Dịch tễ học và phòng bệnh sán dây, ấu trùng sán dây lợn trưởng thành ở Việt Nam: tổng quan hệ thống và phân tích gộp

Bài báo tổng quan này trình bày một số đặc điểm dịch tễ học và biện pháp phòng bệnh sán lợn trưởng thành/

ấu trùng sán lợn ở Việt Nam. Các tài liệu nghiên cứu về bệnh sán dây lợn trưởng thành /ấu trùng sán lợn ở Việt

Nam được thu thập, tổng hợp, phân tích và đánh giá. Tỷ lệ mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành/ấu trùng sán lợn

được ước tính bằng phương pháp phân tích gộp sử dụng mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên. Kết quả cho thấy các

nghiên cứu chủ yếu thực hiện ở phía Bắc với tỷ lệ mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành và ấu trùng lần lượt là

0,83% và 3,04%, phân tích từ 9 nghiên cứu trong nước. Bệnh liên quan chủ yếu đến tập quán ăn uống thiếu an

toàn như ăn thịt lợn chưa nấu chín, thói quen ăn rau củ quả sống, sử dụng công trình vệ sinh không đảm bảo vệ

sinh, tập quán chăn nuôi lợn phổ biến và thường xuyên sử dụng chất thải của con người để bón phân và tưới cho

cây trồng. Để dự phòng và kiểm soát bệnh cần phối hợp các biện pháp trong lĩnh vực thú y, y tế và môi trường.

pdf 9 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Dịch tễ học và phòng bệnh sán dây, ấu trùng sán dây lợn trưởng thành ở Việt Nam: tổng quan hệ thống và phân tích gộp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dịch tễ học và phòng bệnh sán dây, ấu trùng sán dây lợn trưởng thành ở Việt Nam: tổng quan hệ thống và phân tích gộp

Dịch tễ học và phòng bệnh sán dây, ấu trùng sán dây lợn trưởng thành ở Việt Nam: tổng quan hệ thống và phân tích gộp
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 175
DỊCH TỄ HỌC VÀ PHÒNG BỆNH SÁN DÂY, ẤU TRÙNG SÁN 
DÂY LỢN TRƯỞNG THÀNH Ở VIỆT NAM: 
TỔNG QUAN HỆ THỐNG VÀ PHÂN TÍCH GỘP 
Nguyễn Thị Quyên, Nguyễn Mạnh Tuấn và Phạm Ngọc Minh 
Bộ môn Dịch tễ học, Khoa Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
Bài báo tổng quan này trình bày một số đặc điểm dịch tễ học và biện pháp phòng bệnh sán lợn trưởng thành/
ấu trùng sán lợn ở Việt Nam. Các tài liệu nghiên cứu về bệnh sán dây lợn trưởng thành /ấu trùng sán lợn ở Việt 
Nam được thu thập, tổng hợp, phân tích và đánh giá. Tỷ lệ mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành/ấu trùng sán lợn 
được ước tính bằng phương pháp phân tích gộp sử dụng mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên. Kết quả cho thấy các 
nghiên cứu chủ yếu thực hiện ở phía Bắc với tỷ lệ mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành và ấu trùng lần lượt là 
0,83% và 3,04%, phân tích từ 9 nghiên cứu trong nước. Bệnh liên quan chủ yếu đến tập quán ăn uống thiếu an 
toàn như ăn thịt lợn chưa nấu chín, thói quen ăn rau củ quả sống, sử dụng công trình vệ sinh không đảm bảo vệ 
sinh, tập quán chăn nuôi lợn phổ biến và thường xuyên sử dụng chất thải của con người để bón phân và tưới cho 
cây trồng. Để dự phòng và kiểm soát bệnh cần phối hợp các biện pháp trong lĩnh vực thú y, y tế và môi trường.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Bệnh sán dây lợn trưởng thành, ấu trùng sán dây lợn, dịch tễ học, tỷ lệ lưu hành, Việt Nam.
