Điều tra tình hình khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền và đa dạng cây làm thuốc của người Khmer tại tỉnh Trà Vinh

Tóm tắt – Nghiên cứu về tình hình khám chữa

bệnh bằng y học cổ truyền và đa dạng cây làm

thuốc của người Khmer tại Trà Vinh được tiến

hành từ tháng 9/2016 đến tháng 4/2017. Đề tài

sử dụng phương pháp phỏng vấn cộng đồng và

điều tra thực địa tại các điểm có nhiều người

Khmer sinh sống (bốn huyện và một thành phố

của tỉnh Trà Vinh). Kết quả bước đầu cho thấy

số lượng người Khmer tại các điểm điều tra sử

dụng y học cổ truyền để khám chữa bệnh khá

cao. Kết quả điều tra được 205 loài cây làm

thuốc thuộc 175 chi, 71 họ của ba ngành thực vật

gồm Pteridophyta, Pinophyta và Magnoliophyta,

trong đó ngành Magnoliophyta chiếm số lượng

nhiều nhất; ba họ có số loài đa dạng nhất là

cúc (Asteraceae), đậu (Fabaceae) và thầu dầu

(Euphorbiaceae). Về dạng sống, nhóm cây thảo

chiếm ưu thế nhất.

pdf 6 trang phuongnguyen 2680
Bạn đang xem tài liệu "Điều tra tình hình khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền và đa dạng cây làm thuốc của người Khmer tại tỉnh Trà Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều tra tình hình khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền và đa dạng cây làm thuốc của người Khmer tại tỉnh Trà Vinh

