Diễn đàn: Báo cáo ca lâm sàng: can thiệp nội mạch cấp cứu điều trị vỡ giả phình động mạch lách có tình trạng sốc mất máu-Một biến chứng ở bệnh nhân viêm tụy cấp

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

 Viêm tụy cấp thể nặng hoặc viêm tụy cấp hoại tử dẫn đến tụ nhiều dịch trong ổ bụng, dịch này chứa nhiều enzyme ngoại tiết có khả năng tiêu các lớp mạch máu. Điều này gây nhiều biến chứng có thể kể đến sự hình thành các ổ giả phình hoặc tạo nên ổ tụ máu trong các cơ quan và các khoang trong ổ bụng do thủng thành mạch hoặc do vỡ ổ giả phình. Phình mạch tạng là biến chứng hiếm gặp trong viêm tụy cấp/mạn chiếm khoảng 10% [1]. Trong số này, giả phình động mạch lách gặp nhiều nhất (60-65%), sau đó là động mạch vị tá trang (20-25%), động mạch tá tụy (10-15%), động mạch gan (5-10%), động mạch vị trái (2-5%) [2]. Biến chứng này khó tiên lượng và có thể dẫn đến nhiều trường hợp nặng ảnh hưởng đến tính mạng

pdf 8 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Diễn đàn: Báo cáo ca lâm sàng: can thiệp nội mạch cấp cứu điều trị vỡ giả phình động mạch lách có tình trạng sốc mất máu-Một biến chứng ở bệnh nhân viêm tụy cấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Diễn đàn: Báo cáo ca lâm sàng: can thiệp nội mạch cấp cứu điều trị vỡ giả phình động mạch lách có tình trạng sốc mất máu-Một biến chứng ở bệnh nhân viêm tụy cấp

Diễn đàn: Báo cáo ca lâm sàng: can thiệp nội mạch cấp cứu điều trị vỡ giả phình động mạch lách có tình trạng sốc mất máu-Một biến chứng ở bệnh nhân viêm tụy cấp
104 ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019
* BSNT ĐHY Hà Nội
** Trung tâm Điện quang BV Bạch Mai
DIỄN ĐÀN
MEDICAL FORUM
SUMMARY
Background: Rupture of splenic artery pseudoaneurysm (SAPs)secondary to pancreatitis is a uncommon complication, but 
one with a high mortality rate. Patient generally presented with gastrointestinal bleeding’s symptoms ranging from mild anemia 
to hemorrhagic shock.Contrast-enhanced abdominal computed tomography (CT) plays an important role in diagnosis, but digital 
subtraction angiography (DSA) is the gold-standard method to determine the correct diagnosis and make treatment planning.
Nowadays, SAPs have been managed with many methods. Endovascular intervention remains the first choice asminimal invasion 
and a waste of the short time,especially for emergency cases. This article describes a case of SAPs rupture complicated by chronic 
pancreatitis. Patient admidtted with hypovolemic shock andsuccessfully treated using endovascular coil embolization.
Case presentation: A 46 years old man with a past medical histoty of pancreatitisattended to Bach Mai hospital due to 
hemorrhagic shock as result of acute upper gastrointestinal bleeding. He was intubated and received platelet infusion in secondary 
hospital.Upper gastrointestinal endoscopyshowed bleeding from the major duodenal papilla, but the source of bleeding remained 
obscured. CTrevealedrupture of splenic artery pseudoaneurysm causing haemosuccuspancreaticus and duodenal bleeding. Patient 
immediately managed with coil embolizationby Sandwich technique.After procedure, anemia was controlled steady, butsigns of 
peritonitis began to appear. At that time, CT images discovered multiple abcesses in hypogastric region and alsso suspectednecrosis 
of the colonic wall. The patient underwentcolectomy and colostomy in left lumbar region. On the 20th day, he was discharged from 
hospital with no symptoms and normal blood test.
Conclusion: Treatment of acute gastrointestinal bleeding from a splenic artery pseudoaneurysm rupture need to access 
rapidly and manage reasonably. Emergency endovascular interventions should be the first selection to prevent continous bleeding.
