Đề xuất sửa đổi một số quy định về sở hữu rừng trong dự thảo luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi)

TÓM TẮT

Quyền sở hữu là một trong những khái niệm cơ bản, cốt lõi của các chế định về tài sản. Tùy theo mỗi quốc gia

mà pháp luật cho phép chủ sở hữu được thực hiện các hành vi nhất định đối với tài sản theo ý chí của mình. Dự

thảo Luật Bảo vệ và phát triển rừng đã có những sửa đổi nhất định liên quan đến quy định về sở hữu rừng. Tuy

nhiên, về quyền sở hữu rừng trong Dự thảo vẫn còn có những điểm bất cập, chưa thực sự phù hợp với chế định

về quyền sở hữu trong Hiến pháp cũng như trong các văn bản luật có liên quan. Bên cạnh đó, việc chỉ rõ những

điểm tồn tại và tích cực của quy định về quyền sở hữu trong dự thảo Luật Bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi là

phân tích cơ sở khoa học của sở hữu rừng đáp ứng cho việc ban hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi)

thay thế Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004. Vì vậy, việc nghiên cứu chỉ ra những điểm bất cập trong các

quy định về chủ rừng và sở hữu rừng trong Dự thảo Luật bảo vệ và phát triển rừng là có ý nghĩa hết sức quan

trọng.

Từ khóa: Bảo vệ và phát triển rừng, quyền sở hữu, quyền sở hữu rừng.

pdf 6 trang phuongnguyen 640
Bạn đang xem tài liệu "Đề xuất sửa đổi một số quy định về sở hữu rừng trong dự thảo luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất sửa đổi một số quy định về sở hữu rừng trong dự thảo luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi)