Điều tra tình hình khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền và đa dạng cây làm thuốc của người Khmer tại tỉnh Trà Vinh
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018
50
ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH KHÁM CHỮA BỆNH
BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN VÀ ĐA DẠNG CÂY LÀM THUỐC
CỦA NGƯỜI KHMER TẠI TỈNH TRÀ VINH
Phùng Thị Hằng1, Lê Thị Mộng Thường2, Phan Thành Đạt3, Huỳnh Thanh Thiên4
INVESTIGATION OF MEDICAL TREATMENT WITH TRADITIONAL
MEDICINE AND DIVERSITY MEDICINAL PLANTS OF THE KHMER
ETHNIC GROUP IN TRA VINH PROVINCE
Phung Thi Hang1, Le Thi Mong Thuong2, Phan Thanh Dat3, Huỳnh Thanh Thiên4
Tóm tắt – Nghiên cứu về tình hình khám chữa
bệnh bằng y học cổ truyền và đa dạng cây làm
thuốc của người Khmer tại Trà Vinh được tiến
hành từ tháng 9/2016 đến tháng 4/2017. Đề tài
sử dụng phương pháp phỏng vấn cộng đồng và
điều tra thực địa tại các điểm có nhiều người
Khmer sinh sống (bốn huyện và một thành phố
của tỉnh Trà Vinh). Kết quả bước đầu cho thấy
số lượng người Khmer tại các điểm điều tra sử
dụng y học cổ truyền để khám chữa bệnh khá
cao. Kết quả điều tra được 205 loài cây làm
thuốc thuộc 175 chi, 71 họ của ba ngành thực vật
gồm Pteridophyta, Pinophyta và Magnoliophyta,
trong đó ngành Magnoliophyta chiếm số lượng
nhiều nhất; ba họ có số loài đa dạng nhất là
cúc (Asteraceae), đậu (Fabaceae) và thầu dầu
(Euphorbiaceae). Về dạng sống, nhóm cây thảo
chiếm ưu thế nhất. Hệ thực vật làm thuốc điều
1Bộ môn Sư phạm Sinh học, Khoa Sư phạm, Trường Đại
học Cần Thơ
2Bộ môn Hóa Sinh, Khoa Khoa học Cơ bản, Trường Đại
học Trà Vinh
3,4Học viên Cao học, Trường Đại học Cần Thơ
Ngày nhận bài: 7/3/2018; Ngày nhận kết quả bình duyệt:
18/6/2018; Ngày chấp nhận đăng: 19/7/2018
Email: pthang@ctu.edu.vn
1Department of Biology Education, School of Education,
Can Tho University
2Department of Chemistry & Biology, The Faculty of
General Science, Tra Vinh University
3,4Graduate student, College of Natural Sciences, Can
Tho University.
Received date: 7th March 2018; Revised date: 18th June
2018; Accepted date: 19th July 2018
trị bệnh cho người Khmer ở Trà Vinh đa số là
cây trồng.
Từ khóa: cây làm thuốc, người Khmer, Trà
Vinh, y học cổ truyền.
Abstract – Research on medical treatment
with traditional medicine and diverse medicinal
plants of the Khmer ethnic group in Tra Vinh
province was conducted from September 2016
to April 2017. The research used community
interviews and field surveys at sites where many
Khmer ethnic minority people live (4 districts and
1 city of Tra Vinh province). The results show that
the number of Khmer people using traditional
medicine for treatment is quite high. There are
205 medicinal species which belong to 175 genus,
71 families and 3 divisions, including Pterido-
phyta, Pinophyta and Magnoliophyta. Magnolio-
phyta has the largest number of species. The
three plant families that have the most diversity
of species are Asteraceae, Fabaceae and Euphor-
biaceae. On the live form, the trunk of grass-trees
is the dominant group. Flora of medicinal plant
for Khmer ethnic group in Tra Vinh province is
