Di căn xa trong carcinôm tuyến giáp dạng nang
Carcinôm tuyến giáp dạng nang (FTC) là loại ung thư tuyến giáp thường gặp đứng hàng thứ hai sau
carcinôm tuyến giáp dạng nhú (PTC). Dựa trên mức độ xâm lấn, chúng được phân thành nhóm FTC xâm lấn
tối thiểu và FTC xâm lấn rộng. Hiện nay FTC không thể phân biệt được với BTDN dựa trên tế bào học, siêu
âm, hoặc đặc điểm lâm sàng đơn thuần. Cho đến hiện tại, một bệnh nhân với FTC dạng xâm lấn sớm nên
được trải qua phẫu thuật cắt thùy và eo giáp để chẩn đoán. Việc điều trị hỗ trợ là cần thiết đối với FTC dạng
xâm lấn, bao gồm cắt giáp toàn phần, diệt giáp với Iod phóng xạ sau mổ, xạ hình toàn thân, và điều trị đè nén
với hormon tuyến giáp. Ít hơn 10% bệnh nhân chẩn đoán FTC sẽ cho di căn hạch. Di căn xa hầu hết thường
gặp là di căn phổi, xương; hiếm gặp di căn ở não, gan, da. Di căn vi thể được điều trị với liều cao Iod phóng xạ.
Di căn đại thể nhưng ở dạng nốt đơn độc có thể được mổ lấy đi để cải thiện sống còn. Tỷ lệ sống còn 10 năm
đối với những bệnh nhân có FTC dạng xâm lấn sớm là 98% so với 80% ở bệnh nhân có FTC dạng xâm lấn.
Mục đích của nghiên cứu này là nhân 6 trường hợp FTC di căn xương để nêu lên những đặc điểm về dịch
tễ học, lâm sàng, bệnh học, tiêu chuẩn chẩn đoán và mô thức điều trị đối với loại bệnh lý này, làm tiền đề cho
những nghiên cứu sau này
Tóm tắt nội dung tài liệu: Di căn xa trong carcinôm tuyến giáp dạng nang

ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 46 DI CĔN XA TRONG CARCINÔM TUYẾN GIÁP DẠNG NANG TRẦN CHÍ TIẾN1, NGÔ VIẾT THỊNH2, TRẦN TỐ QUYÊN3, HUỲNH VĔN HUY4 Carcinôm tuyến giáp dạng nang (FTC) là loại ung thư tuyến giáp thường gặp đứng hàng thứ hai sau carcinôm tuyến giáp dạng nhú (PTC). Dựa trên mức độ xâm lấn, chúng được phân thành nhóm FTC xâm lấn tối thiểu và FTC xâm lấn rộng. Hiện nay FTC không thể phân biệt được với BTDN dựa trên tế bào học, siêu âm, hoặc đặc điểm lâm sàng đơn thuần. Cho đến hiện tại, một bệnh nhân với FTC dạng xâm lấn sớm nên được trải qua phẫu thuật cắt thùy và eo giáp để chẩn đoán. Việc điều trị hỗ trợ là cần thiết đối với FTC dạng xâm lấn, bao gồm cắt giáp toàn phần, diệt giáp với Iod phóng xạ sau mổ, xạ hình toàn thân, và điều trị đè nén với hormon tuyến giáp. Ít hơn 10% bệnh nhân chẩn đoán FTC sẽ cho di cĕn hạch. Di cĕn xa hầu hết thường gặp là di cĕn phổi, xương; hiếm gặp di cĕn ở não, gan, da. Di cĕn vi thể được điều trị với liều cao Iod phóng xạ. Di cĕn đại thể nhưng ở dạng nốt đơn độc có thể được mổ lấy đi để cải thiện sống còn. Tỷ lệ sống còn 10 nĕm đối với những bệnh nhân có FTC dạng xâm lấn sớm là 98% so với 80% ở bệnh nhân có FTC dạng xâm lấn. Mục đích của nghiên cứu này là nhân 6 trường hợp FTC di cĕn xương để nêu lên những đặc điểm về dịch tễ học, lâm sàng, bệnh học, tiêu chuẩn chẩn đoán và mô thức điều trị đối với loại bệnh lý này, làm tiền đề cho những nghiên cứu sau này. ABSTRACT Follicular thyroid carcinoma (FTC) is the second most common type of thyroid cancer after papillary carcinoma. Based on the extent of invasion, it has been classified into minimally and widelt invasive subtypes. Currently, FTC cannot be distinguished from a follicular adenoma based on cytologic, sonographic, or clinical features alone. Until then, a patient with minimally invasive FTC should undergo a diagnostic thyroid lobectomy. Additional therapy is necessary for invasive FTC including completion thyroidectomy, postoperative radioactive iodine ablation, whole body scanning, and thyrotropin suppressive doses of thyroid hormone. Less than 10% of patients with FTC will have lymph node