Di dời cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh: Tình huống nghiên cứu về sự phân mảng thể chế
Giới thiệu
Phát triển kinh tế bao gồm việc chuyển dịch đất đai, lao động và vốn từ những hoạt động năng
suất thấp sang những hoạt động có năng suất cao. Ở mức thu nhập rất thấp, tăng trưởng có thể
đạt được thông qua huy động những nguồn lực chưa được sử dụng hay chưa khai thác đầy đủ, ví
dụ như đưa những vùng đất trống và lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào sản xuất cây trồng
mới cho xuất khẩu. Khi thu nhập tăng lên, việc gia tăng năng suất đòi hỏi phải ứng dụng nhiều
công nghệ phức tạp hơn, thường trong những doanh nghiệp có qui mô lớn hơn và sản xuất nhiều
hàng hóa, dịch vụ tinh tế hơn.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Di dời cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh: Tình huống nghiên cứu về sự phân mảng thể chế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Di dời cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh: Tình huống nghiên cứu về sự phân mảng thể chế

1 Di dời cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh: Tình huống nghiên cứu về sự phân mảng thể chế Nguyễn Xuân Thành và Jonathan Pincus Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, TP.HCM và Chương trình Việt Nam tại Harvard Giới thiệu Phát triển kinh tế bao gồm việc chuyển dịch đất đai, lao động và vốn từ những hoạt động năng suất thấp sang những hoạt động có năng suất cao. Ở mức thu nhập rất thấp, tăng trưởng có thể đạt được thông qua huy động những nguồn lực chưa được sử dụng hay chưa khai thác đầy đủ, ví dụ như đưa những vùng đất trống và lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào sản xuất cây trồng mới cho xuất khẩu. Khi thu nhập tăng lên, việc gia tăng năng suất đòi hỏi phải ứng dụng nhiều công nghệ phức tạp hơn, thường trong những doanh nghiệp có qui mô lớn hơn và sản xuất nhiều hàng hóa, dịch vụ tinh tế hơn. Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh trong hơn hai thập niên, chủ yếu trên cơ sở tăng trưởng theo chiều rộng, tức là đưa nguồn lực chưa được sử dụng vào sản xuất. Hai phần ba kim ngạch xuất khẩu là hàng nông sản, thủy sản và sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà phần lớn là những hàng hóa thâm dụng lao động như quần áo và giày dép. Thách thức đối với nền kinh tế quốc gia là đa dạng hóa sản xuất và hàng xuất khẩu để có được những hàng hóa và dịch vụ với giá trị gia tăng cao hơn. Một trong những trở ngại để nâng cao năng suất ở Việt Nam chính là chất lượng của các thể chế kinh tế. Các thể chế là những “luật chơi” của nền kinh tế, hay là hệ thống luật, qui định, chuẩn mực và thông lệ để hỗ trợ cho các giao dịch kinh tế. Các thể chế của mỗi nước là sản phẩm của bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa đặc thù của nước đó, cũng như năng lực của các nhóm và cá nhân có quyền lực để định hình ra các qui định và chuẩn mực vì lợi thế của chính họ (North 1994, 360). Các thể chế tạo ra những cấu trúc khuyến khích có tác động trực tiếp lên tăng trưởng năng suất. Các thể chế kinh tế thực hiện tốt chức năng của mình sẽ làm giảm chi phí kinh doanh, và giúp các nhà đầu tư dễ dàng thu được những tài sản vốn có vòng đời lâu dài bằng cách giảm những bất trắc đi kèm với đầu tư dài hạn. Các thể chế không làm tốt chức năng sẽ làm giảm đầu tư để tích tụ vốn, công nghệ và đẩy các nhà đầu tư sang những giao dịch một lần, đầu cơ và chiếm hữu những tài sản có tính thanh khoản cao. Các thể chế kinh tế khu vực tư nhân và khu vực công của Việt Nam có mức độ phân mảng cao. Đây là tình trạng nhiều đơn vị có liên quan trong cùng một lĩnh vực những lại không phối hợp với nhau. Điều này thể hiện rõ nhất khi quan sát các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Đất nước với 90 triệu dân được chia thành 63 tỉnh thành, điều đó có nghĩa là đơn vị chính quyền vùng ở Việt Nam là nhỏ hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Các tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam có thể được mô tả một cách chính xác hơn là tập hợp những doanh nghiệp nhỏ thay vì những công ty có qui mô lớn. Ví dụ, trước khi tái cơ cấu năm 2010, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam quản lý 445 công ty con cùng với hai mươi công ty liên doanh. Phân mảng thế chế là một vấn nạn vì nó làm tăng chi phí phối hợp, dẫn đến tổn thất hiệu quả. Các đơn vị nhỏ thì không thể đạt được lợi thế theo qui mô và lợi thế đa dụng (economies of scale and scope), và sẽ gặp khó khăn khi muốn tiếp nhận công nghệ và năng lực sản xuất phức tạp. 2 Một hệ thống pháp lý phức tạp sẽ tạo ra những luật định chồng chéo. Sự phân mảng trong các thể chế hoạch định đầu tư công sẽ dẫn đến dàn trải và lãng phí. Nghiên cứu này xem xét tình huống phát triển cảng ở Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) và các tỉnh lân cận, và xem đây như một ví dụ điển hình của tình trạng phân mảng thể chế ở Việt Nam. Hệ thống cảng TP.HCM bao gồm nhiều cảng nhỏ, đa số do các doanh nghiệp nhà nước trung ương và địa phương vận hành hoặc thông qua liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài. Sự phân tán trong việc sở hữu và quản lý cảng không nhất thiết là phi hiệu quả. Với một cơ chế khuyến khích rành mạch và nhất quán nhằm thúc đẩy cạnh tranh thị trường, thì số lượng lớn các cảng nhỏ lại cung cấp được dịch vụ tốt, chi phí thấp cho các nhà xuất nhập khẩu. Tiếc thay, một hệ thống khuyến khích như vậy không tồn tại. Sự phân mảng đã tạo ra tình trạng các cảng mới phát triển bị dư thừa công suất, co sở hạ tầng hỗ trợ được hoạch định và triển khai kém, trong khi hoạt động ở trung tâm thành phố tiếp tục bị tắc nghẽn và gây ô nhiễm. Nghiên cứu nhận thấy rằng sự phân mảng thể chế trong hệ thống cảng TP.HCM có thể truy về ba nguyên nhân chính: i) quyền sở hữu không được xác lập rõ và không được thực thi tốt; ii) thất bại trong việc tách bạch trách nhiệm điều tiết khỏi sự tham gia vào thị trường; và iii) thiếu các cơ chế phối hợp vùng để đạt được hiệu quả lớn hơn trong đầu tư công. Phần còn lại của bài viết nghiên cứu tình huống được tiến hành như sau: phần tiếp theo tiếp cận vấn đề phân mảng thể chế từ quan điểm lý thuyết. Phần thứ ba mô tả sự phát triển hệ thống cảng TP.HCM và những trục trặc chính do thể chế phân mảng gây ra, bao gồm phát triển dàn trải các cảng mới trong khi không thể di dời cảng hiện hữu ra khỏi trung tâm thành phố, triển khai chậm trễ các cơ sở hạ tầng hỗ trợ và những khiếm khuyết khác trong quy hoạch. Phần thứ tư đề xuất các giải pháp cho vấn đề phân mảng thể chế, và phần cuối cùng là kết luận. Sự phân mảng thể chế Những đặc điểm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung vẫn đè nặng lên các thể chế kinh tế của Việt Nam. Mặc dù cơ chế phân bổ nguồn lực chính hiện nay đã là thị trường, nhưng thị trường thường không hoạt động tốt vì không có những thể chế nền tảng hỗ trợ, hoặc có thì cũng không được hình thành tốt và đầy đủ. Các thể chế thiếu vắng hay không hoạt động đúng chức năng không nhất thiết gây khó khăn cho những hoạt động kinh tế qui mô nhỏ, chỉ xảy ra một lần. Nhưng đó sẽ là lực cản đối với hoạt động đầu tư qui mô lớn với thời gian thu hồi vốn lâu, đòi hỏi nhiều tiền của mới có được tài sản, công nghệ và kỹ năng. Đứng đầu những trục trặc về thể chế mà Việt Nam đang gặp phải là quyền sở hữu được xác lập và thực thi kém. Quyền sở hữu không được đảm bảo làm tăng tính bất trắc đi kèm với việc đầu tư vào những tài sản qui mô lớn và có vòng đời kéo dài. Quyền sở hữu ở Việt Nam thường có được dựa vào quan hệ và ảnh hưởng chính trị, và hệ thống pháp lý thiếu tính công minh trong phân xử các trường hợp tranh chấp sở hữu. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng “thiếu qui mô tầm trung” trong cơ cấu công nghiệp của Việt Nam, trong đó chỉ thấy các doanh nghiệp tư nhân ở qui mô nhỏ, trong khi chỉ có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có quan hệ với nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài là đạt được qui mô sản xuất đáng kể. Có rất ít doanh nghiệp qui mô trung bình, vì doanh nghiệp nhỏ vẫn e ngại đầu tư vào những tài sản không thanh khoản mà họ không có khả năng bảo vệ khỏi sự tước đoạt hoặc bị mất thị phần về tay những doanh nghiệp có quan hệ mạnh hơn với nhà nước. Một dư âm khác của kế hoạch hóa tập trung là không thể tạo ra các cơ quan quan lý, điều tiết độc lập mà không đồng thời tham gia vào thị trường. Các cơ quan nhà nước ở mọi cấp chịu trách nhiệm đề ra và thực thi các qui định điều tiết thị trường, nhưng cũng là đối tượng trực tiếp tham gia hay là đơn vị chủ quản của doanh nghiệp tham gia thị trường. Bộ Y tế quản lý hoạt động sản 3 xuất dược phẩm và cũng tham gia sản xuất thuốc. Bộ Giao thông – Vận tải sở hữu Hãng Hàng không Việt Nam và cũng là cơ quan điều tiết các hãng hàng không. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa quản lý vừa sản xuất thuốc trừ sâu. Những tình huống mâu thuẫn lợi ích này thúc đẩy các cơ quan trên ưu ái hơn cho các doanh nghiệp của mình so với các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp không có được sự ảnh hưởng chính trị sẽ rơi vào thế bất lợi, từ đó cản trở hoạt động đầu tư và gây khó khăn cho cạnh tranh. Vấn đề thứ ba và có liên quan của nền kế hoạch hóa tập trung là vai trò quan trọng được tiếp tục duy trì của doanh nghiệp nhà nước trong gần như mọi hoạt động kinh tế ở Việt Nam. Mặc dù cổ phần hóa đã chuyển đổi nhiều doanh nghiệp này thành các công ty cổ phần, đa số vẫn nằm dưới sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước với sở hữu toàn bộ hay một phần hoặc kết nối với nhà nước thông qua các mối quan hệ cá nhân và chính trị lâu năm của lãnh đạo doanh nghiệp với các quan chức chính phủ. Do những vấn đề trên và những đặc tính khác của thể chế kinh tế Việt Nam, các kênh phân bổ nguồn lực phi thị trường vẫn còn quan trọng. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực đất đai và tín dụng. Tenev và các đồng nghiệp đã báo cáo rằng thời gian xử lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với doanh nghiệp tư nhân là dài hơn 200 lần so với thời gian xử lý cho doanh nghiệp nhà nước (Tenev và các tác giả khác 2003, 67). Kết quả là, nhiều doanh nghiệp tư nhân buộc phải thuê đất không chính thức từ các doanh nghiệp nhà nước với giá cao. Malesky và Taussig phát hiện rằng khả năng tiếp cận tín dụng cũng đi kèm mật thiết với những quan hệ với Đảng, chính quyền hoặc doanh nghiệp nhà nước (Malesky và Taussig 2008, 574). Khả năng tiếp cận thị trường cũng dễ dàng hơn cho doanh nghiệp có quan hệ. Các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp nhà nước thích làm kinh doanh với doanh nghiệp nhà nước khác hay doanh nghiệp sân sau, điều này buộc các công ty tư nhân thuần túy phải làm thầu phụ cho doanh nghiệp nhà nước thay vì bán hàng trực tiếp (Thắng và Freeman 2009, 240). Hakkala và Kokko cũng nhận thấy việc bỏ thầu khu vực công bị thiên lệch bởi những điều kiện ràng buộc, và doanh nghiệp tư nhân không có khả năng thực hiện các khoản chi không chính thức ở qui mô lớn như các đối thủ cạnh tranh trong khu vực công (Hakkala and Kokko 2007, 16). Hệ thống luật pháp không bảo vệ được các doanh nghiệp không có quan hệ khỏi tác động xấu của những hình thức ưu ái này. Do doanh nghiệp tư nhân thiếu tin tưởng vào tòa án, các DNNN càng tìm cách tác động đến hệ thống pháp lý vì họ có thể huy động mạng lưới phi chính thức để đảm bảo có được các quyết định thuận lợi cho mình. Ngay cả khi một phán quyết khách quan được tòa án đưa ra, thì việc thực thi lại thuộc về trách nhiệm của chính quyền địa phương. Điều này khiến cho tổ chức từ bên ngoài đặc biệt bất lợi, vì chính quyền địa phương có thể đơn giản không thực thi quyết định của tòa nếu thấy bất lợi cho doanh nghiệp mà mình có những mối quan hệ mạnh (Tenev và các tác gia khác 2003, 57). Thể chế yếu là nguồn gốc quan trọng