Điều kiện làm việc của nhân viên y tế chuyên ngành giám định pháp y tâm thần

Tóm tắt

Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá môi trường làm việc của nhân viên y tế (NVYT) tại

một Viện chuyên ngành giám định pháp y tâm thần. Một số yếu tố trong môi trường lao động (yếu

tố vật lý, bụi, hóa học, vi sinh vật) được đo đạc và phân tích đặc điểm yêu cầu công việc để đánh

giá gánh nặng lao động ở nhân viên y tế.

Kết quả nghiên cứu cho thấy: Môi trường lao động của NVYT tại hầu hết các khoa đều nằm

trong giới hạn cho phép ngoại trừ ánh sáng và yếu tố vi sinh vật tại một số vị trí vượt quá tiêu

chuẩn cho phép (TTCP). Điều kiện lao động của NVYT chuyên ngành giám định pháp y tâm thần

có nhiều đặc điểm rất đặc biệt: Đối tượng điều trị, chăm sóc của các nhân viên y tế là những đối

tượng vi phạm pháp luật bị bệnh tâm thần; các đối tượng phạm tội nghiêm trọng; không có khả

năng kiểm soát năng lực, hành vi nên NVYT có thể bị tấn công, hành hung bất cứ khi nào và có

thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng. NVYT chuyên ngành giám định pháp y tâm thần đòi hỏi

phải có trách nhiệm rất cao trong công việc, đặc biệt các bệnh nhân đang trong giai đoạn giám

định bệnh và có nguy cơ lây nhiễm bệnh cao từ các bệnh nhân.

Các tác giả khuyến nghị cần có biện pháp cải thiện môi trường làm việc, làm giảm căng thẳng

nghề nghiệp ở NVYT chuyên ngành giám định pháp y tâm thần.

pdf 6 trang phuongnguyen 7800
Bạn đang xem tài liệu "Điều kiện làm việc của nhân viên y tế chuyên ngành giám định pháp y tâm thần", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều kiện làm việc của nhân viên y tế chuyên ngành giám định pháp y tâm thần