metastases. Systemic metastases most commonly involve the lung and bone and less commonly the brain, liver, and skin. Microcopic metastases are treated with high doses of radioactive iodine. Isolated macroscopic metastases can be resected with an improvement in survival. The overal 10 - year survival for patients with minimally invasive FTC is 98% compared with 80% in patients with invasive FTC. 1 ThS.BSCKII. Trưởng Khoa Ngoại 6 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 TS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 6 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 3 BSCKII. Phó Trưởng Khoa Ngoại 6 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 BSCKI. Khoa Ngoại 6 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM TỔNG QUAN TÀI LIỆU Tỷ lệ bướu tuyến dạng nang so với FTC trong các mẫu bệnh phẩm sau phẫu thuật là 5:1. FTC có đặc điểm vi thể khá tương đồng với bướu tuyến dạng nang. Tuy nhiên, FTC thường có khuynh hướng có nhiều tế bào bướu hơn, vỏ bao dày hơn và không đồng đều, bên trong thường có vùng hoại tử và xuất huyết. FTC không thể phân biệt được với BTDN dựa trên những đặc điểm về tế bào học đơn thuần. Nó được phân biệt với BTDN dựa trên những tính chất sau: xâm lấn vỏ bao bướu, xâm lấn mạch máu, xâm lấn vỏ bao tuyến giáp, di cĕn hạch, di cĕn xa. FTC được chia thành dạng xâm lấn tối thiểu và dạng xâm lấn dựa trên tiêu chuẩn về hình thái học. FTC xâm lấn tối thiểu là dạng bướu còn nằm trong vỏ bao bướu với sự xâm nhiễm vi thể vào vỏ bao bướu mà không có sự xâm lấn mạch máu. FTC xâm lấn tối thiểu là dạng bướu ít ác tính với tỷ lệ sống còn không bệnh được báo cáo tương đương với BTDN lành tính. Còn FTC dạng xâm lấn được định nghĩa là FTC với sự xâm lấn mạch máu và/hoặc xâm lấn vỏ bao bướu vào nhu mô giáp lân cận, thường có tiên lượng xấu. Van Heerden và cs. báo cáo tỷ lệ tử vong chuyên biệt về bệnh 10 nĕm của FTC dạng xâm lấn là 15 - 28%. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 47 FTC chiếm khoảng 10% tất cả những trường hợp ung thư tuyến giáp ở những vùng đầy đủ iod và 25 - 40% ung thư tuyến giáp ở những vùng thiếu iod. Nó cũng thường xảy ra ở phụ nữ và bệnh nhân lớn tuổi với tỷ lệ nữ/nam là 3:1 và độ tuổi trung bình là 60 tại thời điểm chẩn đoán. 10 - 15% bệnh nhân FTC có di cĕn xa, hầu hết thường là di cĕn phổi và xương, còn di cĕn não, gan, da thì hiếm gặp hơn. Hình 1. Tiêu chuẩn vi thể của FTC (b. Xâm nhiễm vỏ bao bướu, d. Xâm nhiễm mạch máu) Sinh bệnh học Khoảng 80% FTC có gen RAS đột biến hoặc có sự tái sắp xếp trong gen PAX8 - PPAR; đột biến điểm trong N-RAS, H-RAS, và K-RAS xảy ra trong khoảng 40% trường hợp FTC, dẫn đến những kích hoạt liên tục gây ra sự tĕng trưởng bướu không kiểm soát. Sự tái sắp xếp gen PAX8 - PPAR được tìm thấy trong 4 - 13% những trường hợp BTDN và 29 - 56% những trường hợp FTC. Khi đột biến gen PAX8 dẫn đến sự hợp nhất với PPAR và làm suy yếu chức nĕng của PPAR, dẫn đến sự mất khả nĕng kiểm soát ức chế sự phát triển của bướu. Weber và cs. đã báo cáo rằng 4 miRNA (miR - 192, miR - 197, miR - 328, và miR - 346) ở FTC có biểu lộ nhiều hơn một cách có ý nghĩa so với BTDN. miRNA là những phân đoạn nhỏ không mã hóa của acid ribonucleic chứa khoảng 25 nucleotid, nó bất hoạt sự kiểm soát quá trình phiên mã bằng cách gắn vào gen promotor. Cuối cùng dẫn đến hiện tượng tế bào tĕng sinh và chết tự nhiên. Ngoài ra, những yếu tố khác có thể kể đến trong sinh bệnh học FTC bao gồm như đột biến gen p53, c-myc, c-fos, và thụ thể TSH. Hình 2. Sinh bệnh học của bướu Lâm sàng - Chẩn đoán Hầu hết những bệnh nhân BTDN hay FTC có biểu