Đề xuất sửa đổi một số quy định về sở hữu rừng trong dự thảo luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi)
Kinh tế & Chính sách 
 181TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ SỞ HỮU RỪNG 
TRONG DỰ THẢO LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG (SỬA ĐỔI)1 
Nguyễn Thị Tiến1, Võ Mai Anh2, Nguyễn Thị Ngọc Bích3, 
Vũ Ngọc Chuẩn4, Nguyễn Thu Trang5 
1,2,3,4,5Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Quyền sở hữu là một trong những khái niệm cơ bản, cốt lõi của các chế định về tài sản. Tùy theo mỗi quốc gia 
mà pháp luật cho phép chủ sở hữu được thực hiện các hành vi nhất định đối với tài sản theo ý chí của mình. Dự 
thảo Luật Bảo vệ và phát triển rừng đã có những sửa đổi nhất định liên quan đến quy định về sở hữu rừng. Tuy 
nhiên, về quyền sở hữu rừng trong Dự thảo vẫn còn có những điểm bất cập, chưa thực sự phù hợp với chế định 
về quyền sở hữu trong Hiến pháp cũng như trong các văn bản luật có liên quan. Bên cạnh đó, việc chỉ rõ những 
điểm tồn tại và tích cực của quy định về quyền sở hữu trong dự thảo Luật Bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi là 
phân tích cơ sở khoa học của sở hữu rừng đáp ứng cho việc ban hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi) 
thay thế Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004. Vì vậy, việc nghiên cứu chỉ ra những điểm bất cập trong các 
quy định về chủ rừng và sở hữu rừng trong Dự thảo Luật bảo vệ và phát triển rừng là có ý nghĩa hết sức quan 
trọng. 
Từ khóa: Bảo vệ và phát triển rừng, quyền sở hữu, quyền sở hữu rừng. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Luật Bảo vệ và phát triển rừng (BV&PTR) 
2004 ra đời, cùng với các chính sách của Đảng, 
Nhà nước đối với công tác lâm nghiệp đã làm 
chuyển biến sâu sắc nhận thức của các cấp ủy 
Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân đối 
với công tác bảo vệ và phát triển rừng, làm thức 
dậy một tiềm năng to lớn từ việc sản xuất, kinh 
doanh nghề rừng. Do vậy, trong những năm qua 
cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế thì 
tỷ trọng đóng góp của nghề rừng vào GDP đã 
tăng đáng kể, cơ sở hạ tầng được đầu tư nhiều 
hơn, đời sống của nhân dân miền núi đã được 
cải thiện tốt hơn. Tuy nhiên, trong quá trình 
triển khai thực hiện các quy định về quyền sở 
hữu rừng trong Luật BV&PTR 2004 cũng vẫn 
còn có những điểm bất cập, hạn chế nhất định. 
Dự thảo Luật BV&PTR đã được rất nhiều các 
chuyên gia góp ý, đánh giá. Một trong những 
nội dung được rất nhiều chuyên gia, nhà khoa 
học quan tâm góp ý đó chính là quy định về 
quyền sở hữu rừng. Tuy nhiên, chế định này 
trong văn bản dự thảo Luật BV&PTR mới vẫn 
1 Dự thảo 6 (xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội) 
còn có một vài điểm mâu thuẫn, chưa phù hợp 
với các văn bản Luật khác có liên quan. Vì vậy, 
để hoàn thiện hơn nữa Luật BV&PTR, góp 
phần phục vụ cho việc sửa đổi Luật BV&PTR, 
chúng tôi có đưa ra một số góp ý với mong 
muốn góp phần hoàn thiện văn bản Luật 
BV&PTR mới. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Nội dung nghiên cứu 
- Làm rõ quy định về các hình thức sở hữu 
rừng trong Dự thảo Luật Bảo vệ và phát triển 
rừng. 
- Chỉ ra những điểm bất cập về sở hữu rừng 
trong quy định của Dự thảo Luật Bảo vệ và 
phát triển rừng với các quy định về chế độ sở 
hữu. 
- Đề xuất sửa đổi quy định về sở hữu rừng 
trong Dự thảo Luật Bảo vệ và phát triển rừng. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp: Thu 
thập các quy định có liên quan về sở hữu rừng, 
chế độ sở hữu trong các văn bản Luật. 
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được 
dùng để phân tích, tổng hợp các thông tin thu 
Kinh tế & Chính sách 
 182 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
thập được nhằm đưa ra những nhận định, đánh 
giá, chỉ ra những điểm hạn chế, mâu thuẫn, 
những điểm tích cực trong quy định về sở hữu 
rừng tại Dự thảo Luật Bảo vệ và phát triển 
rừng để từ đó đề xuất sửa đổi quy định này. 