Điều kiện làm việc của nhân viên y tế chuyên ngành giám định pháp y tâm thần
102
K;t qu7 nghiên cDu KHCN
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 1,2&3-2019
ĐIỀU KIỆN LÀM VIỆC CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ
CHUYÊN NGÀNH GIÁM ĐỊNH PHÁP Y TÂM THẦN
Nguy Bích Liên
Nguy Son, HAng Quang Th@ng, Tr8n Tr?ng Hi;u,
Tr8n Văn Toàn, Nguy Th:m
Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lao động nhân viên y tế là dạng lao độngđặc thù, mỗi chuyên ngành có một đặcđiểm riêng biệt về điều kiện lao động:
nhân viên X-Quang thường xuyên phải tiếp xúc
với tia X, nhân viên điều trị ung thư phải tiếp xúc
với các hóa chất, phóng xạ; nguy cơ lây nhiễm
HIV nghề nghiệp rất cao ở các nhân viên điều trị
cho bệnh nhân nhiễm HIV, AIDS Nhiều nghiên
cứu cũng đã chỉ ra có mối liên quan giữa các vấn
đề về sức khỏe của NVYT có liên quan đến tính
chất công việc. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các
nhân viên y tế làm việc trong lĩnh vực chăm sóc
sức khoẻ cho bệnh nhân có nguy cơ bị stress
cao hơn nhiều lần so với các ngành nghề khác.
Nghiên cứu của Linn LS, et al. (1985) [5], Agius
RM et al. (1996) [1] cho thấy có tới 25% các bác
sĩ lâm sàng bị stress, trầm cảm, lo âu và kiệt
sức. Ảnh hưởng của stress nghề nghiệp đến
sức khoẻ là mệt mỏi, lo âu, trầm cảm, không
thoả mãn với công việc, giảm chất lượng chăm
Tóm tắt
Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá môi trường làm việc của nhân viên y tế (NVYT) tại
một Viện chuyên ngành giám định pháp y tâm thần. Một số yếu tố trong môi trường lao động (yếu
tố vật lý, bụi, hóa học, vi sinh vật) được đo đạc và phân tích đặc điểm yêu cầu công việc để đánh
giá gánh nặng lao động ở nhân viên y tế.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Môi trường lao động của NVYT tại hầu hết các khoa đều nằm
trong giới hạn cho phép ngoại trừ ánh sáng và yếu tố vi sinh vật tại một số vị trí vượt quá tiêu
chuẩn cho phép (TTCP). Điều kiện lao động của NVYT chuyên ngành giám định pháp y tâm thần
có nhiều đặc điểm rất đặc biệt: Đối tượng điều trị, chăm sóc của các nhân viên y tế là những đối
tượng vi phạm pháp luật bị bệnh tâm thần; các đối tượng phạm tội nghiêm trọng; không có khả
năng kiểm soát năng lực, hành vi nên NVYT có thể bị tấn công, hành hung bất cứ khi nào và có
thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng. NVYT chuyên ngành giám định pháp y tâm thần đòi hỏi
phải có trách nhiệm rất cao trong công việc, đặc biệt các bệnh nhân đang trong giai đoạn giám
định bệnh và có nguy cơ lây nhiễm bệnh cao từ các bệnh nhân.
Các tác giả khuyến nghị cần có biện pháp cải thiện môi trường làm việc, làm giảm căng thẳng
nghề nghiệp ở NVYT chuyên ngành giám định pháp y tâm thần.
TE khoá: Môi trường làm việc, điều kiện lao động, nhân viên y tế, giám định pháp y tâm thần
103
K;t qu7 nghiên cDu KHCN
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 1,2&3-2019
sóc sức khoẻ cho bệnh nhân, nghiện rượu, số
ngày nghỉ ốm cao, về hưu sớm, và mắc một số
bệnh liên quan đến stress như loét dạ dày, nhồi
máu cơ tim, cao huyết áp... vv.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đánh giá môi trường làm việc của nhân viên
