" sử="" dụng="" là="" amoxicillin/clavulanic="" acid,="">

thể kết hợp với Quinolone hoặc Metronidazole.

Kết quả: Tỉ lệ điều trị thành công là 80%. Kích thước khối tổn thương là yếu tố có liên quan đến thất bại

điều trị. 20% trường hợp tái phát.

Kết luận: Chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm là phương tiện điều trị áp xe vú hiệu quả

pdf 4 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Điều trị áp xe vú bằng chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm tại Bệnh viện Ung Bướu TP Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều trị áp xe vú bằng chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm tại Bệnh viện Ung Bướu TP Hồ Chí Minh

Điều trị áp xe vú bằng chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm tại Bệnh viện Ung Bướu TP Hồ Chí Minh
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
486 
ĐIỀU TRỊ ÁP XE VÚ BẰNG CHỌC HÚT MỦ KẾT HỢP KHÁNG SINH 
KHÁNG VIÊM TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU TP HỒ CHÍ MINH 
PHẠM HUỲNH ANH TUẤN1, HỒ HOÀI NAM1, PHẠM THIÊN HƯƠNG1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm trong điều trị áp xe vú. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi hồi cứu lại 62 trường hợp áp xe vú được điều trị bằng 
chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm tại khoa Ngoại 4, Bệnh viện Ung Bướu từ 1/1/2017 đến 
31/12/2018. Chọc hút mủ được thực hiện bằng kim 18G, dưới hướng dẫn siêu âm hoặc không. Chúng tôi lặp 
lại sau 2 - 4 ngày đến khi hút được <1ml. Kháng sinh ban đầu được sử dụng là Amoxicillin/Clavulanic acid, có 
thể kết hợp với Quinolone hoặc Metronidazole. 
Kết quả: Tỉ lệ điều trị thành công là 80%. Kích thước khối tổn thương là yếu tố có liên quan đến thất bại 
điều trị. 20% trường hợp tái phát. 
Kết luận: Chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm là phương tiện điều trị áp xe vú hiệu quả. 
ABSTRACT 
Purpose: Evaluate the effect of aspiration combined antibiotic and anti - inflamtory drugs in treament of 
breast abscess. 
Material and Methods: This was the retrospective review of 62 breast abscess patients treated by 
aspiration combined antibiotic and anti-inflamtory drugs in Breast Surgical Department from 1/1/2017 to 
31/12/2018. Aspirations were pereformed by 18G needle under ultrasound guide or not. It was repeated after 2-
4 days until the volume of pus less than 1ml. First line antibiotic was Amoxicillin/Clavulanic acid ± 
Quinolones/Metronidazole. 
Results: The successful rate was 80%. Abscess size was related to failure treatment. There was 20% 
recurences. 
Conclusion: Aspiration combined antibiotic and anti-inflamtory drugs was the effective treament of breast 
abscess. 
Key words: Aspiration, breast abscess. 
1
 Bác sĩ điều trị Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
MỞ ĐẦU 
Điều trị áp xe vú kinh điển là rạch thoát lưu, phá 
các hang hốc, rửa ổ mủ và nhét mèche dẫn lưu. 
Tuy nhiên phương pháp này thường cần gây mê, để 
lại sẹo xấu, phải thay mèche mỗi ngày cũng như tốn 
nhiều chi phí. Ngoài ra 10 - 53% áp xe vú tái phát 
cần phẫu thuật dẫn lưu lại[1,2]. 
Chọc hút mủ, có thể dưới siêu âm hướng dẫn, 
kết hợp kháng sinh kháng viêm đã được báo cáo là 
phương pháp điều trị áp xe vú hiệu quả tương 
đương với phẫu thuật. Phương pháp này không cần 
gây mê, không để lại sẹo, và ít tốn kém. 
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hiệu 