Keyword: splenic artery aneurysm rupture, hemorrhagic shock, pancreatitis, emergency endovascular interventions.
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG: CAN THIỆP NỘI 
MẠCH CẤP CỨU ĐIỀU TRỊ VỠ GIẢ PHÌNH 
ĐỘNG MẠCH LÁCH CÓ TÌNH TRẠNG SỐC 
MẤT MÁU- MỘT BIẾN CHỨNG Ở BỆNH 
NHÂN VIÊM TỤY CẤP
Splenic artery pseudoaneurysm rupture with hemorrhagic 
shockas complication of acute pancreatitis treated with 
emergency endovascular interventions: A case report
Mai Văn Hải*, Ngô Lê Lâm**, Trịnh Hà Châu**,
Lê Văn Khảng**, Vũ Đăng Lưu**, Phạm Minh Thông**
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tụy cấp thể nặng hoặc viêm tụy cấp hoại tử 
dẫn đến tụ nhiều dịch trong ổ bụng, dịch này chứa nhiều 
enzyme ngoại tiết có khả năng tiêu các lớp mạch máu. 
Điều này gây nhiều biến chứng có thể kể đến sự hình 
thành các ổ giả phình hoặc tạo nên ổ tụ máu trong các 
cơ quan và các khoang trong ổ bụng do thủng thành 
mạch hoặc do vỡ ổ giả phình. Phình mạch tạng là biến 
chứng hiếm gặp trong viêm tụy cấp/mạn chiếm khoảng 
10% [1]. Trong số này, giả phình động mạch lách gặp 
nhiều nhất (60-65%), sau đó là động mạch vị tá trang 
(20-25%), động mạch tá tụy (10-15%), động mạch gan 
(5-10%), động mạch vị trái (2-5%) [2]. Biến chứng này 
khó tiên lượng và có thể dẫn đến nhiều trường hợp 
nặng ảnh hưởng đến tính mạng. Theo thống kê, tỉ lệ 
tử vong có thể 12.5% nếu được can thiệp và 90% nếu 
105
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019
không được điều trị [3], [4]. Trước đây, phương pháp 
điều trị chính là phẫu thuật với tỉ lệ tử vong lên đến 
56% [1]. Hiện nay với sự phát triển của các phương 
tiện chẩn đoán hình ảnh, can thiệp nội mạch nút tắc ổ 
giả phình là phương pháp được lựa chọn đầu tiên. Bài 
báo nàychúng tôi báo cáo một trường hợp hiếm gặp giả 
phình động mạch lách vỡ gây chảy máu ống tụy và sốc 
mất máu trên nền bệnh nhân viêm tụy cấp.
II. CA LÂM SÀNG
Bệnh nhân nam 46 tuổi có tiền sử viêm tụy cấp 
3 lần, uống rượu khoảng 0,5 lít/ngày trong nhiều năm. 
Bệnh khởi phát cách vào viện 2 tuần, bệnh nhân đau 
bụng vùng thượng vị âm ỉ và nôn nhiều ra thức ăn, 
được chẩn đoán viêm tụy cấp và điều trị tại bệnh viện 
tuyến dưới. Cách vào viện 12 giở, bệnh nhân đột ngột 
nôn máu đỏ tươi kèm đi ngoài phân đen, khám lâm 
sang có tình trạng sốc mất máu với mạch 100 nhịp/
phút, huyết áp 90/60mmHg, ý thức giảm. Bệnh nhân 
được xử trí đặt ống nội khí quản và truyền máu, sau đó 
chuyển đến Bệnh viện Bạch Mai.Xét nghiệm tổng phân 
tích tế bào máu và đông máu cơ bản: số lượng hồng 
cầu 0.68G/L, nồng độ huyết sắc tố 15g/l, dung tích 
hồng cầu 0.051, số lượng tiểu cầu 55G/L, PT 56%, INR 
1.51, APTT bệnh /chứng 1.42. Nội soi dạ dày- tá tràng 
cấp cứu ghi nhận tá tràng có nhiều máu tươi, papilla có 
máu chảy thành dòng vào lòng tá tràng. 
Trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính ổ bụng có tiêm 
thuốc cản quang phát hiện một ổ giả phình động mạch 
lách đang vỡ gây chảy máu từ ống tụy chính vào qua 
nhú tá lớn vào tá tràng (Hình 1 và 4), trên nền viêm 
tụy cấp hoại tử phần đuôi tụy (Hình 3). Tình trạng chảy 
máu hoạt động trong quá trình chụp dẫn đến nhiều 
máu trong hệ ruột non kèm theo co nhỏ các động mạch 
ngoại vi- động mạch tạng (Hình 1). Dịch ổ bụng phân bố 
chủ yếu quanh tụy và khoang cạnh thận trước hai bên, 
dịch có tỉ trọng 10-14HU gợi ý bản chất là dịch phản 
ứng viêm tụy cấp (Hình 3).
Hình 1. Hình ảnh nội soi dạ dày có ổ loét nông hang vị (mũi tên đen) 
và máu trong lòng tá tràng (mũi tên vàng)
106
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019
Hình 2. Hình chụp CLVT có tiêm thuốc cản quang thì động mạch có ổ giả phình động mạch lách kích 
thước 25x10mm (mũi tên vàng) đang vỡ chảy máu vào ống tụy chính (mũi tên đỏ), kèm phản ứng co các 
động mạch ngoại vi- hệ động mạch tạng (động mạch thân tạng và các nhánh, động mạch mạc treo tràng 
trên, động mạch đùi chung phải- đầu mũi tên màu đen).
Hình 3. Hình chụp CLVT có tiêm thuốc cản quang thì động mạch thấy tụy tăng kích thước toàn bộ và phần 
đuôi tụy kém ngấm thuốc kèm dịch quanh tụy- khoang cạnh thận trước hai bên.
107
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019
Hình 4: Hình chụp CLVT có tiêm thuốc cản quang thì trước tiêm (hình A), thì động mạch (hình B) và thì tĩnh 
mạch (hình C) có chảy máu trong lòng tá tràng (mũi tên đỏ)
Bệnh nhân được tiến hành nút ổ giả phình cấp cứu qua đường nội mạch dưới DSA. Chúng tôi sử dụng 
phương pháp Sandwich, đưa vi ống thông tiếp cận qua ổ giả phình đến đoạn xa động mạch lách, thả 5 coil nút tắc 
hoàn toàn đoạn xa- gần động mạch lách cấp máu cho ổ giả phình.
.
Hình 5. Hình chụp DSA tại động mạch thân tạng (hình A) thấy ổ giả phình động mạch lách (mũi tên đỏ), 
chụp qua vi ống thông đặt tại đoạn xa (hình B), thả coil (mũi tên vàng) đầu tiên (hình C), chụp lại sau thả 5 
coil nhánh động mạch đến tắc hoàn toàn.
A
A
C D
B
B C
108
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019
Diễn biến bệnh nhân sau can thiệp có cải thiện 
về huyết động so với trước (huyết áp 130/70mmHg, 
mạch 98l/p). Tuy nhiện, bệnh nhân bắt đầu biểu hiện 
tình trạng viêm phúc mạc (đau khắp bụng, khám lâm 
sàng có cảm ứng phúc mạc rõ).Chụp CLVT có tiêm 
thuốc cản quang ghi nhận nhiều ổ tụ dịch- khí sát cột 
sống chạy từ rốn đến hạ vị, kèm nghi ngờ khí trong 
thành manh tràng- đại tràng lên. Kết quả theo dõi tình 
trạng hoại tử đại tràng. Bệnh nhân được phẫu thuật, 
trong mổ quan sát đại tràng hoại tử thủng manh tràng- 
đoạn đầu đại tràng lên- phần lớn đại tràng xuống và 
đại tràng sigma. Tiến hành phẫu thuật cắt bỏ các đoạn 
hoai tử, đóng mỏm trực tràng, đặt hậu môn nhân tạo 
đầu trên đại tràng xuống tại mạn sườn trái, nối bên- 
bên hỗng tràng- đại tràng ngang. Hậu phẫu bệnh nhân 
tiếp tục duy trì ống nội khí quản và thở máy, hồi sức 
tích cực (truyền khối hồng cầu, huyết tương tươi đông 
lạnh, bù nước điện giải). Bệnh nhân được rút ống nội 
khí quản tuần thứ 3 sau mổ, và xuất viện 1 tuần sau 
đó. Hiện tại, bệnh nhân duy trì hậu môn nhân tạo, sinh 
hoạt nhẹ nhàng, không sốt, không đau bụng, không đi 
ngoài phân đen.