y tế tại một viện chuyên ngành giám định pháp y
tâm thần
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Môi trường lao động của nhân viên y tế tại
một viện chuyên ngành giám định pháp y tâm
thần
- Đặc điểm điều kiện lao động của nhân viên
y tế chuyên ngành giám định pháp y tâm thần
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cDu mô t7 c:t ngang
3.2.2. Ph54ng pháp thGc hi=n
* Thiết bị (đo, lấy mẫu và phân tích mẫu) và
phương pháp (lấy mẫu, xác định):
Đo các yếu tố vật lý:
Đo vi khí hậu bằng máy: Kimo – Pháp;
Đo ánh sáng bằng máy: Testo 540- Đức;
Đo tiếng ồn bằng máy: Casella - Mỹ;
Đo các yếu tố bụi:
- Xác định nồng độ bụi toàn phần trong không
khí bằng máy điện tử Micro Dust của Mỹ.
- Xác định nồng độ bụi hô hấp trong không
khí bằng máy điện tử Micro Dust của Mỹ.
Đo, lấy mẫu và phân tích hơi khí độc bằng
máy:
- Xác định nồng độ hơi khí độc trong không
khí bằng máy Quest (Mỹ).
- Máy lấy mẫu Kimoto - Nhật, Máy trắc quang
(UV-VIS, Anh, Máy Quest (Mỹ).
Vi sinh vật trong không khí:
Lấy mẫu không khí để xác định số lượng vi
sinh vật chỉ điểm trong không khí theo Thường
quy kỹ thuật Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi
trường (Nhà xuất bản Y học năm 2015).
- Môi trường Nutrien agar xác định tổng số vi
khuẩn hiếu khí (TSVKHK) ở nhiệt độ nuôi cấy
370C/48 giờ.
- Môi trường Sabouraud agar: xác định tổng
số nấm mốc (TSNM) ở nhiệt độ 280C/ 7-10 ngày.
- Môi trường thạch máu: xác định tổng số cầu
khuẩn tan máu (TSCKTM) ở nhiệt độ nuôi cấy
370C/24 giờ.
Tiêu chuẩn tham chiếu: Quy chuẩn Việt Nam
(QCVN), tiêu chuẩn ngành (TCN) và khuyến cáo
của WHO (WHO suggestion).
Ghi chú: Hiện tại ở Việt Nam chưa có qui định
tiêu chuẩn cho phép Vi sinh vật trong không khí.
*Tiêu chí đánh giá:
- Theo khuyến cáo của WHO (WHO sugges-
tion) dành cho bệnh viện để đánh giá mức độ vi
sinh vật trong môi trường không khí tại bệnh viện:
Loҥi phòng Sӕ vi sinh vұt sӕng/1m
3
không khí 
Phân loҥi
Phòng mә, phòng chăP VyF ÿһc
biӋt, phòng xét nghiӋm. <10 CFU/1m
3 không khí MӭF ÿӝ I: rҩt ít vi khuҭn
Phòng cҩp cӭu, phòng hұu
phүu, phòng tiêm. <200 CFU/1m
3 không khí MӭF ÿӝ II: ít vi khuҭn
Phòng bӋnh nhân, phòng khám. 200 - 250 CFU/1m3 không khí MӭF ÿӝ III 
104
K;t qu7 nghiên cDu KHCN
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 1,2&3-2019
Romanovici: đối với nấm mốc:
- Đánh giá gánh nặng lao động theo đặc điểm
yêu cầu của công việc bằng phương pháp quan
sát, phỏng vấn và bấm thời gian lao động
3.2.3 XF lý s@ li=u theo ph54ng pháp th@ng
kê y h?c.
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Môi trường lao động của nhân viên y tế
4.1.1. Y;u t@ v9t lý
Nhận xét:
* Kết quả đo vi khí hậu cho thấy:
- Nhiệt độ không khí tại các vị trí đo được dao
động từ 18,0 – 19,00C, so với quy chuẩn cho
phép QCVN 26:2016/BYT, tất cả các vị trí nhiệt
độ đều nằm ở mức giới hạn cho phép.
- Độ ẩm không khí tại các vị trí đo được dao
động từ 63,3 –69,8%, so với quy chuẩn cho
phép QCVN 26:2016/BYT, tất cả các vị trí độ ẩm
không khí đều đáp ứng mức giới hạn cho phép.
- Tốc độ gió tại các vị trí đo được dao động từ