mostly planted.
Keywords: medicinal plants, the Khmer eth-
nic group, Tra Vinh province, traditional
medicine.
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một trong những quốc gia được
xem là đa dạng và phong phú về hệ thực vật.
Không những thế, với 54 dân tộc sinh sống trên
cùng lãnh thổ, Việt Nam đang kế thừa một kho
tàng tài nguyên tri thức bản địa về cây thuốc vô
cùng quý giá [1]. Trong thời gian gần đây, y học
cổ truyền đang được các nhà khoa học phát triển
nghiên cứu với mục đích đánh giá đúng vai trò vị
trí của nó trong đời sống người dân, đặc biệt là y
học cổ truyền của những dân tộc thiểu số trong
đó có dân tộc Khmer. Trà Vinh là tỉnh có tỉ lệ
dân số là người dân tộc Khmer cao, đây cũng
là tỉnh có đa dạng thực vật vào loại cao nhất ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Thế nhưng, lịch sử y
học cổ truyền của người Khmer ở Trà Vinh trong
những năm qua có rất ít ghi chép. Việc đánh giá
tình hình sử dụng cây thuốc và đa dạng nguồn
thuốc nam trong cộng đồng người Khmer cũng
ít được quan tâm. Khảo sát này, bước đầu chúng
tôi tìm hiểu việc sử dụng y học cổ truyền trong
khám chữa bệnh của người Khmer ở Trà Vinh và
đánh giá đa dạng cây làm thuốc ở đây với mục
đích góp phần quản lí, sử dụng hiệu quả, nâng
cao ý thức và giữ gìn bản sắc văn hóa của cộng
đồng người dân Khmer Nam Bộ.
II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Từ xa xưa, việc dùng cây cỏ như nguồn dược
liệu có sẵn để điều trị bệnh đã được ghi chép
ở nhiều nền văn hoá [2]. Năm 1998, thống kê
của WHO đã xác định khoảng 20.000 loài thực
vật trên thế giới được sử dụng trực tiếp hoặc gián
tiếp làm thuốc để điều trị bệnh. Các kinh nghiệm
dân gian về sử dụng cây thuốc chữa bệnh được
nghiên cứu ở các mức độ khác nhau tùy thuộc
vào sự phát triển của từng châu lục, từng quốc
gia và từng dân tộc. Hầu hết các quốc gia đã
biên soạn các sách chuyên khảo về cây thuốc
trên quy mô toàn quốc hoặc vùng lãnh thổ [3].
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về cây thuốc đã
được thực hiện từ rất lâu với các công trình tiêu
biểu: Hải Thượng Lãn Ông tâm lĩnh I, II [4];
Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh [5]; Những
cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi
[6]; Tự điển cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi
[7]. Ngoài các công trình sách chuyên khảo nêu
trên, các điều tra cây thuốc của các dân tộc thiểu
số trên toàn quốc cũng được thực hiện rất nhiều
như cây thuốc của người Ba Na, Thái, Mường,
Sán Chí. . . Với thiên nhiên ưu đãi, Đồng bằng
sông Cửu Long được xem là một trong những
vùng có nguồn tài nguyên thực vật phong phú,
đồng thời cũng là vùng đất cư trú của bốn dân
tộc chủ đạo là người Việt, người Khmer, người
Hoa và người Chăm. Liên quan về cách điều trị
bệnh bằng y học cổ truyền có công trình “Các
hình thức chữa bệnh và vai trò của y học cổ
truyền trong đời sống của các dân tộc ở tỉnh Sóc
Trăng trước năm 1945” của Trần Phước Thuận
[8]. . . . Tuy nhiên, các nghiên cứu về cây thuốc
và sử dụng đông y để khám chữa bệnh của người
Khmer tại Trà Vinh thì chưa được đề cập nhiều.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp điều tra, thu mẫu và xử lí