Cùng với tốc độ phát triển về kinh tế và 
toàn cầu hóa hiện nay, dịch bệnh truyền nhiễm 
mới nổi và tái nổi đang trở thành mối đe dọa 
đến sức khỏe con người. Bệnh sán dây lợn 
trưởng thành (taeniasis) và ấu trùng sán dây 
lợn (cysticercus) rất phổ biến ở các nước đang 
phát triển, đặc biệt là những nơi chăn nuôi lợn 
làm nguồn thức ăn và tập quán ăn uống không 
hợp vệ sinh. Trên thế giới, từ năm 2010 đến 
năm 2015 ước tính có khoảng 300.000 người 
bị mắc bệnh khiến hơn 28.100 người tử vong 
liên quan đến nhiễm ký sinh trùng này.1 Bệnh 
thường lưu hành ở Nam Phi, Đông Âu, Nam Mỹ 
và Đông Nam Á,2, 3, 4 bao gồm cả các nước phát 
triển do sự di cư của con người từ các khu vực 
bệnh lưu hành.5, 6 Vì vậy, đánh giá dịch tễ học 
bệnh này sẽ góp phần quan trọng trong việc 
phòng dịch và quản lý bệnh được tốt hơn.
Ở Việt Nam, bệnh sán dây lợn/ấu trùng 
sán dây lợn đã xuất hiện hầu hết ở các vùng 
trong cả nước. Đến nay có hơn 50 trong số 63 
tỉnh, thành có các ca bệnh sán dây lợn trưởng 
thành và ấu trùng sán lợn với tỷ lệ mắc bệnh 
tương ứng là 0,2-12,0% và 1,0-7,2%.⁷ Nguy cơ 
mắc bệnh liên quan đến những thói quen sinh 
hoạt không hợp vệ sinh. Nhiễm sán lợn trưởng 
thành do ăn thịt lợn gạo sống hoặc chưa được 
nấu chín và rất nguy hiểm với những trường 
hợp nhiễm ấu trùng sán lợn theo cơ chế tự 
nhiễm. Những trường hợp nhiễm ấu trùng sán 
lợn do ăn hay nuốt phải trứng sán dây lợn có 
trong thực phẩm bẩn như rau sống chưa rửa 
sạch, uống nước chưa đun sôi, ăn tiết canh lợn 
Tác giả liên hệ: Phạm Ngọc Minh, 
Bộ môn Dịch tễ học, Khoa Y tế Công cộng, Trường 
Đại học Y Dược Thái Nguyên
Email: [email protected]
Ngày nhận: 27/08/2019
Ngày được chấp nhận: 24/11/2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020176
nhiễm bệnh thường phổ biến hơn trong cộng 
đồng, nhất là khi việc chăn nuôi, canh tác, thói 
quen sinh hoạt, ăn uống không hợp vệ sinh và 
hiểu biết của người dân về bệnh còn nhiều hạn 
chế. Bệnh thường gặp ở miền núi và tỷ lệ mắc 
ở nam giới (68,2%) nhiều hơn nữ giới (31,8%).7 
Mặc dù không phải là bệnh cấp tính và hoàn 
toàn có thể điều trị khỏi được (trừ một số di 
chứng của bệnh ấu trùng sán lợn để lại), Tổ 
chức Y tế thế giới (TCYTTG) vẫn xếp bệnh sán 
dây lợn trưởng thành/ấu trùng sán lợn là một 
trong 17 bệnh truyền nhiễm bị lãng quên và ảnh 
hưởng đến những người nghèo nhất trên thế 
giới.8 - 10 Mục đích của bài viết này là tổng hợp 
một số đặc điểm dịch tễ học và một số biện 
pháp phòng chống bệnh sán dây lợn trưởng 
thành và ấu trùng sán lợn ở Việt Nam.
II. NỘI DUNG TỔNG QUAN
1. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu được 
thực hiện theo sơ đồ hướng dẫn PRISMA.11 
Phương pháp tổng quan hệ thống được thực 
hiện để tìm kiếm các nghiên cứu báo cáo tỷ 
lệ mắc sán dây và nhiễm ấu trùng sán dây lợn 
trưởng thành ở Việt Nam. 
Nguồn thông tin: Các bài báo khoa học 
tiếng Anh và tiếng Việt công bố từ năm 2002 
đến năm 2019 được lựa chọn. Nguồn tài liệu 
tiếng Anh được tìm kiếm thông qua PubMed, 
Google Scholar bằng cách sử dụng các thuật 
ngữ như Taenia solium OR cysticercosis OR 
neurocysticercosis OR taeniasis OR taeniosis 
AND (epidemiology OR prevalence) AND 
Hình 1. Quá trình tìm kiếm và chọn nghiên cứu
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 177
human AND Vietnam. Các bài báo được xuất 
bản bằng tiếng Việt được tìm kiếm thông qua 
Google.com bằng cách sử dụng các từ khóa 
“Sán dây lợn trưởng thành”, “Ấu trùng sán dây 
lợn”, “Dịch tễ học sán dây lợn trưởng thành”, 
“Tỷ lệ lưu hành”, “Các yếu tố nguy cơ”.