hiện lâm sàng là một nốt đơn độc trong nhu mô tuyến giáp bình thường. Hầu hết bệnh nhân đều không có triệu chứng rõ ràng. Những bệnh nhân với bướu lớn có thể có những triệu chứng như đau, khó thở, ho, nuốt nghẹn, do bướu chèn ép vào khí quản, dây thần kinh quặt ngược, hay vào thực quản. Đánh giá lâm sàng bệnh nhân với một hạt giáp bao gồm thực hiện FNA, siêu âm vùng cổ, đo nồng độ TSH huyết thanh. Trong đó, FNA hiện nay vẫn là phương tiện chẩn đoán quan trọng nhất. Sự hạn chế lớn nhất của FNA là không có khả nĕng phân biệt FTC với bướu tuyến dạng nang. Theo Bethesda, FNA cho kết quả phù hợp với tĕng sản dạng nang chiếm khoảng 20% trường hợp và trong đó 15 - 30% có nguy cơ là ác tính. Siêu âm được khuyến cáo cho tất cả những bệnh nhân với hạt giáp nghi ngờ để giúp mô tả đặc điểm hạt giáp cũng như tầm soát những hạt giáp khác của phần mô giáp còn lại. Những đặc điểm siêu âm đơn thuần không thể phân biệt BTDN với FTC. Gần đây những xét nghiệm về sinh học phân tử tìm đột biến gen đang được thử nghiệm nhằm giúp cải thiện độ chính xác của FNA. Nikiforov và cs. đã công bố kết quả của một nghiên cứu lớn đưa ra một danh sách các đột biến gen cần thực hiện ở những mẫu FNA lấy được trước mổ để giúp đánh giá hạt giáp của bệnh nhân. Mặc dù độ chuyên biệt cao (99,7%), nhưng độ nhạy của test sinh học phân tử đơn thuần chỉ 62%. Đột biến gen RAS có 87% khả nĕng là ác tính, vì thế khuyến cáo nên thực hiện phẫu thuật ở tất cả những bệnh nhân có gen RAS đột biến. Điều trị Bệnh nhân với FNA “phù hợp với tĕng sản dạng nang” tối thiểu phải được phẫu thuật cắt thùy chẩn ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 48 đoán. Bệnh nhân tĕng sản dạng nang mà có tiền cĕn xạ trị vùng đầu cổ trước đó hoặc có hạt giáp ở thùy đối bên thì cũng nên được cắt giáp toàn bộ để xác định chẩn đoán. Cắt lạnh (sinh thiết tức thì) thì không có hữu ích trong việc đưa ra quyết định trong lúc mổ bởi vì hiếm khi nó phân biệt được BTDN với FTC, điều này được xác định bởi thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. Có đến 95% trường hợp tĕng sản dạng nang, cắt lạnh được thực hiện trong lúc phẫu thuật chỉ cho kết quả là “phù hợp với tĕng sản dạng nang” và chẩn đoán xác định phải chờ cho đến khi có kết quả cắt thường. Cắt thùy là điều trị tiêu chuẩn cho những bệnh nhân với BTDN và FTC xâm lấn tối thiểu. Còn FTC dạng xâm lấn thì thường ác tính hơn vì tiềm nĕng di cĕn xa và tiên lượng xấu, những bệnh nhân này cần được điều trị là cắt giáp toàn bộ. Việc nạo hạch cổ dự phòng thì không được cân nhắc ở những bệnh nhân FTC bởi vì chỉ < 10% trường hợp bệnh có di cĕn hạch. Nạo hạch cổ nhóm VI thì được thực hiện ở những bệnh nhân đã có di cĕn hạch và có khẳng định có di cĕn xa. Việc cắt giáp hoàn tất nên thực hiện trong tuần đầu sau lần mổ cắt giáp đầu tiên hoặc là 3 tháng sau đó để tránh khó khĕn do dính. Việc chậm trễ quá 6 tháng từ lần mổ đầu có thể liên quan đến nguy cơ cao di cĕn hay giảm tỷ lệ sống còn. Những bệnh nhân với chẩn đoán sau cùng là BTDN hay FTC xâm lấn tối thiểu thì không cần phải điều trị hỗ trợ thêm. ở nhóm này, việc điều trị nội tiết đè nén là không cần thiết, hormon tuyến giáp chỉ dùng điều trị cho những trường hợp bệnh nhân suy giáp sau phẫu thuật (có thể xảy ra sau cắt thùy là 1/3 trường hợp). Việc diệt giáp bằng phóng xạ và xạ hình toàn thân không có chỉ định. Sau phẫu thuật, bệnh nhân FTC xâm lấn được điều trị với liều 30mCi iod 131 (bệnh nhân được ngoại trú), để diệt những mô giáp còn sót lại và diệt những ổ di cĕn vi thể. Xạ hình toàn thân được khuyến cáo sau khi diệt giáp để xác định bệnh di cĕn