mẫu, đánh giá đa dạng tài nguyên cây thuốc theo
Nguyễn Nghĩa Thìn [1]. Đánh giá giá trị bảo tồn
các loài thuốc quý, loài có nguy cơ tuyệt chủng
theo Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam
của Nguyễn Tập [9].
- Phương pháp phân tích mẫu, xác định tên
khoa học, xác định cây làm thuốc bằng phương
pháp so sánh hình thái, tra cứu Cây cỏ Việt Nam
của Phạm Hoàng Hộ [10], Từ điển cây thuốc Việt
Nam của Võ Văn Chi [7], Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi [6].
- Phương pháp phỏng vấn và sưu tầm bài
thuốc: theo phương pháp dân tộc học của Nguyễn
Nghĩa Thìn [1] và Vũ Cao Đàm [11].
IV. KẾT QUẢ - THẢO LUẬN
A. Tình hình sử dụng y học cổ truyền trong điều
trị bệnh của người Khmer Trà Vinh
Chúng tôi tiến hành điều tra phỏng vấn người
Khmer Trà Vinh trong độ tuổi từ 15 đến 60 với
các ngành nghề khác nhau. Trong đó, đa số làm
nghề nông, công chức, hoặc còn đi học; một
số ít là người có liên quan đến nghề thuốc (y
sĩ đông y hoặc làm công quả trong các chùa)
ở các vùng có đông người Khmer sinh sống
trên địa bàn tỉnh. Kết quả điều tra bước đầu
cho thấy 100% người được hỏi biết sử dụng rau
xanh trong bữa ăn hằng ngày để điều trị các
bệnh thông thường. Thống kê cũng cho thấy 84%
người được phỏng vấn biết các loại cây cỏ mọc
51
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG
hoang dại xung quanh nhà có thể điều trị bệnh.
Số liệu phỏng vấn kinh nghiệm của người dân
liệt kê các loại rau được sử dụng nhiều trong
bữa ăn hằng ngày như một loại thuốc gồm: lạc
tiên/nhãn lồng (Passiflora foetida L.) nấu canh
để trị mất ngủ; lành canh (Cassia siamea Lamk)
nấu canh để ăn cho mát khi trong người bị
nóng; lá nhàu (Morinda citrifolia L.), lá lốt (Piper
lolot L.) nấu ăn khi bị nhức mỏi; lá cứt quạ
(Gymnopetalum cochinchinense (Lour.) Kurz), bồ
ngót (Sauropus androgynus (L.) Merr.) nấu canh
ăn để giải nhiệt hay nóng gan; sâm đất (Talinum
patens (L.) Willd), rau dịu (Alternanthera sessilis
(L.) A. DC.) nấu canh để nhuận tràng, bổ máu.
Ngoài ra, các loài cây gia vị như sả (Cymbopogon
citratus (DC.) Stapf ), ớt (Capsicum frutescens
L.), các loại ngải (chi Hedychium), gừng (Zin-
giber officinale Roscoe.). . . cũng được sử dụng
nhiều trong bữa ăn để cân bằng âm dương và
trị bệnh. Nhóm các loại cây mọc hoang dại được
người dân sử dụng nhiều nhất để điều trị bệnh tại
nhà gồm: chó đẻ thân xanh (Phyllanthus amarus
Schum. et Thonn.) lợi tiểu, mát gan; cỏ mực
(Eclipta prostrata (L.) L) sát trùng, bổ máu; cỏ
xước (Achyranthes aspera L.) lọc máu, lợi tiểu;
cam thảo đất (Scoparia dulcis L.) giải độc cơ thể;
cam thảo dây (Abrus precatorius L.) sát trùng,
tiêu viêm; cỏ cứt heo (Ageratum conyzoides L.) sổ
mũi, viêm xoang, giải độc; ô rô xanh (Acanthus
ilicifolius L.) tan máu bầm, giảm đau, trị gan; cỏ
mần trầu (Eleusine indica (L.) Gaertn.) hạ nhiệt,
làm mát gan; cỏ sữa lá lớn (Euphorbia hirta L.)
thông sữa, tiêu viêm; lức (Pluchea indica (L.)
Less.) cảm mạo, phong thấp. . .
Như vậy, với bản tính chất phác, đặc tính sử
dụng cây làm thuốc của người Khmer Trà Vinh
đơn giản, đa số được kết hợp với ăn uống hằng