Các bài báo sau khi tìm kiếm được sàng 
lọc thông qua đánh giá tiêu đề, tóm tắt và toàn 
văn để xem tính phù hợp và loại bỏ nghiên 
cứu trùng lặp. Các bài báo đủ điều kiện được 
đưa vào phân tích (Hình 1).
Phân tích thống kê: Các tài liệu liên quan 
đến bệnh sán dây lợn trưởng thành và ấu 
trùng sán lợn ở Việt Nam được tổng hợp, 
phân tích và đánh giá. Tỷ lệ ước tính và tỷ lệ 
thực tế mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành/
ấu trùng sán lợn các vùng được tổng hợp 
bằng phương pháp phân tích gộp, sử dụng 
phần mềm Stata 15.0 (StataCorp, College 
station, Texas, US).
2. Kết quả và bàn luận
Hình 2. Chu kỳ sán dây lợn
Bệnh sán dây lợn trưởng thành: Bệnh lây 
qua đường tiêu hóa, lợn bị nhiễm do ăn phải 
thức ăn nhiễm trứng hoặc các đốt sán có trong 
phân của người nhiễm sán dây lợn trưởng 
thành.12 Trứng vào dạ dày và ruột của lợn rồi nở 
ra thành ấu trùng, ấu trùng chui qua thành ống 
tiêu hóa vào máu và tới các cơ quan (thường là 
cơ vân) tạo thành nang ấu trùng ở đó (Hình 2). 
Người bị nhiễm bệnh do ăn phải thịt lợn chưa 
nấu chín có chứa ấu trùng sán dây.13 Khi vào 
đường tiêu hóa, ấu trùng còn sống sẽ chui ra 
khỏi lớp vỏ bọc, di chuyển xuống ruột non phát 
triển thành sán trưởng thành sau 2 tháng. Sán 
dây trưởng thành bám vào ruột non bằng móc 
của chúng. Sán không đẻ trứng mà trứng phát 
triển trong các đốt già rụng ra ngoài theo phân.
Bệnh ấu trùng sán dây lợn: Người có nang 
ấu trùng sán được gọi là người gạo, còn gọi 
là bệnh ấu trùng sán dây lợn. Sau khi ăn phải 
trứng sán, đốt sán vào dạ dày và ruột trứng 
nở ra ấu trùng, ấu trùng xuyên qua thành ống 
tiêu hóa vào máu và di chuyển đến ký sinh tại 
các cơ quan: cơ vân, não, mắt8 Trường hợp 
bị bệnh do ăn phải trứng sán dây lợn từ môi 
trường bên ngoài thường có ít nang; những 
người mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành, khi 
đốt già rụng mà đốt sán bị trào ngược lên dạ 
dày, lúc này như là ăn phải trứng sán dây lợn 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020178
với số lượng rất lớn nên số nang ở người cũng 
rất nhiều gọi là trường hợp tự nhiễm.14
Đặc điểm dịch tễ học bệnh sán dây lợn 
trưởng thành và ấu trùng sán dây lợn 
 Sự xuất hiện của bệnh sán dây lợn 
trưởng thành và ấu trùng sán dây lợn đã được 
báo cáo ở nhiều nước trên thế giới, bao gồm 
Hình 3: Tỷ lệ (%) lưu hành bệnh sán dây lợn trưởng thành và ấu trùng sán dây lợn 
tại Việt Nam (CI: khoảng tin cậy)
cả các nước phát triển do sự di cư tự do của 
con người mang trong mình sán dây lợn trưởng 
thành từ các khu vực lưu hành.⁵
Tỷ lệ và xu hướng mắc sán dây lợn trưởng 
thành/ấu trùng sán dây lợn ở Việt Nam được 
trình bày ở hình 3.