của tham nhũng, vì khi không có khả năng đảm bảo quyền sở hữu hay thực thi hợp đồng thì các doanh nghiệp và cá nhân buộc phải tìm kiếm sự bảo vệ bằng cách hối lộ quan chức nhà nước. Doanh nghiệp dùng hối lộ phần nhiều để tiếp cận được dịch vụ công, để thắng thầu các hợp đồng nhà nước và để giải quyết các vấn đề thuế. Những doanh nghiệp lớn hơn thì có ảnh hưởng hơn nên khả năng đưa hối lộ cũng nhiều hơn. Đây chính là điều cản trở doanh nghiệp tư nhân đạt qui mô sản xuất lớn hơn (Rand và Tarp 2010, 12). Một nguyên nhân khác của tham nhũng là mức độ thiếu nhất quán cao trong hệ thống luật và qui định. Các doanh nghiệp bị chi phối bởi những qui định mâu thuẫn nhau do nhiều bộ ngành trung ương và cơ quan địa phương ban hành. Thường thì doanh nghiệp không thể tuân thủ hết tất cả những qui định này, vì chúng không tương thích nhau. Cách duy nhất để “giải quyết” việc tuân thủ các qui định mâu thuẫn nhau là hối lộ. 4 Những khó khăn, trục trặc này càng bị khuếch đại vì sự thiếu phối hợp giữa các cơ quan nhà nước các cấp. Các khảo sát của Chính phủ thường xuyên kết luận rằng các cơ quan trung ương và địa phương có quyền tự định rất cao trong việc hình thành và thực thi chính sách. Mức độ thực thi các chính sách trung ương của chính quyền các tỉnh là rất khác nhau (Bích, Grafton, và Kompas 2009, 11). Quan chức địa phương có sử dụng quyền tự định từ cơ chế phân cấp để thúc đẩy đầu tư và thương mại ở địa phương, nhưng phổ biến hơn là họ hướng nỗ lực của mình vào việc hỗ trợ mạng lưới các cơ quan địa phương, các doanh nghiệp nhà nước và những hoạt động kinh doanh có quan hệ khác. Sự phối hợp giữa các cơ quan trung ương cũng yếu. Các bộ ngành ban hành qui định mâu thuẫn trực tiếp với qui định được các cơ quan khác đưa ra và không có cơ chế đảm bảo tính nhất quán hay phân xử trong trường hợp có mẫu thuẫn giữa các cơ quan quản lý. Cái gọi là “tác động si-lô” nói đến khuynh hướng các cơ quan nhà nước chỉ thông tin với nhau theo ngành dọc của mình, nhưng lại tránh thông tin theo chiều ngang với các cơ quan khác. Quyền sở hữu được xác lập và thực thi kém, thiếu điều tiết và phân xử công bằng, cùng sự phối hợp kém giữa các cơ quan nhà nước đã dẫn đến tình trạng phân mảng thể chế. Quyền sở hữu yếu mở đường cho việc phân bổ nguồn lực theo cơ chế phi thị trường, trên cơ sở đàm phán chính trị, đặc biệt là về hai nhân tố sản xuất đầu vào là đất đai và tín dụng, nhưng cũng ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận thị trường ở đầu ra và trong lĩnh vực đầu tư, chi tiêu của nhà nước. Những phân định không rõ ràng giữa cơ quan điều tiết và các tổ chức tham gia thị trường tạo thêm động cơ cho hoạt động trục lợi và dùng ảnh hưởng chính trị để bóp méo thị trường. Sự phối hợp kém giữa các cơ quan trung ương và địa phương, và giữa các cơ quan các cấp với nhau, mặc nhiên đảm bảo rằng quyền lực sẽ nằm ở các cấp thấp hơn trong hệ thống. Sự phát triển của hệ thống cảng TP.HCM là một ví dụ điển hình về tác động của thể chế phân mảng lên một lĩnh vực kinh tế quan trọng và chính sách đầu tư công. Cảng là đòi hỏi đầu tư thâm dụng vốn, có vòng đời lâu dài và vì vậy phải được dựa vào một khung thể chế mạnh và sự phối hợp chặt chẽ giữa hệ thống quy định, đầu tư công và đầu tư tư nhân. Cạnh tranh thị trường tạo động cơ hạ thấp chi phí và cải thiện dịch vụ, nhưng cạnh tranh trong điều kiện thiếu sân chơi bình đẳng sẽ không chắc mang lại kết cục hiệu quả. Nhiều cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong Hệ thống cảng TP.HCM. Cạnh tranh giữa các DNNN không nhất thiết tạo ra kết cục không tối ưu theo góc nhìn của xã hội. Một thị trường dịch vụ cảng lành mạnh có thể phát triển ở vùng Đông Nam bộ nếu khung thể chế bao gồm quyền sở hữu được xác lập rõ, luật chơi công bằng và minh bạch, các qui định và phân xử tranh chấp không thiên vị và khả năng phối hợp hành động giữa các cơ quan chức năng. Tiếc thay là những điều kiện này chưa được đảm bảo ở Việt Nam. Kết quả