quả của chọc hút mủ kết hợp kháng sinh kháng viêm 
trong điều trị áp xe vú. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Chúng tôi hồi cứu lại các trường hợp áp xe vú 
được điều trị bằng chọc hút mủ kết hợp kháng sinh 
kháng viêm tại khoa Ngoại 4, Bệnh viện Ung Bướu 
từ 1/1/2017 đến 31/12/2018. Áp xe vú được chẩn 
đoán dựa trên lâm sàng, siêu âm và có bằng chứng 
tế bào học hoặc phải phẫu bệnh. Chúng tôi loại trừ 
các trường hợp đã phẫu thuật rạch thoát lưu trước 
khi nhập viện, áp xe vú khi đang cho con bú 
hay đang mang thai, có kết quả giải phẩu bệnh là lao 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
487 
vú, và các trường hợp hồ sơ không mô tả đầy đủ 
thông tin. 
Chọc hút mủ được thực hiện bằng kim 18G, 
dưới hướng dẫn siêu âm hoặc không, lặp lại sau 
2 - 4 ngày đến khi hút được <1ml. Kháng sinh ban 
đầu được sử dụng là Amoxicillin/Clavulanic acid 1g 
2 lần/ngày, có thể kết hợp với Quinolone hoặc 
Metronidazole. Sau đó tùy vào kháng sinh đồ để 
chọn kháng sinh phù hợp. Kháng viêm là Methyl-
prednisolone 16mg/ngày hoặc NSAIDs tùy vào mức 
độ viêm. 
Điều trị được xem là thành công khi không còn 
sờ thấy sang thương và hết triệu chứng lâm sàng 
như đau, đỏ da. 
Bệnh nhân được xem là tái phát nếu bị áp xe 
trở lại ở cùng góc tư vú. 
Xử lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS 22.0 
KẾT QUẢ 
Chúng tôi ghi nhận có 62 trường hợp thỏa điều 
kiện chọn mẫu, được đưa vào nghiên cứu. 
Đặc điểm lâm sàng của mẫu nghiên cứu 
Bảng 1. 
Đặc điểm Trung 
bình 
Trung vị Nhỏ nhất 
Lớn 
nhất 
Tuổi 37,6 37 16 65 
Thời gian 
phát bệnh 
(tuần) 
5,7 3 1 32 
Kích thước 
lâm sàng 
(cm) 
4 4 1 10 
Kích thước 
siêu âm 
(mm) 
38,9 32 8 140 
Vị trí 
¼ trên 
trong 
19 
(30,6%) 
¼ trên 
ngoài 
16 
(25,8%) 
¼ dưới 
ngoài 
6 (9,7%) 
¼ dưới 
trong 
6 (9,7%) 
Trung tâm 15 
(24,2%) 
Sử dụng 
kháng sinh 
trước nhập 
viện 
Có 4369,4%) 
Không 19 
(30,6%) 
Đau Có 59 (95,2%) 
Không 3 (4,8%) 
Đỏ da Có 18 (29%) 
Không 44 (71%) 
Số ổ Đơn ổ 30(48,4%) 
Đa ổ 32(51,6%) 
Tỉ lệ điều thành công là 80%. 
Thời gian điều trị: trung bình 44,6 ngày, trung vị: 
42 ngày. 
Thời gian đến khi hết triệu chứng lâm sàng: 
trung bình 34,3 ngày, trung vị: 28 ngày. 
Bảng 2. Các yếu tố liên quan thất bại điều trị 
 Điều trị thành 
công p 
Có Không 
Kích thước 
≤ 5cm 
>5cm 
86,3% 
54,5% 
13,7% 
15,5% 
0,029 
Thời gian đến khi nhập viện 
≤ 2 tuần 
>2 tuần 
85,2% 
77,1% 
14,8% 
22,9% 
0,427 
Số tổn thương 
Đơn ổ 
Đa ổ 
83,3% 
78,1% 
16,7% 
21,9% 
0,609 
Trung vị thời gian theo dõi: 19 tháng. 
Tỉ lệ tái phát: 20%. 
Trung vị thời gian đến khi tái phát: 1,5 tháng 
(0,5 - 9 tháng). 
BÀN LUẬN 
Điều trị áp xe vú bằng chọc hút mủ kết hợp 
kháng sinh kháng viêm có tỷ lệ thành công cao. 
Trong nghiên cứu này 80% điều trị thành công, kích 
thước tổn thương từ 1 - 10cm. Kết quả này tương tự 
kết quả của Elagili với 83,3% điều trị thành công cho 
các tổn thương từ 1-15cm[3]. Christensen nghiên cứu 
trên 62 ca áp xe vú không liên quan tiết sữa, tỉ lệ 
thành công là 81%[4]. Naeem chọn lọc tổn thương 
không quá 5cm, tỉ lệ điều trị thành công cao hơn là 
93,3%, cao hơn nhóm phẫu thuật rạch thoát lưu là 
76,7% (p = 0,033)[5]. Phân tích gộp của Bing cho 
thấy chọc hút có tỉ lệ thành công cao hơn so với 
phương pháp kinh điển (RR = 1.20, 95%, CI = 1.01 - 
1.44; P = 0.042)[6]. 
Áp xe vú đa ổ và kích thước lớn thường có tỉ lệ 
thất bại cao. Trong nghiên cứu này, chỉ thấy kích 