xa. Diệt giáp giúp làm giảm nguy cơ bệnh tái phát, việc phá hủy mô giáp bình thường còn lại (nguồn sinh ra Tg và hấp thu iod), giúp tĕng độ nhạy của nồng độ theo dõi Tg trong máu và của xạ hình toàn thân từ đó dễ phát hiện bệnh tái phát. Ở những bệnh nhân FTC dạng xâm lấn, việc điều trị ức chế TSH bằng hormon tuyến giáp là cần thiết để làm chậm sự phát triển những tế bào ung thư còn sót lại và làm giảm nguy cơ tái phát. Ở những bệnh nhân FTC nguy cơ thấp, nồng độ TSH nên duy trì từ 0,3 - 2uIU/ml, những bệnh nhân nguy cơ cao thì nên giữ khoảng 0,1 - 0,5uIU/ml, những bệnh nhân di cĕn xa hoặc bệnh còn dai dẳng thì giữ TSH < 0,1uIU/ml. Theo dõi Ước tính khoảng 11 - 39% bệnh nhân FTC sẽ tái phát bệnh (Ung thư tuyến giáp tái phát thường phát triển trong 2 nĕm đầu sau phẫu thuật). Vì thế những bệnh nhân FTC xâm lấn thì cần được theo dõi sát bệnh sử, khám lâm sàng, đo nồng độ TSH, Tg, AntiTg mỗi 3 - 6 tháng cho 2 nĕm đầu tiên, và sau đó là mỗi nĕm một lần; siêu âm cổ thì thực hiện 6 - 12 tháng sau phẫu thuật và mỗi nĕm sau đó trong 3 - 5 nĕm (phụ thuộc vào nguy cơ tái phát của bệnh nhân và dựa vào kết quả nồng độ Tg theo dõi). Nồng độ Tg (khi kích thích TSH) thực hiện sau khi bệnh nhân suy giáp (hoặc là sau khi bệnh nhân sử dụng TSH tái tổ hợp) và thực hiện mỗi nĕm sau khi diệt giáp để xác định bệnh không còn tồn tại. Những bệnh nhân được chẩn đoán là không tồn tại bệnh thì chỉ cần theo dõi Tg với TSH không kích thích. Tg (không kích thích TSH) nếu tĕng trên 2ng/ml theo thời gian theo dõi có thể là dấu hiệu tái phát của bệnh, vì thế nên lập lại Tg (khi TSH kích thích) để theo dõi bệnh. Đối với những bệnh nhân mà không có bằng chứng của bệnh (có nồng độ Tg không phát hiện được, siêu âm cổ bình thường, xạ hình toàn thân trước đó âm tính), việc lặp lại xạ hình toàn thân với iod phóng xạ thì không cần thiết; chỉ thực hiện khi bệnh nhân có tĕng nồng độ Tg trong máu và siêu âm cổ bình thường. Những xét nghiệm hình ảnh học khác như: CT scan vùng đầu - cổ - ngực; MRI cho vùng cột sống - chậu và xương đùi; và PET được thực hiện cho những bệnh nhân với Tg tĕng nhưng siêu âm cổ bình thường, xạ hình bình thường. CT hữu ích để xác định di cĕn phổi. MRI là mô thức tốt nhất để xác định di cĕn xương. Còn PET có vai trò vừa chẩn đoán vừa để tiên lượng, những tổn thương dương tính trên PET thường có tiên lượng xấu. Điều trị tái phát và di cĕn xa Việc phẫu thuật với rìa diện cắt không bướu là nguyên tắc quan trọng khi điều trị bệnh tái phát tại chỗ tại vùng, phẫu thuật đồng thời cũng lấy đi những mô tuyến giáp còn sót lại. Di cĕn hạch cổ nhóm trung tâm trên đại thể được điều trị với nạo hạch cổ trung tâm. Di cĕn hạch cổ bên trên đại thể được điều trị bằng nạo hạch cổ chọn lọc. Di cĕn xa trên đại thể ở xương , phổi, hay não nếu như còn khu trú cũng có thể được mổ lấy đi để làm cải thiện tỷ lệ sống còn. Phẫu thuật cũng đóng vai trò quan trọng ở những trường hợp bệnh nhân di cĕn xa ở thân đốt sống hay xương dài để ngĕn chặn việc gãy xương bệnh lý cũng như làm giảm nhẹ những di chứng thần kinh. Ngoài ra, phẫu thuật cũng có thể chỉ định cho những trường hợp đau nghiêm trọng không đáp ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 49 ứng với điều trị nội khoa và cho những trường hợp di cĕn xa không đáp ứng iod phóng xạ. Di cĕn xa vi thể được điều trị với liều cao iod. FTC di cĕn xa đáp ứng điều trị iod phóng xạ trong 75% trường hợp. Liều 150mCi iod 131 sử dụng để điều trị cho những bệnh nhân có di cĕn hạch vi thể. Liều 200mCi iod 131 được sử dụng cho những bệnh nhân có di cĕn hệ thống. Iod phóng xạ rất có hiệu quả