Chúng tôi thu thập được 9 nghiên cứu về 
dịch tễ học bệnh sán dây lợn trưởng thành/ấu 
trùng sán dây lợn tại Việt Nam công bố trong 
giai đoạn 2002-2018.15 - 23 Có 5 nghiên cứu 
đánh giá tỷ lệ nhiễm sán dây lợn trưởng thành, 
trong đó có 3 điều tra báo cáo cả nhiễm sán 
dây lợn trưởng thành và ấu trùng sán dây lợn.16, 
17, 19 Có 7 nghiên cứu báo cáo tỷ lệ nhiễm ấu 
trùng sán dây lợn.15 - 17, 19, 21 - 23 Các nghiên cứu 
chủ yếu thực hiện ở phía Bắc Việt Nam. Tỷ lệ 
mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành và ấu trùng 
tính chung cho các vùng lần lượt là 0,83% và 
3,04%. Tuy nhiên tỷ lệ mắc bệnh có sự khác 
biệt rõ rệt giữa các vùng khác nhau (p < 0,001). 
Vùng Đông Bắc có tỷ lệ lưu hành bệnh sán dây 
lợn trưởng thành /ấu trùng sán dây lợn cao hơn 
các nơi khác. Chưa có lý do rõ ràng về sự khác 
biệt tỷ lệ nhiễm bệnh ở các vùng, nhưng có thể 
do khác nhau về phương pháp xét nghiệm, thói 
quen ăn uống, thực hành chăn nuôi lợn và tình 
trạng kinh tế xã hội của các đối tượng tham gia 
nghiên cứu.22
Bệnh sán dây lợn được báo cáo ở 50 trong 
số 63 tỉnh thành ở Việt Nam năm 2006.18 Từ 
năm 2003 đến năm 2012 tỷ lệ nhiễm sán dây 
lợn trưởng thành dao động từ 0,11 đến 7,2%. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 179
Nghiên cứu tại tỉnh Hòa Bình phía Tây Bắc bằng 
phương pháp ly tâm có tỷ lệ lưu hành bệnh sán 
dây lợn trưởng thành năm 2003 là 0,11%.16 
Một nghiên cứu tại Thái Bình từ năm 2008 đến 
năm 2010 sử dụng xét nghiệm phân cho kết 
quả tương tự là 0,17% tỷ lệ nhiễm sán dây lợn 
trưởng thành.20 Tỷ lệ này cao hơn ở nghiên cứu 
của Somers và cộng sự ở các tỉnh Bắc Kạn, 
Hải Dương và Hà Tĩnh năm 2006 bằng phương 
pháp copro-antigen phân (0,43%).19 Tuy nhiên, 
một số nghiên cứu khác lại cho kết quả cao 
hơn rõ rệt: tác giả Nguyễn Thu Hương tại Hà 
Giang năm 2006 sử dụng phương pháp chẩn 
đoán Kato cho thấy tỷ lệ lưu hành sán dây lợn 
là 6%,17 nghiên cứu của tác giả Doanh và cộng 
sự năm 2006 tại Bắc Ninh công bố tỷ lệ nhiễm 
sán dây lợn trưởng thành lên tới 7,2 %.18 So 
sánh với một số khu vực trên thế giới, Papua 
New Guinea vẫn được coi là một khu vực lưu 
hành cao với tỷ lệ nhiễm sán dây được báo cáo 
từ 0% đến 13%.8, 24 Một số nghiên cứu ở Lào 
trong 25 năm qua cũng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh 
sán dây lợn dao động từ 0% đến 14%.25 Hạn 
chế chính của các nghiên cứu khi so sánh với 
nhau là thiếu sự đồng nhất về công cụ chẩn 
đoán và phương pháp nghiên cứu.