0,14-0,21m/s, so với quy chuẩn cho phép QCVN
26:2016/BYT, tất cả các vị trí tốc độ gió đều nằm
ở mức quy định cho phép.
* Cường độ ánh sáng đo được ở các vị trí
dao động từ: 70Lux – 356Lux. So với quy chuẩn
cho phép QCVN 22:2016/BYT, có 15 vị trí cường
độ ánh sáng đo được không đạt giới hạn cho
phép, các vị trí còn lại cường độ ánh sáng nằm
ở mức giới hạn cho phép.
* Cường độ tiếng ồn
- Tiếng ồn chung đo được ở các vị trí dao
động từ 52,2dBA - 70,5dBA. So với quy chuẩn
cho phép (QCVN 24:2016/BYT), tất cả các vị trí
tiếng ồn đều nằm ở mức giới hạn cho phép.
- Tiếng ồn phân tích ở các dải tần số dao
động từ 25,5 – 66,5dB. So với quy chuẩn cho
phép (QCVN 24:2016/BYT), tất cả các vị trí tiếng
ồn đều nằm ở mức giới hạn cho phép.
TT YӃX Wӕ TәQJ
sӕ PүX
Giá trӏ ĈҥW 7&96&3 .K{QJ ÿҥW 7&96&3
n % n %
1 Vi khí hұX
- NhiӋW ÿӝ 0C) 21 18,0-18,6 21 100 0 0 
- Ĉӝ ҭP  21 63,3-69,8 21 100 0 0 
- TӕF ÿӝ JLy PV 21 0,14-0,21 21 100 0 0 
2 Ánh sáng (Lux) 17 70-356 2 11,8 15 88,2 
3 TiӃQJ ӗQ G%$ 21 52,5-70,5 21 100 0 0 
Loҥi không khí CFU/m3 không khí 
Rҩt sҥch 0
Sҥch 150 
Trung bình 385 
Bҭn > 385 
105
K;t qu7 nghiên cDu KHCN
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 1,2&3-2019
4.1.2. BCi các lo6i
Nhận xét: Nồng độ bụi đo được ở các vị trí cho thấy:
- Nồng độ bụi toàn phần đo được dao động từ 0,068 – 0,090mg/m3.
- Nồng độ bụi toàn phần đo được dao động từ 0,052 – 0,074mg/m3.
So với tiêu chuẩn cho phép (theo Quyết định số: 3733/2002/QĐ-BYT). Nồng độ bụi toàn phần và
bụi hô hấp ở tất cả các vị trí đều nằm ở mức giới hạn cho phép.
4.1.3. Y;u t@ hóa h?c, h4i khí đBc
Nhận xét: Tại thời điểm đo, tất cả các vị trí nồng độ hơi khí CO2 và NH3 đều nằm ở mức giới hạn
cho phép theo Quyết định số: 3733/2002/QĐ-BYT.
4.1.4. Y;u t@ vi sinh v9t
Nhận xét: Kết quả đo các chỉ tiêu vi sinh vật trong không khí bao gồm (Tổng vi khuẩn hiếu khí;
Tổng vi khuẩn tan máu; Tổng nấm mốc) tại một số phòng trong Viện cho thấy tất cả các mẫu vi sinh
vật trong không khí đều không đạt tiêu chuẩn theo khuyến cáo của WHO dành cho bệnh viện.
4.2. Đặc điểm điều kiện lao động của nhân viên y tế chuyên ngành giám định pháp y tâm thần
Điều kiện lao động của các NVYT chuyên ngành giám định pháp y tâm thần khá đặc thù và có
nhiều yếu tố công việc gây căng thẳng thần kinh tâm lý:
- Đối tượng điều trị, chăm sóc của các nhân viên y tế là những đối tượng vi phạm pháp luật bị
TT YӃX Wӕ TәQJ Vӕ PүX ĈҥW 7&96&3 .K{QJ ÿҥW 7&96&3
n % n %
1 Khí CO2 18 18 100 0 0 
3 Khí NH3 5 5 100 0 0 
TT YӃX Wӕ TәQJ Vӕ
mүX
ĈҥW 7&96&3 .K{QJ ÿҥW 7&96&3
n % n %
1 Tәng sӕ vi khuҭn hiӃu khí 
14 
0 0 14 
100 2 Tәng sӕ cҫu khuҭn tan máu 
3 Tәng sӕ nҩm mӕc
TT YӃX Wӕ TәQJ Vӕ
mүX
Giá trӏ
(mg/m3)
ĈҥW 7&96&3 .K{QJ ÿҥW 7&96&3
n % n %
1 BөL WRàn phҫQ 16 0,068 – 0,090 16 100 0 0 
2 BөL K{ KҩS 12 0,052 – 0,074 12 100 0 0 
106
K;t qu7 nghiên cDu KHCN
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 1,2&3-2019
V. BÀN LUẬN
Môi trường làm việc của các NVYT có nhiều
yếu tố nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe: phải
tiếp xúc với các vi sinh vật, hóa chất độc hại,
căng thẳng thần kinh tâm lý, tiếp xúc trực tiếp