ngày. Mặt khác, do có sự giao thoa với văn hóa
của người Hoa và người Việt (phát triển về y học
cổ truyền thuốc bắc và thuốc nam) tại Trà Vinh,
các cây thuốc mà người Khmer sử dụng cũng
được lưu truyền theo hướng truyền miệng từ các
bài thuốc có sẵn của dân tộc mình hoặc pha trộn
các dân tộc khác có gia giảm theo kinh nghiệm
của từng người nhưng ít được ghi chép chi tiết
và cần được kiểm chứng nhiều hơn.
Chúng tôi tiến hành thu thập số liệu tại Bệnh
viện Y dược Cổ truyền tỉnh Trà Vinh và các chùa
Tịnh độ cư sĩ trong địa bàn tỉnh Trà Vinh. Số liệu
thống kê cho thấy, người Khmer ở Trà Vinh đã
có thói quen đến các trung tâm khám chữa bệnh
bằng đông y. Thống kê số liệu người Khmer đến
khám bệnh tại Bệnh viện Y dược Cổ truyền tỉnh
Trà Vinh năm 2016 là 3547 lượt người (nguồn
do Bệnh viện Y dược Cổ truyền tỉnh Trà Vinh
cung cấp), điều tra số người đến khám bệnh tại
các chùa Tịnh độ cư sĩ (Hưng Vĩnh Tự, Hưng
An Tự) và điều tra phỏng vấn số người thường
đi khám bệnh bằng đông y tại điểm Chùa Bảy
Sào Dơi và chùa Ba Trạch, số liệu thu được trên
7000 lượt (nguồn do điều tra phỏng vấn). Kết quả
khảo sát tại Bệnh viện Y dược Cổ truyền tỉnh Trà
Vinh và các chùa Tịnh độ cư sĩ tại Trà Vinh, số
liệu năm 2016 cho thấy nhóm bệnh thường gặp ở
người Khmer điều trị bằng đông y được thể hiện
qua Bảng 1 và Bảng 2.
Bảng 1: Danh sách năm loại bệnh được điều trị
nhiều nhất cho bệnh nhân người Khmer tại Bệnh
viện Y dược Cổ truyền tỉnh Trà Vinh (năm 2016)
STT Loại bệnh %
1 Thoái hóa thân đốt sống/đau dây TK tọa 54
2 Di chứng tai biến mạch máu 11
3 Viêm dạ dày tá tràng 7
4 Bệnh tim do thiếu máu cục bộ 7
5 Viêm xoang 6
(Nguồn: Bệnh viện Y dược Cổ truyền
tỉnh Trà Vinh cung cấp)
Bảng 2: Danh sách năm loại bệnh được điều trị
nhiều nhất cho bệnh nhân người Khmer tại các
chùa Tịnh độ cư sĩ ở Trà Vinh (năm 2016)
STT Loại bệnh %
1 Tê thấp, đau nhức (lưng, khớp) 50
2 An thần (mất ngủ), bổ dưỡng 20
3 Giải độc gan, thận (lợi tiểu, thông mật) 10
4 Huyết áp (tim mạch) 7
5 Ho hen 5
(Nguồn: Kết quả điều tra phỏng vấn
của tác giả)
52
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG
Kết quả khảo sát tại Bệnh viện Y dược Cổ
truyền tỉnh Trà Vinh cũng cho thấy hầu hết thuốc
điều trị bệnh cho bệnh nhân được sử dụng theo
danh mục của Nhà nước quy định, đa số là dạng
thuốc viên, nang. Trong khi đó, các chùa Tịnh
độ cư sĩ thường dùng cây thuốc ở dạng tươi. Tại
Bệnh viện Y dược Cổ truyền tỉnh Trà Vinh, ngoài
vườn thuốc mẫu được trồng theo quy định của Bộ
Y tế (70 cây) dùng để nhận diện, bệnh viện còn
có diện tích khoảng 10 ha trồng các loại thảo
dược phục vụ cho việc khám chữa bệnh bằng
thuốc nam. Tuy nhiên, nhóm bệnh nhân khám
tại bệnh viện đa số là châm cứu và vật lí trị
liệu. Trong khi đó, tại các chùa, các nhóm bệnh
điều trị chủ yếu lại là cây thuốc, do quỹ đất của
các chùa không nhiều nên nguồn cây thuốc này
đa phần là do người dân trồng trong các vườn
nhà đem tặng, thu hái nguồn thuốc mọc hoang
ở trong hoặc ngoài tỉnh. Tuy nhiên, nguồn thuốc
rất ổn định.
B. Đánh giá đa dạng cây làm thuốc được sử
dụng điều trị cho người Khmer tại Trà Vinh
Tiến hành điều tra thực địa các nhóm cây được