cho việc điều trị những trường hợp di cĕn phổi dạng nốt vi thể ở những bệnh nhân trẻ (được phát hiện nhờ vào xạ hình toàn thân mà Xquang phổi không phát hiện được), cụ thể là tỷ lệ sống còn 10 nĕm được báo cáo là lên đến 90%, thậm chí bệnh có thể điều trị khỏi hẳn với 35 - 45% bệnh nhân. Trái lại ở những trường hợp di cĕn phổi dạng nốt đại thể (phát hiện được qua Xquang phổi) lại đáp ứng rất kém với iod phóng xạ, và tỷ lệ sống còn 10 nĕm chỉ còn 11%. Di cĕn xương thường ít tập trung iod phóng xạ và vì thế bệnh có tiên lượng xấu hơn so với di cĕn phổi. Ước lượng rằng liệu pháp iod 131 phát huy hiệu quả chỉ khoảng 55% bệnh nhân và chỉ có 17% bệnh nhân có biểu hiện thuyên giảm bệnh. Xạ trị ngoài có thể được sử dụng để làm giảm nhẹ những cơn đau xương, đồng thời giúp kiểm soát sự phát triển của những ổ di cĕn không bắt iod phóng xạ. Di cĕn não thì chỉ chiếm < 1% trong FTC di cĕn xa, bệnh thường có tiên lượng xấu với thời gian sống còn trung bình khoảng 1 nĕm. Khi phẫu thuật lấy bướu không còn là sự chọn lựa thì việc xạ trị ngoài là hữu ích trong việc điều trị giảm nhẹ. Cân nhắc sử dụng liệu pháp nhắm trúng đích như sorafenib hay sunitinib cho những bệnh nhân di cĕn xa mà kháng iod phóng xạ. Tiên lượng Shaha và cs. báo cáo tỷ lệ sống còn toàn bộ tại thời điểm 5,10,và 20 nĕm đối với FTC tính chung lần lượt là 85%, 80%, và 76%. Khi phân chia thành những phân nhóm nhỏ hơn bao gồm nguy cơ thấp, trung bình, và cao (dựa trên tuổi, giai đoạn T, bệnh di cĕn xa, dạng mô học, grad mô học), thì tỷ lệ sống còn 10 nĕm tương ứng là 98%, 88%, 56%, tỷ lệ sống còn 20 nĕm tương ứng là 97%, 87%, và 49%. D’Avanzo và cs. đã báo cáo rằng những bệnh nhân FTC xâm lấn tối thiểu có tỷ lệ sống còn 10 nĕm là 98%, so với FTC xâm lấn mạch máu (có hoặc không có xâm lấn vỏ bao bướu) thì là 80%, còn với FTC xâm lấn rộng vào nhu mô tuyến giáp thì chỉ còn 38%. Nguyên nhân tử vong của bệnh hầu hết là do di cĕn xa. BỆNH ÁN LÂM SÀNG Trường hợp 1: Bệnh nhân Bùi Thị T., nữ, 39 tuổi Bệnh nhân đau cột sống tĕng dần kèm yếu và tê hai chân trong khoảng thời gian 6 tháng, đến 8/2015 thì liệt cả hai chân, BV. CTCH chẩn đoán: Ung thư di cĕn xương CRNP. Điều trị: Mở bản sống N10 giải ép, sinh thiết bướu, kết hợp xương N8, N9, N11, N12. GPB: FTC di cĕn xương. Chuyển BVUB. Siêu âm cổ: Theo dõi K giáp thùy (T), FNA: Tổn thương dạng nang. Xquang phổi: Ghi nhận hình ảnh giảm đậm độ đầu trong cung sau xương sườn 3 (P). Xạ hình xương: tổn thương xương sườn 3 (P); đốt sống D9, D10, D11. HMMD: TTF1, THYRO (+++), phù hợp FTC di cĕn xương. Điều trị: Cắt giáp toàn bộ, đang điều trị Iod 131 (150 - 150 - 200mCi). Lần tái khám gần nhất: đi lại được, còn tê hai chân. TSH > 100, Tg > 500, AntiTg: 106,6. SA: bt, XHX (+). Trường hợp 2: Bệnh nhân Trương Thị T., nữ, 63 tuổi. Cách nhập viện 1 tháng, bệnh nhân đau cột sống thắt lưng kèm tê và yếu dần 2 chân. Khám BV. CTCH chẩn đoán: ung thư di cĕn xương CRNP. Điều trị: Lấy bướu, cố định cột sống. GPB: FTC di cĕn xương. Chuyển BVUB. Siêu âm cổ: Đa nhân giáp 2 thùy không điển hình lành tính, FNA (P), (T): Phình giáp tuyến. Xquang phổi: Rộng bờ trung thất (P). Xạ hình xương: Hình ảnh hấp thu bất thường tại đốt sống từ N3 đến N10. HMMD: TTF1, THYRO (+++), phù hợp FTC di cĕn xương. Điều trị: Cắt giáp toàn bộ, đang điều trị Iod 131 (150 – 150 - 200mCi). Lần tái khám gần nhất : đi lại được. TSH: 30,1, Tg: 3,34, AntiTg: 315,3. SA: bt, XHX (+). Trường hợp 3: Bệnh nhân Lê Thị L. , nữ, 61 tuổi Cách nhập viện 1 nĕm, bệnh nhân phát hiện bướu phần mềm vùng trước xương ức lớn dần, BVUB chẩn đoán: Theo dõi Sarcôm sụn thân xương ức. Sinh thiết bướu, GPB: Carcinôm tuyến di cĕn phần mềm. Siêu âm cổ: Bướu giáp thùy (P), FNA (P), (T): tổn thương dạng nang. Xquang phổi: bình thường. Xạ hình xương: Tổn thương xương ức chưa loại trừ ác tính. HMMD: HEPART-1 (-); CK,EMA (+) rời rạc; TTF1, THYRO, VIM (+) lan tỏa, phù hợp FTC di cĕn. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 50 Điều trị: Cắt giáp toàn bộ, đang điều trị Iod 131 (150mCi) Lần tái khám gần nhất : Đi lại được. TSH: 3,7, Tg>500, AntiTg: 10,52. SA: bt, XHX (+). Trường hợp 4: Bệnh nhân Lê Vĕn H., nam, 60 tuổi Cách nhập viện 20 nĕm, bệnh nhân phát hiện có sự giới hạn vận động cánh tay (T), BV. CTCH chẩn đoán: Theo dõi ung thư di cĕn đầu trên xương cánh tay (T). Sinh thiết bướu, GPB: FTC di cĕn xương. Siêu âm cổ: K giáp thùy (T), FNA: tổn thương dạng nang. Xquang phổi: Bình thường. Xạ hình xương: Tổn thương xương sọ vùng đỉnh (P), đầu trên xương cánh tay (T), cung sau xương sườn 8,11 (T), D8, L1,L3, xương chậu (T). HMMD: TTF1, THYRO (+), phù hợp FTC di cĕn xương. Điều trị: cắt giáp toàn bộ, đang điều trị Iod 131 (150-200-200mCi) Lần tái khám gần nhất : lâm sàng ổn. TSH: 14, Tg>500, AntiTg: 15. SA: bt, XHX (+). Trường hợp 5: Bệnh nhân Lâm Thành H., nam, 58 tuổi Cách nhập viện 10 nĕm, bệnh nhân phát hiện bướu vùng trước cổ, chưa điều trị gì, không kèm triệu chứng gì khác, nay khám BVNDGĐ vì chẩn đoán di cĕn đốt sống D1, D2 trên MRI, nghĩ nguyên phát là K giáp, nhập viện Ung Bướu. Siêu âm cổ: Theo dõi bướu giáp thùy (P) + phình giáp thùy (T), FNA nhân thùy (P): Nghi ngờ PTC, MRI: K di cĕn đốt sống D1,D2, nghĩ nguyên phát là K giáp. Điều trị: Cắt giáp toàn bộ, đang điều trị Iod 131 (100mCi), GPB: phù hợp FTC. Lần tái khám gần nhất : lâm sàng ổn. TSH: 80, Tg>500, AntiTg: 11. SA: bt, XHX (+). Trường hợp 6: Bệnh nhân Huỳnh Thị U. Nữ, 62 tuổi Cách nhập viện 8 tháng, bệnh nhân bắt đầu đau mặt trong đùi (P) lan vùng bẹn, mức độ đau tĕng dần, bệnh nhân tự điều trị thuốc nam, thuốc giảm đau khác nhưng không bớt, khám và nhập viện Ung Bướu. MRI: Tổn thương choáng chỗ xương mu (P), xâm lấn cơ bịt trong và ngoài, khả nĕng tổn thương thứ phát. XHX: tổn thương xương mu (P), đốt sống L5 theo dõi K di cĕn xương. Siêu âm cổ: Nhân vôi hóa viền hoàn toàn thùy (P) 12 x 8mm, FNA: Phình giáp. Kết quả sinh thiết tổn thương xương mu (P): FTC, xâm nhiễm. Điều trị: Cắt giáp toàn bộ, đang điều trị Iod 131 (150mCi), GPB: FTC. Lần tái khám gần nhất: Lâm sàng ổn. TSH: 20, Tg>500, AntiTg: 19. SA: bt, XHX (+). Hình 3. Đại thể nhân giáp FTC thùy (P) Hình 4. FTC di cĕn xương ức Hình 5. FTC di cĕn xương cột sống và đầu trên xương cánh tay ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 51 Hình 6. Xạ hình xương (di cĕn xương mu P) a. b. Hình 7. Bn Bùi Thị T. (a. Hình ảnh mất tính liên tục của vỏ bao bướu, b. Hình ảnh xâm nhiễm của tế bào bướu bám và len lõi vào các vách xơ) BÀN LUẬN Sơ lược y vĕn cho thấy hầu hết bệnh nhân là giới nữ và trên 45 tuổi. FTC chiếm tỷ lệ cao hơn tại những vùng dịch tễ phình giáp cũng như những khu vực thiếu hụt iod. Trong 6 bệnh nhân chúng tôi khảo sát, nữ chiếm 75%, và bệnh nhân trên 45 tuổi chiếm 75%, điều này cũng phần nào phù hợp với y vĕn. Biểu hiện lâm sàng thường là một hạt giáp đơn độc không đau, đôi khi có những triệu chứng như đau, khó thở, nuốt nghẹn, do bướu lớn chèn ép vào khí quản, thực quản, hay thần kinh hồi thanh quản. Cả 6 trường hợp chúng tôi khảo sát đều không có những triệu chứng lâm sàng đến từ bướu giáp, mà đều là những biểu hiện đến từ cơ quan bị di cĕn xa, cụ thể như: 2 trường hợp là bệnh nhân than đau vùng cột sốt thắt lưng, kèm yếu