Hình 6. Hình chụp CLVT (ngày thứ 2 sau can thiệp nội mạch) có tiêm thuốc cản quang thì tĩnh mạch có các 
ổ dịch- khí tự do vùng rốn- hạ vị (mũi tên đỏ) và nghi ngờ có khí trong lòng đại tràng lên (mũi tên vàng). 
Vật liệu coil can thiệp nằm đúng vị trí trong động mạch lách (đầu mũi tên màu đen).
III. BÀN LUẬN
Giả phình động mạch lách là khá hiếm gặp, báo 
cáo y văn trong các tạp chí dưới 250 ca lâm sàng. Tổn 
thương thường gặp trong các bệnh lý như viêm tụy 
(cấp hoặc mạn), chấn thương, hiếm hơn là loét thủng 
hệ tiêu hóa. Triệu chứng lâm sàng rất đa dạng [5], có 
thể bệnh nhân được phát hiện tình cờ hoặc nhập viện 
trong tình trạng mất máu cấp. Về sinh lý bệnh trong vỡ 
ổ giả phình động mạch lách, máu sẽ chảy vào ống tụy 
theo ống tụy chính (ống Wirsung) qua nhú tá lớn vào 
tá tràng, và triệu chứng đau bụng sẽ thường gặp nhất 
[5]. Vỡ ổ giả phình không chỉ chảy máu trong hệ tiêu 
hóa, máu có thể chảy vào phúc mạc, khoang sau phúc 
mạc, khoang giữa các cơ quan hoặc chảy vào nang 
109
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019
giả tụy. Như ca lâm sàng của chúng tôi, bệnh nhân có 
các biểu hiện của xuất huyết tiêu hóa cao (nôn máu, đi 
ngoài phân đen) cùng với thay đổi huyết động (mạch 
nhanh, huyết áp tụt) thể hiện một tình trạng mất máu 
đang tiến triển mức độ nặng, nguy kịch đến tính mạng. 
Ổ giả phình động mạch có nguy cơ vỡ cao hơn ổ phình 
động mạch thật vì chúng bị mất cấu trúc 3 lớp bình 
thường của thành động mạch do tác động của men tụy. 
Việc phát hiện và can thiệp sớm là cần thiết vì tỉ lệ tử 
vong có thể đến 90% khi ổ giả phình vỡ [6].
Sốc đặc trưng bởi sự suy giảm tuần hoàn hệ 
thống dẫn đến giảm tưới máu mô, giảm cung cấp ôxy 
cho tế bào, từ đó dẫn tới suy đa cơ quan. Sốc có thể 
chia làm 3 loại chính: sốc giảm thể tích, sốc tim, sốc rối 
loạn phân bố (nhiễm trùng, quá mẫn, thần kinh). Trong 
khi sốc rối loạn phân bố do giảm sức cản mạch máu hệ 
thống, sốc tim do giảm cung lượng tim vì suy tim hoặc 
giảm thể tích nhát bóp; thì cơ chế sốc giảm thể tích tuần 
hoàn do giảm tổng lượng dịch trong lòng mạch hay còn 
gọi là tiền gánh của tim (mất máu, nôn, tiêu chảy,..). Sốc 
giảm thể tích có thể chia thành 4 độ theo mức độ nặng 
tăng dần, phân chia có mức tương đối nhưng có vai trò 
quan trọng giúp tiên lượng tình trạng bệnh và thái độ xử 
trí. Độ I khi xuất huyết giảm < 15% thể tích máu, cơ thể 
có phản ứng co mạch. Độ II, giảm 15-30% tổng lượng 
máu tuần hoàn, cơ chế bù trừ của cơ thể dần bị quá tải. 