thước tổn thương lớn có liên quan đến thất bại điều 
trị. Kích thước trên 5cm có tỷ lệ thất bại cao hơn 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
488 
(p = 0,029). Thời gian phát bệnh kéo dài có thể có 
liên quan đến thất bại điều trị. Tuy nhiên, điều này có 
thể ảnh hưởng bởi thời phát bệnh kéo dài có liên 
quan đến kích thước ổ áp xe lớn. Quả thật, một 
nghiên cứu lớn trên 151 bệnh nhân, không thấy thời 
gian phát bệnh có sự liên quan đến thất bại điều trị[4]. 
Nghiên cứu này những trường hợp điều trị thành 
công có kích thước ổ áp xe nhỏ hơn so với các 
trường hợp điều trị thất bại. Áp xe vú vùng trung tâm 
có tỉ lệ điều trị thành công chỉ 50%[2]. 
Số lần chọc hút mủ tùy vào kích thước ổ áp xe, 
trung bình 1 - 2 lần. Trong nghiên cứu Impetiale, 
trung vị số lần hút mủ là 2 lần (1-5 lần) đối với các ổ 
áp xe 3cm[7]. 
Elagili điều trị 31 trường hợp áp xe vú, 50% chỉ cần 
1 lần hút mủ, 23% 2 lần và 10% 3 lần[3]. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, số lần hút mủ trung bình 
là 1,7 lần (1 - 6 lần). 
Thời gian điều trị đến khi kết triệu chứng trung 
bình từ 3 - 5 tuần. Trong nghiên cứu này là 34,3 
ngày. Kết quả của chúng tôi gần giống với tác giả 
Ozseker, trung bình là 30 ngày[8]. Trong nghiên cứu 
của Naeem và Chandika với ổ áp xe nhỏ hơn, thời 
gian trung bình đến khi hết triệu chứng lần lượt là 
19,1 và 24 ngày[5,9]. 
Khoảng 65 - 80% các trường hợp có thể xác 
định tác nhân gây bệnh bằng cấy mủ. 20 - 30% cấy 
vi trùng không mọc[5,10,11]. Tác nhân gây bệnh 
trên bệnh nhân áp xe vú không liên quan đến tiết 
sữa phần lớn là Staphylococus Aureus. Theo 
Ramakrishnan và cộng sự, Staphylococus Aureus 
chiếm 58%, kế đến là Streptococi nhóm B 24%, 
Proteus 11% và Acinetobater spp 7%[12]. Nghiên cứu 
của Singh cũng có kết quả tương tự với 
Staphylococus Aureus chiếm 64%. Tụ cầu thường 
chiếm tỉ lệ cao hơn ở các trường hợp áp xe vú 
liên quan đến tiết sữa[10], có thể lên đến 84%[12]. 
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Trung 
trên 21 bệnh nhân, trong đó có 18 bệnh nhân đang 
cho con bú, tỉ lệ tụ cầu vàng là 76,2%[13]. Ngoài ra 
các tác nhân khác như vi khuẩn gram âm như 
E.Coli, Klebsiella, Pseudomonas và vi khuẩn kỵ khí 
cũng là các tác nhân hay gặp. Theo Dabbas, 
vi khuẩn kỵ khí chiếm 20% các các trường hợp[10]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 28/62 trường 
hợp có cấy mủ. Chỉ 6/28 trường hợp (21,4%) phân 
lập được vi khuẩn gây bệnh. 4 trường hợp do tụ 
cầu, 1 trường hợp do E.coli và 1 trường hợp do 
Klebsiella. Do phần lớn các trường hợp áp xe vú 
trong nghiên cứu này đều nhập viện muộn và đã có 
sử dụng kháng sinh trước đó nên tỉ lệ mọc vi khuẩn 
không cao. Kháng sinh ban đầu nên sử dụng kháng 
sinh diệt được tụ cầu như Amoxicillin/Clavulanic acid 
có thể kết hợp kháng sinh diệt gram âm và kỵ khí. 
Áp xe vú nói chung có tỉ lệ tái phát cao từ 10 - 
53%[1,2]. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 20% tái 
phát. Brahat thấy rằng ở BN áp xe vú không liên 
quan tiết sữa, 57% bị tái phát[14]. Hút thuốc lá là yếu 
tố nguy cơ duy nhất tĕng nguy cơ tái phát. Golllapalli 
nghiên cứu 68 bệnh nhân áp xe vú nguyên phát, 
nguy cơ tái phát tĕng ở bệnh nhân lớn tuổi, hút 
thuốc lá, điều trị bằng phẫu thuật. Nhiễm tụ cầu 
kháng methicillin ít khả nĕng tái phát hơn. Áp xe vú 
có thể tái phát muộn. Theo Bharat, trung vị thời gian 
tái phát là 97 ngày (10 - 146 ngày). Trong nghiên 