Tính đến năm 2018 tại Việt Nam đã có 55 
tỉnh, thành báo cáo có ca bệnh mắc ấu trùng 
sán lợn.26 Tỷ lệ nhiễm bệnh rất khác nhau giữa 
các khu vực nghiên cứu (Hình 3). Từ năm 2002 
đến 2018 tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán dây lợn dao 
động từ 0,3% đến 13,4%, cao nhất tại Hà Giang 
năm 2006 (13,4%).17 Tiếp theo là nghiên cứu 
của Đỗ Trung Dũng và cộng sự năm 2013 sử 
dụng phương pháp Antigen-ELISA cho thấy tỷ 
lệ lưu hành là 6%, phần lớn các bệnh nhân đến 
từ Bắc Giang, Bắc Ninh, Điện Biên, Hà Giang, 
Lai Châu, Lạng Sơn, Tuyên Quang.22 Nghiên 
cứu cắt ngang được thực hiện tại một tỉnh Bắc 
Ninh bởi Erhart và cộng sự năm 2002 cũng sử 
dụng phương pháp Antigen-ELISA cho tỷ lệ 
là 5,71%.15 Một nghiên cứu tại Đăk Lăk năm 
2015 bằng xét nghiệm phân cũng cho kết quả 
tương tự với tỷ lệ lưu hành ấu trùng sán dây 
ở người là 5%.23 Một số nghiên cứu có tỷ lệ 
lưu hành thấp hơn đó là nghiên cứu ở 3 tỉnh 
Bắc Kạn, Hải Dương, Hà Tĩnh bằng phương 
pháp ELISA năm 2006 (2,4%),19 nghiên cứu tại 
Hòa Bình bằng kĩ thuật sinh thiết nang sán năm 
2003 (1%),16 nghiên cứu tại Bệnh viện Nhiệt đới 
Trung ương tại Hà Nội sử dụng Xquang sọ não 
năm 2012 (chỉ 0,3%).21
Khi so sánh với các khu vực khác trên thế 
giới cho thấy tỷ lệ lưu hành nhiễm ấu trùng 
sán dây ở một số nghiên cứu tại Việt Nam dao 
động từ 0,13 đến 13,4% nằm trong tỷ lệ lưu 
hành chung của các khu vực này. Cụ thể sự 
lưu hành kháng nguyên trên bệnh nhân mắc ấu 
trùng sán lợn ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh và 
Châu Á lần lượt là 7,30%, 4,08% và 3,98%. Sự 
lưu hành kháng thể trên bệnh ấu trùng sán dây 
lợn ở 3 khu vực này cũng lần lượt là 17,37%, 
13,03% và 15,68%. Tỷ lệ hiện mắc ấu trùng sán 
dây lợn dao động từ 0 đến 17,25%. 27 Các yếu 
tố của con người như tuổi và khả năng miễn 
dịch là những yếu tố chính quyết định sự xuất 
hiện của nhiễm trùng, trong khi phơi nhiễm chủ 
yếu liên quan đến các yếu tố môi trường khác 
nhau giữa các cộng đồng.
Tỷ lệ mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành 
(0,11 - 7,2%) thấp hơn so với tỷ lệ mắc bệnh 
ấu trùng sán dây lợn (0,3 - 13,4%), có thể 
do độ nhạy thấp của các công cụ xét nghiệm 
phân (Kato-katz và Copro-Antigen phân) trong 
việc phát hiện nhiễm trùng sán dây lợn trưởng 
thành.26 Mặt khác, việc sử dụng các kĩ thuật 
ELISA để chẩn đoán bệnh ấu trùng sán dây 
dựa trên sự hiện diện của kháng thể cho thấy 
nhiễm trùng trong quá khứ hoặc hiện tại có thể 
ước lượng quá tỷ lệ lưu hành thực sự. Sự hiện 
diện của các kháng nguyên lưu hành cho thấy 
tỷ lệ nhiễm ấu trùng trong cơ thể người cao hơn 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020180
thực tế và thường phản ánh gánh nặng bệnh 
tật hiện tại.8
Nhìn chung các nghiên cứu ở hình 3 cho 
thấy các dữ liệu về tỷ lệ bệnh sán dây lợn 
trưởng thành/ấu trùng sán dây lợn được nghiên 
cứu nhiều ở khu vực miền Bắc và rất hạn chế 
ở khu vực miền Trung và miền Nam Việt Nam. 
Do đó, việc thực hiện các nghiên cứu dịch tễ 
học sâu hơn về các bệnh này tại các khu vực 
miền Trung và miền Nam là cần thiết để công 
bố đầy đủ bức tranh dịch tễ học về bệnh sán 
dây lợn trưởng thành /ấu trùng sán dây lợn tại 
Việt Nam.