Độ III, mất 30-45% thể tích máu hệ thống, bệnh nhân sẽ 
có biểu hiện giảm huyết áp tâm thu (<100mmHg), mạch 
nhanh, thở nhanh, rối loạn ý thức, chi lạnh. Phát hiện và 
xử trí kíp thởi có thể ngăn chặn tình trạng sốc diễn biến 
xấu hơn đó là huyết áp tụt kẹt và suy cơ quan (độ IV) 
[7]. Sốc giảm thể tích còn là nguyên nhân dẫn đến tình 
trạng giảm cấp máu cấp hệ mạc treo ruột và gây nhồi 
máu cấp hệ thống mạc treo, dẫn đến hoại tử ruột. Đây 
là nguyên nhân chiếm 20-30% tổng số các trường hợp 
nhồi máu mạc treo cấp [8], [9].
Trường hợp bệnh nhân của chúng tôi, tiếp cận 
chẩn đoán ban đầu không gặp khó khan vì tiển sử viêm 
tụy cấp nhiều lần, đợt này nhập viện với các triệu chứng 
điển hình của viêm tụy cấp (đau bụng dữ dội thượng vị, 
nôn) cùng với tình trạng sốc mất máu cấp độ III do xuất 
huyết tiêu hóa trên. Bệnh nhân điều trị trong đơn vị hồi 
sức cấp cứu từ tuyến dưới, xử trí theo phác đồ nhằm 
ngăn cản tình trạng mất dịch tăng lên. Bệnh nhân nhanh 
chóng chuyển lên Bệnh viện Bạch Mai, được chỉ định 
chụp MSCT động mạch tạng để tìm nguyên nhân chảy 
máu khi vẫn trong tình trạng hồi sức. Phim chụp phát 
hiện ổ giả phình động mạch lách kích thước 25x10mm 
xuất phát đoạn gần động mạch lách, ổ giả phình đã 
vỡ chảy máu vào ống tụy qua tá tràng xuống hệ thống 
ruột non. Bệnh nhân nhanh chóng được hội chẩn toàn 
viện để đưa ra phương án điều trị tối ưu, phẫu thuật 
và can thiệp nội mạch được cân nhắc. Trước đây, thắt 
động mạch lách và cắt lách có/không cắt một phần tụy 
là điều trị chủ yếu. Ngày này, phương pháp xâm lấn 
tối thiểu qua đường nội mạch được ứng dụng rộng rãi 
do kết quả tốt hơn và tỉ lệ tử vong thấp hơn [10]. Với 
bệnh nhân của chúng tôi, xét nghiệm đông máu cơ bản 
có rồi loạn đông máu, can thiệp ngoại khoa có nhiều 
nguy cơ, nên được quyết địnhcan thiệp nội mạch cấp 
cứu nút tắc ổ giả phình dưới DSA- là can thiệp xâm 
lấn tối thiểu. Sau can thiệp mặc dù có thành công về 
mặt kĩ thuật, huyết động bệnh nhân cải thiện, không 
còn tình trạng mất máu. Nhưng biến chứng khác của 
tình trạng sốc mất máu lại tiếp diễn. Nhồi máu mạc treo 
cấp do giảm thể tích tuần hoàn dẫn đến thủng loét tụ 
khí trong thành trên nhiều đoạn hệ đại tràng, tạo các ổ 
tụ dịch- khí nằm sát cột sống vị trí rốn- tiểu khung. Ban 
đầu, chúng tôi lo ngại đến vật liệu can thiệp di trú động 
mạch mạc treo tràng trên gây nhồi máu hệ thống ruột. 