cứu này, tái phát có khuynh hướng sớm hơn. Trung 
vị thời gian đến khi tái phát là 1,5 tháng (0,5 - 9 
tháng). 
KẾT LUẬN 
Điều trị áp xe vú bằng chọc hút mủ kết hợp 
kháng sinh kháng viêm là phương tiện điều trị hiệu 
quả. 80% các trường hợp có thể điều trị thành công, 
không cần phẫu thuật. Các ổ áp xe lớn hơn 5cm tỉ lệ 
điều trị thành công thấp hơn. 1/5 trường hợp tái 
phát, không cao hơn tỉ lệ tái phát của áp xe vú nói 
chung. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Gollapalli V, Liao J, Dudakovic A, Sugg SL, 
Scott-Conner CE, Weigel RJ. (2010), Risk 
factors for development and recurrence of 
primary breast abscesses, J Am Coll Surg; 211, 
pp: 41 – 48. 
2. Trop I, Dugas A, David J, et al. (2011), Breast 
abscesses: evidence-based algorithms for 
diagnosis, management, and follow-up, 
Radiographics, 31, pp:1683 – 1699. 
3. Elagili F, Abdullah N, Fong L, Pei T. (2007), 
Aspiration of breast abscess under ultrasound 
guidance: outcome obtained and factors 
affecting success, Asian J Surg, 30(1), 
pp: 40 – 44. 
4. Christensen AF, Al-Suliman N, Nielsen KR, et al 
(2005), Ultrasound-guided drainage of breast 
abscesses: results in 151 patients, Br J 
Radiol,78, pp: 186 – 188. 
5. Naeem M, Rahimnajjad MK, Rahimnajjad NA, 
Ahmed QJ, Fazel PA and Owais M. (2012), 
Comparison of incision and drainage against 
needle aspiration for the treatment of breast 
abscess, Am Surg, 78, pp: 1224 – 1227. 
6. Bing F., Jie L. (2017), Ultrasound guided needle 
aspiration and cavity washing versus incision 
and drainage to treat breast abscesses: a meta-
analysis, Int J Clin Exp Med;10(6), pp: 8656 – 
8665. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
489 
7. Imperiale A, Zandrino F, et al. (2001), Abscesses 
of the breast: US-guided serial percutaneous 
aspiration and local antibiotic therapy after 
unsuccessful systemic antibiotic therapy, Acta 
Radiol, 42(2), pp:161 – 165. 
8. Ozseker B, Ozcan UA, Rasa K, Cizmeli OM. 
(2008), Treatment of breast abscesses with 
ultrasound-guided aspiration and irrigation in the 
emergency setting, Emerg Radiol, 15(2), 
pp:105 – 108. 
9. Chandika AB, Gakwaya AM, Kiguli-Malwadde E 
and Chalya PL. (2012), Ultrasound guided 
needle aspiration versus surgical drainage in the 
management of breast abscesses: a ugandan 
experience, BMC Res Notes, 5, pp: 12. 
10. Dabbas N, Chand M, Pallett A, Royle GT, 
Sainsbury R. (2010), Have the organisms that 
cause breast abscess changed with time?–
Implications for appropriate antibiotic usage in 
primary and secondary care. Breast J, 16, 
pp:412 – 415. 
11. Singh G, et al (2012) Management of breast 
abscess by repeated aspiration and antibiotics, 
Journal of Medical Society, 26(3), pp:189 – 191. 
12. Ramakrishnan R et al. (2017), Analysis of the 
microbial flora in breast abscess: a retrospective 
cohort study conducted in the emergency 
department, Int Surg J, Jul;4(7): 2143 – 2147. 
13. Nguyễn Ngọc Trung, Nguyễn Trường Giang 
(2014), Nhận xét đặc điểm tổn thương và cĕn 
nguyên vi khuẩn áp xe vú điều trị tại bệnh viện 
quân y 103, Tạp chí y - dược học quân sự, 
số 9, tr 180 – 184. 
14. Bharat A, Liao J, Dudakovic A, Sugg SL, Scott-
Conner CE, Weigel RJ. (2009), Predictors of 
primary breast abscesses and recurrence, World 
J Surg,33, pp: 2582 – 2586. 

File đính kèm:

  • pdfdieu_tri_ap_xe_vu_bang_choc_hut_mu_ket_hop_khang_sinh_khang.pdf