là một hệ thống bị phân mảng cao độ, trong đó các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh chủ yếu trong phạm vi chính trị để được ưu đãi và được kiểm soát tài sản quốc gia. Hành động của những chủ thể này có định hướng tối đa hóa lợi ích tư nhân, mà hầu như không cân nhắc đến chi phí cho xã hội. Các cơ quan nào liên quan thiếu có động cơ kiến tạo những hàng hóa công cần thiết để đảm bảo rằng hệ thống hoạt động theo đúng chức năng. Thay vào đó, mỗi tổ chức riêng lẻ lại hướng nỗ lực của mình vào việc kiể ... mình ở Quận 4 thành tiền, và không cần phải phát triển cảng hành khách ở trung tâm thành phố. Thiết lập một cơ quan quản lý cảng độc lập Nguyên nhân thứ hai của sự phân mảng và rời rạc về thể chế là thiếu cơ chế tách bạch giữa cơ quan quản lý và các tác nhân tham gia thị trường, các bộ ngành trung ương và chính quyền địa phương và cả giữa những đơn vị trong cùng một cơ quan.51 Hệ thống cảng Đông Nam bộ giống như một trận bóng trong đó có nhiều trọng tài, và những trọng tài này cũng đồng thời là cầu thủ của mỗi đội trên sân. Trong điều kiện này, luật chơi sẽ không rõ ràng và không được thực thi. Sức mạnh thô quan trọng hơn kỹ năng hay chiến lược. Việc áp dụng những nguyên tắc đơn giản, dễ thực thi sẽ từng bước giảm đi mức độ phân mảng này. Ví dụ, Thái Lan đã giảm mức độ sử dụng cảng nội ô bằng cách ấn định khối lượng hàng hóa tối đa cho các cảng này, buộc các nhà vận hành cảng phải phát triển và sử dụng cảng ở vị trí mới sát biển. Ít có khả năng hệ thống hiện tại sẽ tạo ra được những nguyên tắc công bằng và thực thi được những nguyên tắc này vì các nhà điều tiết cũng là đơn vị tham gia thị trường. Vấn đề này có thể giải quyết bằng cách xây dựng mô hình Chính quyền Cảng (Port Authority) với chức năng và nhiệm vụ lớn hơn hệ thống các cảng vụ hiện nay cho vùng Đông Nam bộ, với trách nhiệm điều tiết hệ thống cảng trong cả khu vực. Nhiều nước trên thế giới đã thiết lập các chính quyền cảng thuộc nhà nước hay do nhà nước chi phối để quản lý và điều tiết hệ thống cảng phục vụ cho nhiều địa phương. Trong một số trường hợp, chính quyền cảng cũng là nhà vận hành cảng, nhiều trường hợp khác trách nhiệm chính của cơ quan này là đề ra chuẩn mực và thiết lập sân chơi bình đẳng để đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp. Cơ chế tài chính công theo hướng khuyến khích phối hợp vùng Chính quyền TP.HCM quan ngại việc di dời cảng vì phải phụ thuộc vào nguồn thu thuế xuất nhập khẩu. Việc thiếu một cơ chế vùng để chia sẻ nguồn thu đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các chính quyền địa phương nhằm thu hút cảng về phía mình bất kể điều kiện tự nhiên và tác động của cảng đến môi trường đô thị. Nên kết hợp việc thiết lập một cơ quan quản lý và điều tiết cảng cấp vùng cho Đông Nam bộ với việc xây dựng cơ chế chia sẻ nguồn thu ngân sách từ thuế xuất nhập khẩu để giảm động cơ tài chính duy trì cảng ở địa phương mình. Vì các cảng là phục vụ toàn bộ các tỉnh Đông Nam bộ, nên cũng sẽ không công bằng nếu số thu này thuộc về TP.HCM, BRVT hoặc bất kỳ tỉnh nào trong vùng. Một cơ chế chính quyền cảng sẽ có cả chức năng thu thuế liên quan đến hoạt động cảng biển và tái đầu tư số tiền này vào cơ sở hạ tầng hỗ trợ. Cách làm này sẽ giúp khắc phục tình trạng thiếu phối hợp liên tỉnh trong phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay. Chính quyền cảng cũng có 51 Riêng Cục Hàng hải của Bộ Giao thông – Vận tải có 3 đơn vị riêng biệt giám sát hoạt động vận tải và điều hành cảng ở Đông nam bộ, đó là Cảng vụ TP.HCM, Cảng vụ Đồng Nai và Cảng vụ Vũng Tàu. 22 động cơ đảm bảo rằng những cơ sở hạ tầng thiết yếu phải được hoàn tất đúng tiến độ để đảm bảo cho sự hoạt động trôi chảy của các cảng. Số thu phụ trội so với nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng hỗ trợ sẽ được phân phối cho các tỉnh mà hệ thống cảng Đông Nam bộ phục vụ để giảm động cơ xây dựng cảng riêng trong mỗi tỉnh, vốn là nguyên nhân dẫn đến sự phân mảng trong hoạt động cảng hiện nay. Kết luận Nền kinh tế Việt Nam đã tăng lên gấp 5 lần về quy mô kể từ năm 1986. Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra sự cải thiện mang tính lịch sử về mức sống dân cư và giảm mạnh tỷ lệ người dân Việt Nam sống trong nghèo khó. Theo Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ dân số sống dưới mức một đô-la một ngày (theo ngang bằng sức mua) đã giảm từ 64% năm 1993 xuống 13% năm 2008. Công cuộc tái cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này đã giúp các hộ gia đình và doanh nghiệp Việt Nam tận dụng nguồn lực trước đây chưa sử dụng hoặc thiểu dụng vào sản xuất, và chuyển dịch từ hoạt động năng suất thấp sang hoạt động năng suất cao. Nhưng việc duy trì tăng trưởng trong tương lai đòi hỏi phải có những thay đổi thể chế sâu sắc hơn. Thị trường hiện nay là cơ chế hàng đầu trong phân bổ nguồn lực ở Việt Nam nhưng có kết quả kém vì những thể chế cơ bản của thị trường lại không đầy đủ hoặc thiếu vắng. Những khoảng trống trong khuôn khổ thể chế đã và đang làm nản lòng các nhà đầu tư, khiến họ không sẵn sàng tạo dựng những tài sản có vòng đời dài hạn hoặc đầu tư nguồn lực của mình vào những dự án có thời gian thu hồi vốn lâu. Thể chế yếu đẩy doanh nghiệp và cá nhân theo hướng chọn những giao dịch ngắn hạn, dễ thanh khoản, từ đó giúp họ giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, những đầu tư này sẽ không tạo ra sự tăng trưởng năng suất mà Việt Nam đang cần để đa dạng hóa sản xuất, xuất khẩu và tăng thu nhập. Tình huống này nghiên cứu hệ thống cảng ở TP.HCM như là một ví dụ điển hình về sự phân mảng thể chế ở Việt Nam. Phân mảng thể chế có nghĩa là sự tồn tại của nhiều đơn vị nhỏ không phối hợp với nhau trong khu vực công lẫn khu vực tư. Chúng ta đã thấy sự phân tán này chính là phản ứng đối với ba hình thức thất bại thể chế: i) quyền sở hữu không được xác lập rõ ràng và thực thi một cách hữu hiệu; ii) không có sự tách bạch giữa vai trò điều tiết thị trường và tham gia thị trường; iii) thiếu cơ chế phối hợp vùng để đạt hiệu quả lớn hơn trong đầu tư công. Những thất bại thể chế này đẩy các quyết định phân bổ nguồn lực từ thị trường sang cho hệ thống chính trị. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp đất đai và tín dụng, kết quả là các doanh nghiệp có quan hệ được ưu đãi tiếp cận đất và vốn bất kể hiệu quả sử dụng những nguồn lực này. Chính quyền các cấp vẫn chưa thể áp dụng kỷ cương lên các tổ chức này, phần lớn vì nhiều cơ quan chịu trách nhiệm điều tiết nền kinh tế lại chính là đơn vị tham gia thị trường, có lợi từ chính sự ưu đãi đã ban phát. Tình trạng phân mảng trong các tổ chức nhà nước làm cho đầu tư công kém hiệu quả do bị dàn trải và trùng lắp, khi tỉnh nào cũng tìm cách xây cảng, xây sân bay, làm nhà máy điện, làm nhà máy bia của riêng mình. Tình huống hệ thống cảng TP.HCM minh họa tác động của những vấn đề thể chế lên đầu tư công, phát triển cơ sở hạ tầng và hiệu quả kinh tế. Nhiều cơ quan nhà nước và doanh nghiệp cùng tham gia, mỗi tổ chức hoạt động để tối đa hóa lợi ích tư trong khi ít hoặc không cân nhắc đến chi phí và lợi ích xã hội. Quyền sở hữu không đảm bảo đẩy hoạt động cạnh tranh kinh tế ra khỏi thị trường và đi vào không gian chính trị, nơi có nhiều cơ quan nhà nước tìm cách sử dụng thẩm quyền điều tiết và ảnh hưởng chính trị của mình để đạt đặc quyền, đặc lợi. Kết quả là hệ 23 thống cảng bị phân tán, cảng mới thì dư thừa công suất còn cảng cũ thì không chịu di dời. Cạnh tranh về đất đã dẫn đến bế tắc chính trị, khi mỗi cơ quan đề xuất kế hoạch riêng nhằm duy trì kiểm soát đối với đất và nguồn thu từ cảng. Chúng tôi đã đề xuất ba chính sách khắc phục tác động do thể chế rời rạc gây ra và gắn kết quyền lợi của các doanh nghiệp cảng với quyền lợi rộng lớn hơn của những người sử dụng cảng và của xã hội. Thứ nhất, việc làm rõ và thực thi quyền sở hữu sẽ giúp các doah nghiệp nhà nước được bù đắp khi từ bỏ quyền kiểm soát đất