với bệnh nhân có nguy cơ lây nhiễm cao (lao,
viêm gan B, HIV), tiếp xúc với các vật sắc
nhọn (kim tiêm); đặc biệt đối với nhân viên
y tế giám định pháp y tâm thần phải trực tiếp tiếp
xúc bệnh nhân tâm thần có tính chất phạm tội,
nguy hiểm, tiếp xúc với các thuốc/ dược liệu
hướng tâm thần, gây độc (Aminazin,
Amitriptylin)
Demiral et al. (2002) [2] đã nghiên cứu trên
300 bác sĩ ở các chuyên khoa khác nhau và tìm
thấy tỷ lệ chung về trầm cảm và lo âu là 18,9%
và 27,4% ở các bác sĩ. Một số lượng lớn các
nghiên cứu đã chỉ ra 25-30% nhân viên y tế bị
kiệt sức là hậu quả các công việc của họ trong
ngành y tế (Grassi & Magnani, 2000). Các yếu tố
nguy cơ là gánh nặng công việc, tổ chức lao
động tồi, mâu thuẫn nhóm và phải chăm sóc các
bệnh nhân nặng, tiếp xúc hàng ngày với người
chết và các vấn đề tử vong, những phản ứng
thái quá từ các gia đình bệnh nhân là những
nguồn stress lớn. Estrin-Behar và CS. (1990) [3]
đã nghiên cứu gánh nặng tâm lý trên 1505 cán
bộ y tế nữ tại Pháp trong năm 1990. Năm chỉ số
y tế được nghiên cứu: sự mệt nhọc, suy nhược,
sử dụng thuốc chống trầm cảm, sử dụng thuốc
ngủ, sử dụng thuốc an thần, và các rối loạn tâm
lý. Kết quả cho thấy mất ngủ liên quan nhiều đến
căng thẳng nghề nghiệp. Tất cả 5 chỉ số trên đều
liên quan đến quá tải trong công việc.
Một nghiên cứu dọc trong vòng 2 năm về sức
khoẻ, bệnh tật và nghỉ ốm của các bác sỹ làm
việc tại bệnh viện Phần Lan đã được tiến hành
lần đầu tiên vào năm 2001 (Kivimaki và CS) [4].
Kết quả cho thấy việc vắng mặt của các bác sỹ
ở bệnh viện liên quan rất mật thiết đến tình trạng
sức khoẻ và bệnh tật của các bác sỹ. Shamian
và CS (2000) [6] đã nghiên cứu 6.609 y tá làm
việc tại 160 bệnh viện tại Canada. Kết quả cho
thấy tình trạng sức khoẻ của y tá tốt hơn trong
bệnh tâm thần, các đối tượng phạm tội nghiêm
trọng, không có khả năng kiểm soát năng lực,
hành vi nên NVYT có thể bị tấn công, xâm hại
bất cứ khi nào và có thể ảnh hưởng trực tiếp đến
tính mạng → do vậy tính chất công việc rất đặc
thù, luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố nguy cơ nguy
hiểm cho cán bộ nhân viên nhất là khi không có
lực lượng bảo vệ chuyên nghiệp cho các cán bộ
nhân viên khi làm việc. Đồng thời đây là đối
tượng phạm pháp, có tính chất xã hội rất phức
tạp, nên nhân viên không chỉ có nguy cơ khi ở
trong Viện mà khi ra ngoài xã hội cũng có thể có
những nguy cơ nguy hiểm.
- Bác sĩ, điều dưỡng, hộ lý tuy phải thực hiện
các chức trách, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều có
chung một điểm là phải trực tiếp tiếp xúc với phân,
mủ, nước tiểu của bệnh nhân tâm thần mang tính
xã hội cao, có các nguồn bệnh lây nhiễm cao như:
phong, lao, HIV/AIDS, viên gan B...
- Số lượng đối tượng bệnh nhân tương đối
đông, việc điều trị cho bệnh nhân cũng có nhiều
điểm đặc biệt. Hàng ngày các bệnh nhân được
phát thuốc và phải được giám sát chặt chẽ cho
từng bệnh nhân, đảm bảo uống hết thuốc ngay
tại chỗ; đồng thời phải giám sát suất ăn của
bệnh nhân, đảm bảo bệnh nhân không bỏ ăn.
Một công việc đặc thù nữa của các nhân viên y
tế chuyên ngành giám định pháp y tâm thần là
kiểm tra loại trừ vật sắc nhọn trong phòng và