Các yếu tố nguy cơ lây truyền
Việt Nam là đất nước có tỷ lệ lưu hành cao 
bệnh sán dây lợn trưởng thành và ấu trùng 
sán dây lợn.8 Tuy nhiên, thông tin về tỷ lệ lưu 
hành và các yếu tố nguy cơ của bệnh sán dây 
lợn trưởng thành /ấu trùng sán dây lợn ở miền 
Trung và miền Nam Việt Nam còn rất ít. 26 Theo 
các nghiên cứu trong nước, các yếu tố nguy 
cơ thường gặp của bệnh sán dây lợn trưởng 
thành/ấu trùng sán dây lợn là do ăn thịt lợn 
sống hoặc chưa nấu chín cũng như nội tạng có 
chứa nang sán, thói quen ăn rau củ quả sống, 
thiếu nhà vệ sinh hoặc sử dụng công trình vệ 
sinh không đảm bảo vệ sinh, tập quán chăn 
nuôi lợn phổ biến và sử dụng thường xuyên 
các chất thải của con người để bón phân và 
tưới cho cây trồng.26 Một nghiên cứu gần đây 
nhất tại Đăk Lăk năm 2018 cho thấy những 
người thường xuyên ăn rau sống có nguy cơ 
mắc bệnh ấu trùng sán dây cao gần gấp 10 lần 
(95% CI 2,89 - 34,4) so với những người ít ăn 
rau sống, những người thường xuyên đi vệ sinh 
ngoài trời có nguy cơ mắc bệnh ấu trùng sán 
dây cao gấp 11 lần (95% CI 2,97 - 42,0) so với 
những người sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh. Tỷ 
lệ mắc bệnh ấu trùng sán dây ở những người 
thường xuyên lấy nước uống từ suối, ao hoặc 
hồ là cao gần gấp 4 lần (95% CI 1,29 - 11,9) so 
với những người sử dụng nước giếng. Nguy 
cơ mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành đối với 
một người thường xuyên ăn lưỡi lợn là 4,6 lần 
(95% CI 1,49 - 14,3).23 Có thể thấy rằng các yếu 
tố nguy cơ lây truyền và lưu hành của bệnh sán 
dây lợn trưởng thành/ấu trùng sán dây lợn là 
rất nhiều và có thể khác nhau ở các môi trường 
khác nhau. Các yếu tố nguy cơ được xác định 
ở Đăk Lăk phù hợp với nghiên cứu được thực 
hiện ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam.23 Nhìn 
chung các yếu tố nguy cơ ở trên là các yếu tố 
có thể thay đổi được. Tuy nhiên có những yếu 
tố liên quan đến tập quán truyền thống/hành vi 
đặc biệt là các khu vực nông thôn miền núi Việt 
Nam, nên khả năng thay đổi hành vi nguy cơ là 
khó khăn. Các chương trình giáo dục sức khỏe 
liên quan đến cả lĩnh vực y tế và thú y của con 
người là một lựa chọn can thiệp khả thi. 
Một số biện pháp phòng bệnh 
Để dự phòng và kiểm soát bệnh cần phối 
hợp các biện pháp trong lĩnh vực thú y, y tế và 
môi trường.8, 13
Các biện pháp y tế là tẩy sán có kế hoạch 
cho cộng đồng. Trước hết phải khám và tẩy sán 
cho nhân viên các cơ sở chăn nuôi. Chú trọng 
truyền thông giáo dục sức khỏe nhằm thay 
đổi kiến thức, thái độ, hành vi cho người dân 
về bệnh. Cụ thể để phòng bệnh sán dây tuyệt 
đối không ăn thịt lợn chưa nấu chín như nem, 
thính, nem chua, tré, thịt lợn tái, gan tái.14 Để 
dự phòng bệnh ấu trùng sán lợn: không ăn rau 
sống, không uống nước lã; phát hiện và điều 
trị sớm những người mắc bệnh sán dây lợn 
trưởng thành và xử lý những con sán được tẩy 
ra để ngăn ngừa mắc bệnh ấu trùng sán lợn 
theo cơ chế tự nhiễm. Đối với các biện pháp vệ 
sinh thú y: giám sát vệ sinh thú y chặt chẽ đối 
với gia súc giết thịt để ăn thịt. Kiểm tra chặt chẽ 
các lò mổ lợn và loại bỏ các con vật mang ấu 
trùng sán. Đối với các biện pháp về môi trường: 
thực hiện quản lý phân tốt, luôn sử dụng hố xí 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 181
hợp vệ sinh, không phóng uế bừa bãi, không 
dùng phân tươi để bón rau quả, không để lợn 
thả rông ăn phân người; tốt nhất không nuôi lợn 
thả rông.8
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở Việt 
Nam cứ khoảng 120 người trưởng thành thì có 
một người nhiễm sán dây lợn trưởng thành và 
tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán dây xấp xỉ 1/33. Số liệu 
báo cáo chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc và tỷ lệ 
nhiễm ký sinh trùng này khác nhau ở các tỉnh 
thành. Bài viết cũng tóm tắt một số yếu tố nguy 
cơ, chu kì phát triển bệnh cũng như sơ lược về 
một số đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán và dự 
phòng. Cần có thêm các nghiên cứu ở các tỉnh 
phía Nam và miền Trung để có bức tranh dịch 
tễ học về bệnh sán dây lợn trưởng thành và ấu 
trùng sán dây lợn ở Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Torgerson P. R, Devleesschauwer B, Praet 
N et al. World Health Organization Estimates of 
the Global and Regional Disease Burden of 11 
Foodborne Parasitic Diseases, 2010: A Data 
Synthesis. PLOS Medicine, 2015, 12(12),1-22. 