Tuy nhiên, quá trình thả coil được kiểm soát dưới DSA 
trong suốt quá trình làm can thiệp, phim chụp MSCT 
sau can thiệp 2 ngày ghi nhận vị trí coil vẫn nằm trong 
động mạch lách và không ghi nhận sự di trú sang động 
mạch nào khác (Hình 6). Thêm vào đó, bằng chứng rõ 
hơn cho phản ứng co mạch của bệnh nhân, hình ảnh 
MSCT cho thấy tình trạng co nhỏ mạch máu ngoại vi 
và mạch tạng rất nhiều (cơ chế bù trừ trong sốc mất 
máu cấp), vì vậy chúng tôi đã sử dụng máy siêu âm 
để đặt đường vào động mạch đùi phải trong quá trình 
can thiệp nội mạch. Dưới siêu âm, chúng tôi nhận thấy 
động mạch đùi chung bệnh nhân bên cạnh co nhỏ, còn 
có dày thành, điều này càng làm giảm khẩu kính lòng 
mạch. Bệnh nhân đã ổn định phần nào tình trạng huyết 
động đủ điều kiện can thiệp ngoại khoa nên tiếp tục 
được mổ cấp cứu cắt bỏ các đoạn ruột hoại tử, lau rửa 
ổ bụng và hồi sức tích cực sau mổ. Tổng thời gian nằm 
110
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019
viện tại Bệnh viện Bạch Mai là 1 tháng, bệnh nhân rút 
ống nội khí quản, tự thở trở lại và không còn các triệu 
chứng như lúc nhập viện.
IV. KẾT LUẬN
Vỡ giả phình động mạch lách đặc biệt trong tình 
trạng xuất huyết tiêu hóa cấp (vỡ gây chảy máu vào 
ống tụy chính xuống tá tràng) có sốc giảm thể tích tuần 
hoàn cần có thái độ tiếp cận, xử trí nhanh chóng và hợp 
lý. Can thiệp nội mạch cấp cứu là phương pháp điều trị 
nên được lựa chọn hàng đầu nhằm ngăn quá trình chảy 
máu tiếp diễn.Biến chứng nhồi máu mạc treo cấp có thể 
xảy ra ở bệnh nhân có sốc mất máu cấp. Can thiệp nội 
mạch cần phổi hợp chặt chẽ cùng các chuyên ngành 
khác (cấp cứu, hồi sức tích cực, ngoại khoa) trong điều 
trị sốc mất máu để đạt hiệu quả toàn diện, đặc biệt trên 
bệnh nền phức tạp như viêm tụy cấp/ mạn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ierardi A M, Petrillo M (2015). Urgent endovascular ligature of a ruptured splenic artery pseudoaneurysm in a patient with 
acute pancreatitis: a case report.Journal of Medical Case Reports, 9(1).
2. Bhasin DK, Rana SS, Sharma V et al (2013). Non-surgical management of pancreatic pseudocysts associated 
with arterial pseudoaneurysm.Pancreatology, 13(3), pp.250-3.
3. Janczak D, Fiktus A, Paw łowski L et al (2012). Ruptured splenic artery aneurysm (Saa) as a complication of 
acute pancreatitis - case report.Pol Przegl Chir, 84(10), pp.551-4.
4. De Rosa A, Gomez D, Pollock JG, Bungay P et al (2012). The radiological management of pseudoaneurysms 
complicating pancreatitis.JOP, 3(6), pp.660–6.
5. Tessier DJ, Stone WM, Fowl RJ, et al (2003). Clinical features and management of splenic artery 
pseudoaneurysm: case series and cumulative review of literature.J Vasc Surg, 38, pp.969-974.
6. Huang IH, Zuckerman DA, Matthews JB (2004). Occlusion of a giant splenic artery pseudoaneurysm with 
percutaneous thrombincollagen injection.J Vasc Surg, 40, pp.574-7.
7. Richard A S, Stephen S, Don C R (2015). Idiopathic Splenic Artery Pseudoaneurysm Rupture as an Uncommon 
Cause of Hemorrhagic Shock. Clinical Review, 3(2), pp.1-5.
8. Bala M, Kashuk J, Moore E E et al (2017). Acute mesenteric ischemia : guidelides of the WorldSociety of 
Emergency Surgery.World Journal of Emergency Surgery, 12.