trên người bệnh nhân, đây là công việc rất khó
khăn và đòi hỏi khéo léo, tỉ mỉ.
- Yêu cầu mức độ trách nhiệm rất cao của
NVYT trong công việc; đòi hỏi tính chính xác
tuyệt đối, không cho phép sai sót do gây hậu quả
nghiêm trọng, ảnh hưởng tới tính mạng con
người cũng như tính chất nghiêm trọng của xã
hội
- Phải trực đêm: cũng như các NVYT nói
chung, NVYT chuyên ngành giám định pháp y
tâm thần cũng phải trực đêm với một tinh thần
trách nhiệm rất cao đảm bảo an toàn cho các
bệnh nhân đặc biệt các đối tượng nguy hiểm,
bệnh nhân đang trong giai đoạn giám định bệnh
107
K;t qu7 nghiên cDu KHCN
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 1,2&3-2019
các bệnh viện có điều kiện làm việc tốt hơn,
những y tá làm việc ít thời gian/ trong 1 tuần có
điều kiện sức khoẻ tốt hơn những y tá làm việc
tất cả các ngày trong tuần.
VI. KẾT LUẬN
- Môi trường lao động của NVYT tại hầu hết
các khoa đều nằm trong giới hạn cho phép ngoại
trừ ánh sáng và yếu tố vi sinh vật tại một số vị trí
vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TTCP).
- Điều kiện lao động của NVYT chuyên ngành
giám định pháp y tâm thần có nhiều đặc điểm rất
đặc biệt: Đối tượng điều trị, chăm sóc của các
nhân viên y tế là những đối tượng vi phạm pháp
luật bị bệnh tâm thần; các đối tượng phạm tội
nghiêm trọng; không có khả năng kiểm soát
năng lực, hành vi nên NVYT có thể bị tấn công,
hành hung bất cứ khi nào và có thể ảnh hưởng
trực tiếp đến tính mạng. NVYT chuyên ngành
giám định pháp y tâm thần đòi hỏi phải có trách
nhiệm rất cao trong công việc, đặc biệt các bệnh
nhân đang trong giai đoạn giám định bệnh và có
nguy cơ lây nhiễm bệnh cao từ các bệnh nhân.
VII. KHUYẾN NGHỊ
Các tác giả khuyến nghị cần có biện pháp cải
thiện môi trường làm việc, làm giảm gánh nặng
lao động ở NVYT chuyên ngành giám định pháp
y tâm thần
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Agius RM, Blerkin H, Deary IJ, et al
(1996). Survey of perceived stress and work
demands of consultant physicians. Occup
Environ Med 1996; 53: 217–224.
[2]. Demiral, Y, Akvardarr, Y., Ergor A., Ergor
G. (2003). The impact of job satisfaction on anx-
iety and depression levels among physicians.
Book Abstract of 27th ICOH in Brazil. 34.4.
[3]. Estryn-Behar M, Kaminski M, Peigne E,
et al (1990). Stress at work and mental health
status among female hospital workers. Br J Ind
Med. 1990 Jan;47(1):20-8.
[4]. Kivimaki M, Sutinen R, Elovainio M, et al
(2001). Sickness absence in hospital physicians:
2 year follow up study on determinants. Occup
Environ Med. 2001 Jun;58(6):361-6
[5]. Linn LS, Yager J, Cope D, Leake B (1985).
Health status, job satisfaction, job stress and life
satisfaction among academic and clinical faculty.
JAMA 1985; 254: 2775–2782.
[6]. Shamian J, Kerr MS, Laschinger HK,
Thomson D (2002). A hospital-level analysis of
the work environment and workforce health indi-
cators for registered nurses in Ontario's acute-
care hospitals. Can J Nurse Res. 2002
Mar;33(4):35-50
Ảnh sưu tầm. Nguồn: Internet

File đính kèm:

  • pdfdieu_kien_lam_viec_cua_nhan_vien_y_te_chuyen_nganh_giam_dinh.pdf