trồng và mọc hoang dại theo các tuyến và các ô
thu mẫu (các điểm trồng thuốc nam) có điều trị
bệnh cho người Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh
theo sự chỉ dẫn của người dân, các lương y và
người đi tìm thuốc nam, kết quả thu được 205
loài của 175 chi, 71 họ thuộc ngành là Dương
xỉ (Pteridophyta), Thông (Pinophyta) và Ngọc
lan (Magnoliophyta). Trong đó, ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta) là ngành chiếm ưu thế tuyệt đối
với 202 loài.
Bảng 3: Đa dạng các ngành thực vật làm thuốc
cho người Khmer tại Trà Vinh
Ngành Số lượng Tỉ lệ %
Magnoliophyta (ngành Ngọc lan) 202 98.53
Pinophyta (ngành Thông) 1 0.49
Pteridophyta (ngành Dương xỉ) 2 0.98
Chúng tôi tiến hành đánh giá đa dạng về 10 họ
đa dạng nhất trong tổng số 71 họ thực vật dùng
làm thuốc cho người Khmer tại Trà Vinh (Bảng
4.4 và Hình 1). Số liệu thống kê cho thấy 10 họ
thực vật đa dạng nhất chiếm tỉ lệ 44,2%, trong
đó họ Cúc (Asteraceae) có số lượng loài cao nhất
với 21 loài (chiếm 10,2%). Theo Nguyễn Nghĩa
Thìn, các khu hệ thực vật ở vùng nhiệt đới được
xem là đa dạng nếu tổng tỉ lệ % của 10 họ giàu
loài nhất vào khoảng 40 - 50%, trong đó có rất
ít họ chiếm 10% tổng số loài của hệ thực vật
[12]. Như vậy, hệ thực vật làm thuốc cho người
Khmer tại Trà Vinh có thể được xem là đa dạng
về bậc họ. Trong đó, ba họ với tỉ lệ chiếm ưu
thế là Cúc, Đậu và Thầu dầu. Theo Đặng Minh
Quân, đây cũng là ba họ có số lượng loài lớn
trong hệ thực vật Việt Nam và có nhiều cây làm
thuốc nhất [13].
Bảng 4: Đa dạng 10 họ thực vật làm thuốc đa
dạng nhất của người Khmer tại Trà Vinh
Họ Số lượng Tỉ lệ %
Asteraceae (Cúc) 21 10.2
Fabaceae (Đậu) 15 7.3
Euphorbiaceae (Thầu dầu) 11 5.4
Cucurbitaceae (Bầu bí) 9 4.4
Moraceae (Dâu tằm) 7 3.4
Lamiaceae (Hoa môi) 6 2.9
Rutaceae (Cam) 6 2.9
Poaceae (Lúa) 6 2.9
Amaranthaceae (Rau dền) 5 2.4
Apocynaceae (Trúc đào) 5 2.4
Tổng 44.2
Hình 1: Biểu đồ 10 họ thực vật có số loài đa dạng
nhất được dùng điều trị bệnh cho người Khmer
tại Trà Vinh
53
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG
Hình 2: Biểu đồ tỉ lệ % số lượng loài trong các
chi thực vật làm thuốc được dùng điều trị bệnh
cho người Khmer tại Trà Vinh
Về đánh giá đa dạng loài trong các chi
(Hình 2), phân tích biểu đồ Hình 2 cho thấy, tỉ lệ
% chi chỉ thu được một loài rất cao, chiếm hơn
70%. Kết quả này cho thấy tầm quan trọng của
các chi đơn loài trong hệ thực vật làm thuốc của
người Khmer ở Trà Vinh. Nếu một loài trong các
chi đơn loài này mất đi, đồng nghĩa với một chi
của hệ thực vật làm thuốc mất đi, từ đó, nó sẽ
làm giảm sự đa dạng về chi thực vật làm thuốc
tại đây.
Kết quả thống kê số lượng cây thuốc được
trồng và cây mọc hoang dại ở Trà Vinh cho thấy
có sự chênh lệch đáng kể với cây mọc hoang
dại là 73 loài và cây trồng 132 loài. Kết hợp
với kết quả phỏng vấn, nguồn cây thuốc được
sử dụng điều trị bệnh cho người Khmer ở Trà
Vinh chủ yếu là cây trồng. Trong những năm gần
đây, để ổn định nguồn cây thuốc, một số lượng
lớn cây thuốc được lấy từ những vùng ngoài địa
phương (An Giang, Đồng Tháp) đem về trồng tại
Trà Vinh như tô mộc (Caesalpinia sappan L.),
cam thảo núi (Albizzia myriophylla Benth.), hoa