9. Mastoraki A, Mastoraki S, Tziava E et al (2016). Mesenteric ischemia: Pathogenesis and challengingdiagnostic 
and therapeutic modalities.World J Gastrointest Pathophysiol, 7(1), pp.125-130.
10. Dave SP, Reis ED, Hossain A, Taub PJ et al (2000). Splenic artery aneurysm in the 1990s.Ann Vasc Surg, 14, 
pp.223-9.
TÓM TẮT
Tổng quan:Vỡ giả phình mạch lách (SAPs)là một biến chứng hiếm gặp ở bệnh nhân viêm tụy, nhưng có tỉ lệ tử vong cao. 
Bệnh nhân thường nhập viện với các triệu chứng lâm sàng của xuất huyết tiêu hóa, biểu hiện có thể từ thiếu máu nhẹ đến sốc 
mất máu. Chụp cắt lớp vi tính ổ bụng có tiêm thuốc cản quang (CT) có vai trò quan trọng trong chuẩn đoán, nhưng chụp mạch 
máu kỹ thuật số xóa nền (DSA) vẫn là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định và lập kế hoạch điều trị. Hiện có nhiều phương 
pháp điều trị vỡ giả phình động mạch lách, trong đó can thiệp nội mạch là phương pháp được lựa chọn hàng đầu do sự xâm lấn 
111
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019
tối thiểu và thời gian can thiệp ngắn đặc biệt trong tình huống cấp cứu. Trong bài báo này, chúng tôi xin trình bày một ca lâm 
sàng vỡ ổ giả phình động mạch lách do viêm tụy mạn. Bệnh nhân nhập viện với biểu hiện của sốc mất máu và được can thiệp 
nút mạch cấp cứu bằng coil thành công.
Ca lâm sàng: Bệnh nhân nam 46 tuổi có tiền sử viêm tụy cấp, nhập bệnhviện Bạch Mai trong tình trạng sốc mất máu do 
xuất huyết tiêu hóa cao cấp tính đã được đặt nội khí quản, truyền tiểu cầu ở tuyến dưới.Nội soi dạ dày cấp cứu ghi nhậnmáu 
chảy thành dòng từ nhú tá lớn vào tá tràng. Chụp CTphát hiện ổ giả phình động mạch lách đã vỡ, gây chảy máu vào ống tụy 
chính, sau đó chảy xuống tá tràng. Bệnh nhân được can thiệp nút tắc ổ giả phình bằngcoil cấp cứu với phương pháp Sandwich. 
Sau can thiệp 2 ngày, tình trạng mất máu được cải thiện, tuy nhiên bệnh nhân bắt đầu có biểu hiện triệu chứng của viêm phúc 
mạc. Chụp CT phát hiện nhiều ổ áp xe vùng tiểu khung, nghi ngờ có hoại tử thành đại tràng. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt đại 
tràng, làm hậu môn nhân tạo mạn sườn trái. Bệnh nhân xuất viện ngày thứ 20 sau mổ, không còn các triệu chứng lâm sàng, xét 
nghiệm trong giới hạn bình thường.
Kêt luận: Điều trị vỡ giả phình động mạch lách đặc biệt trong tình trạngxuất huyết tiêu hóa cấp cần có thái độ tiếp cận, 
xử trí nhanh chóng và hợp lý. Can thiệp nội mạch cấp cứu là phương pháp điều trị nên được lựa chọn hàng đầu nhằm ngăn quá 
trình chảy máu tiếp diễn.
Từ khóa: vỡ giả phình động mạch lách, sốc mất máu, viêm tụy mạn, can thiệp nội mạch cấp cứu 
Ngày nhận bài: 20.5.2019. Ngày chấp nhận đăng 30.6.3029
Người liên hệ: Mai Văn Hải, khoa CĐHA bệnh viện Đại học Y hà nội. Email: [email protected]. 

File đính kèm:

  • pdfdien_dan_bao_cao_ca_lam_sang_can_thiep_noi_mach_cap_cuu_dieu.pdf