2. Chopra J.S, Kaur U and Mahajan R.C. 
Cysticercosis and epilepsy: a clinical and 
serological study. Transactions of the Royal 
Society of Tropical Medicine and Hygiene, 
1981,75(4), 518-520.
3. Garcia-Noval J, Allan J.C and Fletes C 
et al. Epidemiology of Taenia solium taeniasis 
and cysticercosis in two rural Guatemalan 
communities. The American Journal of Tropical 
Medicine and Hygiene, 1996, 55(3), 282-289.
4. Sarti E, Schantz, P.M el al. Epidemiological 
inves-tigation of Taenia solium taeniasis and 
cysticercosis in a rural village of Michoacan 
state, Mexico. Transactions of the Royal Society 
of Tropical Medicine and Hygiene, 1994, 88(1), 
49-52.
5. White Jr A.C. Neurocysticercosis: updates 
on epidemiology, pathogenesis, diagnosis, and 
management. Annual Review of Medicine, 
2000, 51, 187-206.
6. Garcia H.H and Del Brutto O.H. Taenia 
solium cysticercosis. Infectious Disease Clinics 
of North America, 2000, 14(1), 97-119.
7. Van De N, Le TH, Lien PTH el al. Current 
status of taeniasis and cysticercosis in Vietnam. 
The Korean Journal of Parasitology, 2014, 
52(2), 125–129.
8. Ar Kar Aung and Denis W. Spelman. 
Taenia solium Taeniasis and Cysticercosis 
in Southeast Asia. The American Journal of 
Tropical Medicine and Hygiene, 2016, 94(95), 
947-954.
9. FAO/WHO. Multicriterial-based Ranking 
for Risk Management of Food-borne Parasites. 
Microbiological risk assessment series no 23. 
Rome: WHO press. 2014.
10. Hotez P. J, Molyneux D. H, Fenwick A 
et al. Incorporating a rapid-impact package for 
neglected tropical diseases with programs for 
HIV/AIDS, tuberculosis, and malaria. PLOS 
Medicine, 2006, 3(5), 576-584.
11. Moher D, Liberati A, Tetzlaff J et al. 
Preferred Reporting Items for Systematic 
Reviews and Meta-Analyses: The PRISMA 
Statement. PLOS Medicine, 2009, 6(7).
12. World Health Organization. Meeting 
of the International Task Force for Disease 
Eradication—July 2013. Wkly Epidemiol Rec, 
2013, 88, 429–436.
13. Dixon M. A, Braae U. C, Winskill P et al. 
Strategies for tackling Taenia solium taeniosis/
cysticercosis: A systematic review and 
comparison of transmission models, including 
an assessment of the wider Taeniidae family 
transmission models. PLOS Neglected Tropical 
Diseases, 2019, 13(4), 1-24.
14. Bộ Y tế. Quyết định số 1450/2004/QĐ-
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020182
BYT ngày 25 tháng 4 năm 2004 của Bộ trưởng 
Bộ Y tế về Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị 
bệnh sán lá gan nhỏ, bệnh sán lá phổi, bệnh 
sán dây và bệnh ấu trùng sán lợn. 2004
15. Erhart A, Dorny P, Van De N et al. Taenia 
solium cysticercosis in a village in northern Viet 
Nam: seroprevalence study using an ELISA 
for detecting circulating antigen. Transactions 
of the Royal Society of Tropical Medicine and 
Hygiene, 2002, 96(3), 270-272.