của mình trong nội ô, từ đó giảm động cơ giằng co về mặt chính trị để duy trì quyền kiểm soát đất. Giao dịch thị trường được đẩy mạnh để thay đế cho cạnh tranh chính trị trong việc phân bổ đất. Thứ hai, chúng tôi đề xuất thành lập mô hình chính quyền cảng như là một cơ quan điều tiết độc lập và công bằng đối với hệ thống cảng của cả vùng. Cơ quan này sẽ đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp sử dụng cảng và người dân vùng Đông Nam bộ. Các quyết định điều tiết sẽ được tách khỏi những doanh nghiệp vận hành cảng trong vùng. Điều này sẽ cho phép Việt Nam đi theo kinh nghiệm thành công của nhiều nơi khác khi từng bước giảm cường độ sử dụng cảng nội ô khi cảng mới được xây dựng. Thứ ba, Chính quyền Cảng sẽ đóng vai trò phối hợp giữa các tỉnh thành trong hoạt động liên quan đến cảng biển. Điều này đặc biệt quan trọng xét về khía cạnh tài chính công. Hiện nay, mỗi tỉnh đều muốn giữ lại cảng của mình và phát triển thêm cảng mới để đảm bảo nguồn thu ngân sách từ thuế và phí. Đây là kiểu chính sách lợi mình hại người, vì nguồn thu ở tỉnh này sẽ không dành cho tỉnh khác. Hơn nữa, các tỉnh không có động cơ xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ cảng nếu cảng không nằm trong ranh giới hành chính của mình. Nếu thuế và phí được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ, phần còn lại được chia sẻ một cách công bằng giữa các tỉnh trong vùng, thì họ sẽ không còn động cơ để duy trì cảng của mình. Cụ thể là có thể thuyết phục chính quyền TP.HCM mạnh tay hơn trong việc di dời cảng ra khỏi thành phố, trước thực tế là những cảng này đang gây tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm cho cư dân đô thị và tăng chi phí về thời gian cho khách hàng sử dụng cảng biển. 24 Tài liệu tham khảo APL/APL Logistics. 2007, “Vietnam Transportation and Logistics – Challenges and Opportunities”, Báo cáo do Frost & Sullivan biên soạn, tháng 2. Ngân hàng Phát triển châu Á. 2009, “Maritime Connectivity in Archipelagic Southeast Asia: An Overview”, Southeast Asia Working Paper Series, tháng 8. Hakkala, Katariina Nilsson, và Ari Kokko. 2007. The State and the Private Sector in Vietnam. EIJS Working Paper Series, 1 tháng 6. Malesky, E. J., và M. Taussig. 2008. “Where Is Credit Due? Legal Institutions, Connections, and the Efficiency of Bank Lending in Vietnam.” Journal of Law, Economics, and Organization 25 (20 tháng 6): 535-578. doi:10.1093/jleo/ewn011. North, Douglass C. 1994. “Economic Performance Through Time.” American Economic Review 84 (3): 359-368. Rand, John, và Finn Tarp. 2010. Firm Level Corruption in Vietnam. UNI-WIDER Working Paper, March. Tenev, Stoyan, Amanda Carlier, Omar Chaudry, và Nguyễn Quỳnh Trang. 2003. Informality and the Playing Field in Vietnam’s Business Sector. Washington D.C.: International Finance Corporation. Thành, Nguyễn Xuân. 2010, "Những trở ngại về cơ sở hạ tầng của Việt Nam ", Tài liệu đối thoại chính sách số 1, Trường Harvard Kennedy và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, tháng 1. Bộ Giao thông - Vận tải. 2005, Quy hoạch chi tiết cảng biển TP.HCM, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu (Nhóm cảng biển số 5) đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, tháng 8. Bộ Giao thông - Vận tải. 2011, Quy hoạch chi tiết Nhóm Cảng biển Đông Nam bộ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, tháng 8. Ngân hàng Thế giới, Port Reform Toolkit, “Module 2: The Evolution of Ports in a Competitive World”, Second Edition, 2007. Bích, Trần Thị, R Grafton và T Kompas. 2009. “Institutions matter: The case of Vietnam.” Journal of Socio-Economics 38 (tháng 1): 1-12. doi:10.1016/j.socec.2008.05.012. Thắng, Nguyễn Văn, và Nick J. Freeman. 2009. “State-owned enterprises in Vietnam: are they „crowding out‟ the private sector?” Post-Communist Economies 21 (tháng 6): 227-247. doi:10.1080/14631370902778674. 