dần và tê 2 chân một thời gian trước khi nhập viện và được chẩn đoán FTC di cĕn xương; 1 trường hợp khác thì phát hiện có sự giới hạn vận động cánh tay (T), sau đó chẩn đoán FTC di cĕn đầu trên xương cánh tay (T); trường hợp còn lại thì bệnh nhân tình cờ phát hiện khối bướu vùng trước xương ức lớn dần, sau đó cũng được chẩn đoán là do FTC di cĕn đến. Đây là điểm khác biệt rất lớn của FTC so với PTC, đó là bệnh nhân dù đã di cĕn xa nhưng tại chỗ vẫn chưa có biểu hiện lâm sàng nào rõ ràng giúp chẩn đoán bướu nguyên phát. Bernier M và cs. tổng kết 108 trường hợp di cĕn xương trong ung thư tuyến giáp biệt hóa tốt nói chung, đánh giá mô học của bướu giáp giúp chẩn đoán 77 trường hợp FTC và 19 trường hợp là PTC, 12 trường hợp còn lại có tiền cĕn cắt một phần tuyến giáp (đã thực hiện từ 1 - 42 nĕm trước thời điểm chẩn đoán di cĕn xương) nên không thể đánh giá mô học của bướu. Lin J và cs. cũng báo cáo trên 70 trường hợp FTC di cĕn phổi đã cho rằng 1 trong những lý do khiến ung thư dạng nang thường phát hiện bệnh ở giai đoạn tiến xa tại thời điểm chẩn đoán là do việc chẩn đoán sai từ ban đầu là bướu giáp lành tính trong khi bệnh nhân FTC thật sự. Tất cả những ca tổng kết của chúng tôi đều có chẩn đoán FTC từ mô di cĕn xa, trong đó có 2 trường hợp FTC được củng cố chẩn đoán dựa vào GPB của bướu giáp sau đó. FTC thường là đơn ổ và < 10% có di cĕn hạch, ưu thế di cĕn theo đường máu, đích đến thường gặp là phổi và xương. Tiên lượng xấu ở những bệnh nhân di cĕn xương hơn so với di cĕn phổi. Cả 6 trường hợp của chúng tôi đều là di cĕn xương, không có trường hợp nào có di cĕn hạch. Di cĕn xa là nguyên nhân gây tử vong chính của bệnh lý này. Ngoài di cĕn phổi (53%) và di cĕn xương (chiếm 20%), còn có những cơ quan khác cũng là đích đến của di cĕn xa trong FTC như: não, da, trung thất, gan, bàng quang và mắt. Di cĕn xương thường gặp hơn ở những bệnh nhân lớn tuổi, và lâm sàng thường biểu hiện di cĕn xương nhiều nơi hơn là một tổn thương di cĕn đơn độc. Trong nghiên cứu chúng tôi, cũng ghi nhận hiện tượng này, đơn cử là một trường hợp bệnh nhân ngoài tổn thương di cĕn đầu trên xương cánh tay (T), thì trên xạ hình xương còn ghi nhận những tổn thương xương ở vị trí khác như: tổn thương xương sọ vùng đỉnh (P), cung sau xương sườn 8,11 (T), D8, L1, L3, và xương chậu (T). FTC di cĕn xa thường có bướu nguyên phát là dạng xâm lấn mạch máu trên đại thể, còn dạng bướu xâm lấn tối thiểu (có kèm xâm lấn mạch máu vi thể) thì di cĕn xa ít hơn, chỉ 5%, và nếu như bướu xâm lấn tối thiểu đơn thuần (chỉ có xâm lấn vỏ bao bướu tối thiểu) thì di cĕn xa còn ít hơn nữa, chỉ 1%. Trong những ca của chúng tôi, tất cả bệnh nhân đều là dạng xâm lấn tối thiểu tuy nhiên tất cả đều cho di cĕn xa từ thời điểm chẩn đoán ban đầu. Đây là vấn đề nan giải, là thách thức cho những nhà lâm sàng cũng như nhà giải phẫu bệnh, vì hiện tại các phương tiện của chúng ta vẫn còn hạn chế để có thể giúp chẩn đoán bệnh sớm hơn, từ đó góp phần điều trị sớm và cải thiện tiên lượng bệnh nhân. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 52 Vai trò FNA: FTC có đặc điểm tế bào học khá tương đồng với BTDN. Vì thế FNA đơn thuần không thể giúp chẩn đoán xác định FTC (vì để chẩn đoán FTC cần phải thấy được hình ảnh xâm lấn vỏ bao bướu hay xâm lấn mạch máu). Nghiên cứu chúng tôi cũng không ngoại lệ, có 4 trường hợp FNA là tổn thương dạng nang, còn 2 trường hợp thì đọc là phình giáp, như vậy hiện tại FNA không giúp nhiều trong chẩn đoán bệnh. Vai trò cắt lạnh: Độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác của cắt lạnh thì cũng tương đương với