16. Verle P, Kongs A, De N. V et al. 
Prevalence of intestinal parasitic infections 
in northern Vietnam. Tropical Medicine & 
International Health, 2003, 8(10), 961-964.
17. Huong NT. Taeniasis and cysticercosis 
in a selected group of inhabitants from a 
mountainous province in North Vietnam, 
Belgium: Prince Leopold Institute of Tropical 
Medicine, Antwerpen (Antwerp). 2006
18. Doanh NQ, Holland W, Tam PT et al. The 
results of the studies on situation of humans and 
pigs contracting disease that cestode worm and 
its larvae cause for. Science and Technology 
Journal of Agriculture & Rural Development, 
4/2006, 56–68.
19. Somers R, Dorny P, Nguyen V et al. 
Taenia solium taeniasis and cysticercosis in 
three communities in North Vietnam. Tropical 
Medicine & International Health, 2006, 11(1), 
65–72.
20. Vũ Thị Bình Phương, Hoàng Thị Út Trà, 
Nguyễn Thị Duyên. Thực trạng nhiễm kí sinh 
trùng đường ruột trên bệnh nhân xét nghiệm tại 
khoa Vi-Ký sinh trùng bệnh viện Đại học Y Thái 
Bình từ 2008–2010. Tạp chí Y Học Thành Phố 
Hồ Chí Minh, 2012, 16(1),17–10.
21. Taylor W. R, Nguyen K, Nguyen D et 
al. The spectrum of central nervous system 
infections in an adult referral hospital in Hanoi, 
Vietnam. PLoS One, 2012, 7(8), 1-8.
22. Trung DD, Praet N, Cam TDT et al. 
Assessing the burden of human cysticercosis in 
Vietnamese. Tropical Medicine & International 
Health, 2013, 18(3), 352–356.
23. Ng-Nguyen Dinh, Mark Anthony 
Stevenson, Kathleen Breen et al. The 
epidemiology of Taenia spp. infection and 
Taenia solium cysticerci exposure in humans 
in the Central Highlands of Vietnam. BMC 
Infectious Diseases, 2018, 18:527.
24. Wandra T, Ito A, Swastika K et al. 
Taeniases and cysticercosis in Indonesia: past 
and present situations. Parasitology, 2013, 140 
(13), 1608-1616.
25. Jeon H. K, Yong T. S, Sohn W. M et 
al. Current status of human taeniasis in Lao 
People's Democratic Republic. The Korean 
Journal of Parasitology, 2013, 51 (2), 259-263.
26. Ng-Nguyen Dinh, Mark A. Stevenson 
và Rebecca J. Traub. A systematic review of 
taeniasis, cysticercosis and trichinellosis in 
Vietnam. Parasit Vectors, 2017, 10(11):150.
27. Coral-Almeida M, Gabriël S, Abatih EN 
et al. Taenia solium Human Cysticercosis: A 
Systematic Review of Sero-epidemiological 
Data from Endemic Zones around the World. 
PLOS Neglected Tropical Diseases, 2015, 
9(7),1-20.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 183
Summary
EPIDEMIOLOGY AND PREVENTION OF HUMAN TAENIASIS/
TAENIA SOLIUM CYSTICERCOSIS IN VIETNAM: A 
SYSTEMATIC REVIEW AND META-ANALYSIS
The aim of this report was to present a systematic review of several epidemiological 
characteristics of human taeniasis/taenia solium cysticercosis and preventive meassures in 
Vietnam. Studies of human taeniasis/cysticercosis in Vietnam were collected, synthesized 
and analysed. The prevalences of taeniasis/cysticercosis were pooled using a random-effects 
meta-analysis model. Results, drawn from an analysis of 9 included studies, showed that most 
studies were mainly conducted in northern Vietnam, with the overall prevalence of taeniasis 
and cysticercosis being 0.83% and 3.04%, respectively. Several factors associated with the 
disease included consuming undercooked pork meat and raw vegetables, lack of sanitary toilets, 
widespread practice of raising pigs without good control and regular use of human wastes to 
fertilize and irrigate crops. To effectively prevent and control human taeniasis/cysticercosis, it is 
important to integrate multiple sectors such as veterinary, health and environmental sciences.
Key words: Human taeniasis, cysticercosis, epidemiology, prevalence, Vietnam.

File đính kèm:

  • pdfdich_te_hoc_va_phong_benh_san_day_au_trung_san_day_lon_truon.pdf