25 Phụ lục 1: Cảng ở khu vực trung tâm TP.HCM và kế hoạch di dời Nguồn: Nguyễn Xuân Thành và Trần Thanh Phong (FETP). Bản đồ nền lấy từ Google. Vị trí và tên cảng được dựa vào thông tin các cảng hiệu hữu và Bộ Giao thông – Vận tải, Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển vùng Đông Nam bộ (Nhóm cảng biển số 5) đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, tháng 8/2011. 26 Phụ lục 2: Cảng hiện hữu trong khu vực trung tâm TP.HCM Nguồn: Nguyễn Xuân Thành và Trần Thanh Phong (FETP). Bản đồ nền lấy từ Google. Vị trí và tên cảng được dựa vào thông tin các cảng hiệu hữu. 27 Phụ lục 3: Hệ thống Cảng Cái Mép – Thị Vải Nguồn: Nguyễn Xuân Thành và Trần Thanh Phong (FETP). Bản đồ nền lấy từ Google. Vị trí và tên cảng dựa vào khảo sát thực tế của tác giả, các giấy phép đầu tư và Bộ Giao thông – Vận tải, Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển Đông Nam bộ (Nhóm cảng số 5) đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, tháng 8/2011. Ghi chú: * Cảng đang hoạt động ** Cảng đang xây dựng 28 Phụ lục 4: Kế hoạch chuyển đổi công năng Cảng Sài Gòn hiện hữu (A) Bến cảng Nhà Rồng và Khánh Hội hiện nay thuộc Cảng Sài Gòn (diện tích 32,2 ha) Nguồn: Bản đồ Google, tải về vào tháng 10/2011. (B) Đề xuất chuyển đổi công năng của Cảng Sài Gòn Nguồn: Công ty Cổ phần Tư vấn Thiết kế Cảng – Kỹ thuật Biển (Portcoast), “Quy hoạch di dời và tình hình triển khai thực hiện di dời các cảng trên sông Sài Gòn và Nhà máy Đóng tàu Ba Son”, TP.HCM, tháng 3/2011. Bến tàu khách du lịch Cầu Thủ Thiêm 3 theo quy hoạch 29 (C) Bến tàu khách du lịch Phú Thuận được UBND TP.HCM chấp thuận Nguồn: Bản đồ Google, tải về vào tháng 10/2011. Phụ lục 5: Cảng Hiệp Phước Nguồn: Bản đồ Google, tải về vào tháng 10/2011. Dự án chuyển đổi công năng của Cảng Sài Gòn: Bến tàu khách du lịch Khánh Hội UBND TPHCM: Dự án công viên Phú Thuận với bến tàu khách du lịch Đường hiện hữu Cảng Container SPCT Đường bộ kết nối phải xây Cảng Sài Gòn – Hiệp Phước 30 Phụ lục 6: Hàng hóa thông qua cảng TP.HCM Tân Cảng Sài Gòn Cảng Sài Gòn Cảng Tân Thuận Đông Cảng Bến Nghé VICT Rau Quả Bông Sen 2010 Khối lượng, 1000 tấn 31.132 11.815 532 4.412 3.146 208 853 Nhập khẩu 16.163 5.073 530 1.288 1.512 208 799 Xuất khẩu 14.969 1.364 2 .208 1.570 0 24 Nội địa 5.378 0 2.916 64 0 30 Khối lượng, TEU 2.850.000 (*) 401.982 0 210.549 297.561 0 4.498 2009 Khối lượng 1000 tấn 33.000 14.008 696 4.354 3.300 299 1.127 Nhập khẩu 13.073 4.375 693 1.948 1.500 0 13 Xuất khẩu 19.927 4.615 0 455 1.800 0 1.100 Nội địa 0 5.019 3 1.951 299 14 Khối lượng TEU 2.460.000 (*) 378.226 0 140.922 300.000 295 23.896 2008 Khối lượng 1000 tấn 26.965 13.166 556 4.199 5.360 308 1.134 Nhập khẩu 13.016 5.413 498 1.512 2.670 294 1.040 Xuất khẩu 13.949 2.845 36 500 2.690 14 94 Nội địa 4.908 22 2.187 0 0 0 Khối lượng TEU 2.018.104 510.496 0 188.815 536.176 0 24.252 2007 Khối lượng 1000 tấn 25.600 13.618 531 4.060 8.580 485 1.200 Nhập khẩu 12.660 7.307 444 998 4.154 250 1.130 Xuất khẩu 12.540 2.114 1 181 4.426 188 50 Nội địa 400 4.197 86 2.881 0 47 20 Khối lượng TEU 1.800.000 350.418 0 218.004 571.998 0 24.000 2006 Khối lượng 1000 tấn 20.000 11.127 315 3.680 - 991 865 Nhập khẩu 9.192 6.286 257 1.033 - 418 705 Xuất khẩu 9.958 2.016 223 - 476 160 Nội địa 850 2.825 58 2.424 - 97 Khối lượng TEU 1.400.000 220.569 191.048 - 0 17.583 2005 Khối lượng 1000 tấn 14570 10.744 304 3.384 - 869 800 Nhập khẩu 6330 4.965 300 1.468 - 373 700 Xuất khẩu 7604 2.549 0 454 - 375 100 Nội địa 636 3.230 4 1.462 - 121 Khối lượng TEU 1.056.000 284.506 0 163.810 - 21.000 2000 Khối lượng 1000 tấn 4642 9.701 144 2.708 - 636 280 Nhập khẩu 2018 4.527 139 1.614 - 305 270 Xuất khẩu 2200 3.088 5 666 - 227 10 Nội địa 424 2.086 0 428 - 104 0 Khối lượng TEU 411.627 237.331 0 110.000 - 0 0 Ghi chú: (*) Tính cả lượng container mới ở Cái Mép (TCCT). Nguồn: Số liệu báo cáo của các cảng cho Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (VPA).
File đính kèm:
di_doi_cang_bien_thanh_pho_ho_chi_minh_tinh_huong_nghien_cuu.pdf