FNA và cắt lạnh hiếm khi cung cấp thêm thông tin đối với những bệnh nhân có FNA phù hợp với tĕng sản dạng nang. Có đến 95% trường hợp tĕng sản dạng nang, cắt lạnh được thực hiện trong lúc phẫu thuật chỉ cho kết quả là “phù hợp với tĕng sản dạng nang” và chẩn đoán xác định phải chờ cho đến khi có kết quả cắt thường. Chen và cs. đã cho thấy rằng: đối với tĕng sản dạng nang thì thực hiện cắt lạnh không đem thông tin hữu ích trong 87% và không chính xác trong 5%. Trong những trường hợp của chúng tôi, có 2 trường hợp bệnh nhân được cắt lạnh, thì có 1 TH cho kết quả phù hợp FTC, còn trường hợp còn lại thì chỉ thấy hình ảnh phình giáp. Điều này cho thấy việc lấy trọn bệnh phẩm và đọc trên nhiều lát cắt qua bướu mới có thể chẩn đoán chính xác được FTC, và cắt lạnh vì áp lực thời gian nên không thể thỏa mãn tiêu chí trên. Từ những khó khĕn trên, Huang C và cs. đã chỉ ra rằng để cải thiện độ chính xác trong chẩn đoán FTC, cần tĕng số mẫu bệnh phẩm lấy được sau phẫu thuật. Cần nhấn mạnh rằng, những đặc điểm thể hiện ác tính của FTC dạng xâm lấn tối thiểu đôi khi chỉ phát hiện từ một phần nhỏ của bướu. Do đó, khuyến cáo là nên lấy trọn bệnh phẩm, đọc trên nhiều lát cắt và phải có nhà giải phẫu bệnh nhiều kinh nghiệm. Việc áp dụng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt trên vi thể là mối quan tâm hàng đầu để có thể chẩn đoán FTC dạng xâm lấn tối thiểu từ đó giúp hướng dẫn nhà lâm sàng đưa ra hướng điều trị hợp lý, tránh việc phẫu thuật quá mức và không cần thiết. Tuy nhiên, khi bệnh có di cĕn xa, điều trị bắt buộc là cắt giáp toàn bộ và diệt giáp bằng iod phóng xạ. Di cĕn xương thường ít đáp ứng với iod phóng xạ hơn, và có tiên lượng xấu hơn di cĕn phổi. Vì thế, nếu được nên phẫu thuật để lấy bỏ khối di cĕn, điều này đã được chứng minh là đem đến kết cuộc tốt hơn nhiều, đặc biệt là đối với những bệnh nhân còn trẻ tuổi. Những bệnh nhân di cĕn thân đốt sống và có những triêu chứng thần kinh do xẹp đốt sống hoặc do bướu chèn ép là những người phù hợp cần phải được cố định cột sống với phẫu thuật lấy bướu và định hình cột sống qua da. Cả 6 trường hợp chúng tôi cũng thực hiện đúng những điều trên, và hiện tại bệnh đáp ứng một phần và vẫn đang được tiếp tục theo dõi. Shaha và cs. báo cáo tỷ lệ sống còn toàn bộ tại thời điểm 5, 10, và 20 nĕm đối với FTC tính chung lần lượt là 85%, 80%, và 76%. Nhóm bệnh nhân của chúng tôi hiện tại tất cả vẫn còn sống và vẫn được tiếp tục theo dõi, chúng ta cần có thêm thời gian theo dõi lâu hơn để đánh giá được tiên lượng và tái phát của bệnh nhân chính xác hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Arslan S, Arslan E. Scalp metastases from thyroid carcinomas: review of clinical and pathological features. J Med Updates. 2014;4(2): 71 - 76. 2. Sevinc A, Buyukberber S, Sari R, Baysal T, Mizrak B. Follicular thyroid cancer presentng initally with sof tssue metastasis. Jpn J Clin Oncol. 2000; 30(1): 27 - 29. 3. Simoes MS, Asa SL, Kroll TJ, et al. Follicular carcinoma. In: DeLellis RA, Lloyd RV, Heitz PV, Eng C, eds. World Health Organizaton Classifcaton of Tumors. Pathology and genetcs of tumours of endocrine organs. Lyon: IARC Press; 2004: 67 - 72. 4. Rosai J, Carcangiu ML, DeLellis RA. Follicular carcinoma. In: Rosai J, Carcangiu ML, DeLellis RA, eds. Tumors of the thyroid gland. 3rd series. Washington, DC: Armed Forces Insttute of Pathology; 1992: 49 -64. 5. Schneider DF, Chen H. New developments in the diagnosis and treatment of thyroid cancer. CA Cancer J Clin. 2013; 63(6): 374 - 394.
File đính kèm:
di_can_xa_trong_carcinom_tuyen_giap_dang_nang.pdf