sữa (Alstonia scholaris (L.) R.Br.), móng bò tím
(Bauhinia purpurea L). . .
Đánh giá đa dạng về dạng sống, chúng tôi nhận
thấy cây thân thảo chiếm ưu thế (45,9%), nhưng
ba nhóm cây thân gỗ, thân bụi và thân leo lại có
tỉ lệ xấp xỉ với nhau (20,5%, 17,6%, 16,1%). Đa
dạng về dạng sống được biểu diễn ở Hình 3.
Hình 3: Biểu đồ biểu diễn tỉ lệ % dạng sống của
các cây làm thuốc điều trị bệnh cho người Khmer
tại Trà Vinh
V. KẾT LUẬN
Điều tra tình hình sử dụng y học cổ truyền
trong điều trị bệnh của người Khmer tỉnh
Trà Vinh bước đầu cho thấy số lượng người dân
sử dụng y học cổ truyền để khám chữa bệnh khá
cao, kinh nghiệm và cách sử dụng cây thuốc trong
cuộc sống hằng ngày phong phú và đa dạng.
Kết quả điều tra được 205 loài cây làm thuốc
thuộc 71 họ của ngành thực vật gồm Dương xỉ
(Pteridophyta), Thông (Pinophyta) và Ngọc lan
(Magnoliophyta). Trong đó, Ngọc lan chiếm số
lượng nhiều nhất. Thống kê được ba họ gồm
Cúc, Đậu và Thầu dầu là ba họ đa dạng nhất.
Đánh giá về dạng sống cho thấy nhóm cây thân
thảo chiếm ưu thế nhất. Hệ thực vật làm thuốc ở
Trà Vinh cho người Khmer đa số là cây trồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Nghĩa Thìn. Các phương pháp nghiên cứu
thực vật. Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội;
2008.
[2] UNESCO. Culture and Health, Orientation Texts –
World Decade for Cultural Development 1988 – 1997.
Paris, France, pgs; 1996. Document CLT/DEC/PRO.
[3] WHO. 50 years (1948 – 1998) of the world health
organization in the western pacitic region. Paris,
France, pgs; 1999.
[4] Lê Hữu Trác. Hải Thượng Lãn Ông tâm lĩnh, tập 1,2.
Nhà Xuất bản y học; 2005.
[5] Nguyễn Bá Tĩnh. Nam dược thần hiệu. Hà Nội: Nhà
Xuất bản Y học; 2004.
[6] Đỗ Tất Lợi. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam.
Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Kĩ thuật; 2004.
54
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG
[7] Võ Văn Chi. Từ điển cây thuốc Việt Nam. Hà Nội:
Nhà Xuất bản Y học; 2012.
[8] Trần Phước Thuận. Các hình thức chữa bệnh và vai
trò của y học cổ truyền trong đời sống các dân tộc ở
tỉnh Sóc Trăng trước năm 1945. Tạp chí Hán Nôm.
2007;4(83).
[9] Nguyễn Tập. Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt
Nam. Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam; 2007.
[10] Phạm Hoàng Hộ. Cây cỏ Việt Nam quyển 1, 2, 3.
Nhà Xuất bản Trẻ; 1999.
[11] Vũ Cao Đàm. Phương pháp luận nghiên cứu khoa
học. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật;
2005.
[12] Nguyễn Thị Yến. Nghiên cứu tính đa dạng thực vật
trong các hệ sinh thái rừng ở Vườn Quốc gia Xuân
Sơn, tỉnh Phú Thọ làm cơ sở cho công tác quy hoạch
và bảo tồn [Luận án Tiến sĩ]. Đại học Thái Nguyên;
2015.
[13] Đặng Minh Quân, Trần Đức Toàn. Đa dạng nguồn
tài nguyên làm thuốc ở huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên
Giang. Trong: Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ
6 - Báo cáo khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật. Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Hà Nội;
21/10/2015. .
55

File đính kèm:

  • pdfdieu_tra_tinh_hinh_kham_chua_benh_bang_y_hoc_co_truyen_va_da.pdf