III. KÊT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Cơ sở khoa học và luật pháp cho việc 
xác định sở hữu rừng 
Đây là một trong những chế định có ý nghĩa 
quan trọng đối với công tác quản lý, bảo vệ và 
phát triển rừng. Quy định này được coi là gốc 
của vấn đề. Vì vậy, đã có rất nhiều các chuyên 
gia, các nhà nghiên cứu trong quá trình đánh 
giá Luật BV&PTR 2004 đã chỉ ra những bất 
cập, hạn chế của chế định về quyền sở hữu đối 
với rừng. Tuy nhiên, trong Luật BV&PTR 
2004 thì không có một quy định riêng về các 
hình thức sở hữu rừng mà chỉ đưa ra khái niệm 
sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng trong Điều 
3. Để khắc phục những thiếu sót này, hiện tại, 
Dự thảo Luật BV&PTR mới đã có riêng một 
điều về các hình thức sở hữu rừng. Theo đó, 
Dự thảo quy định như sau: 
“Điều 7. Sở hữu rừng2 
1. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với 
rừng thuộc sở hữu toàn dân, bao gồm: 
a) Rừng tự nhiên; 
b) Rừng trồng do Nhà nước đầu tư; 
c) Rừng do Nhà nước thu hồi, được tặng 
cho hoặc các hình thức khác theo quy định của 
pháp luật. 
2. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng 
dân cư sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, 
bao gồm: 
a) Rừng do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, 
cộng đồng dân cư tự đầu tư; 
b) Rừng được nhận chuyển nhượng, tặng cho, 
2 Dự thảo 6 (xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội) 
nhận thừa kế rừng từ chủ rừng khác theo quy 
định của pháp luật”. 
Như vậy, theo quy định trên có hai hình 
thức sở hữu rừng đó là sở hữu toàn dân và sở 
hữu của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Việc 
quy định hai hình thức sở hữu rừng như trên đã 
có tiến bộ đáng kể so với quy định về hình 
thức sở hữu rừng tại Luật Bảo vệ và phát triển 
rừng năm 2004. Về hình thức sở hữu toàn dân 
thì nhà nước công nhận quyền sở hữu đối với 
rừng tự nhiên và rừng trồng bằng nguồn vốn 
nhà nước. Còn rừng do tổ chức cá nhân bỏ vốn 
trồng rừng không phân biệt rừng đặc dụng, 
phòng hộ hay rừng sản xuất thì được công 
nhận quyền sở hữu. Đây được coi là một chế 
định tương đối tiến bộ hơn so với Luật Bảo vệ 
và phát triển rừng 2004 khi Luật này chỉ quy 
định quyền sở hữu đối với rừng sản xuất là 
rừng trồng. 
Về chế độ sở hữu đối với rừng tự nhiên, Dự 
thảo quy định toàn bộ diện tích rừng tự nhiên 
hiện nay thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước 
đại diện chủ sở hữu. Tuy nhiên, việc tuyệt đối 
hóa “tất cả rừng tự nhiên” ở Việt Nam đều 
thuộc sở hữu toàn dân, ở một số khía cạnh, sẽ 
không phù hợp với thực tế hiện nay, và rất có 
thể sẽ dẫn đến tình trạng xung đột trong quản 
lý sử dụng rừng một cách gay gắt hơn, giống 
với hiện trạng trong lĩnh vực đất đai hiện tại. 
Việc diễn giải “rừng là của chung” rất dễ dẫn 
đến tình trạng các chủ thể, bao gồm cả tổ chức 
Nhà nước, doanh nghiệp hay người dân, tìm 
cách khai thác rừng “của Nhà nước” để tư lợi; 
hệ quả là làm triệt tiêu động lực bảo vệ rừng 
của các chủ thể tích cực và làm giảm hiệu quả, 
chất lượng công tác quản lý, bảo vệ rừng nói 
chung. Khi chính sách cấm khai thác gỗ 
thương mại rừng tự nhiên và chủ trương đóng 
cửa rừng tự nhiên do Chính phủ chỉ đạo vẫn 
Kinh tế & Chính sách 
 183TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
còn hiệu lực đã vô hình chung khóa chặt cơ hội 
được hưởng lợi từ rừng tự nhiên của các chủ 
thể nhận giao rừng. Nói cách khác, “chủ rừng” 
đối với rừng tự nhiên, đặc biệt đối với chủ rừng 
hộ gia đình, cộng đồng, chỉ là một “hư quyền” 
mà không phải là thực quyền cho chủ rừng. 
Quyền sở hữu rừng tự nhiên, xét trên cả 2 
tiêu chí: diện tích và giá trị rừng, ở thời điểm 
hiện nay, khi chính sách giao đất giao rừng cho 
hộ gia đình, cá nhân đã được thực hiện vài 
chục năm với hàng triệu ha rừng tự nhiên và 
đất trống đồi trọc đã được giao và Nhà nước đã 
thực hiện nhiều dự án trợ giúp cho dân bảo vệ 
phát triển rừng thì không thể ghi vào dự thảo 
Luật BV&PTR là Nhà nước sở hữu rừng tự 
nhiên một các chung chung như vậy, cần thừa 
nhận quyền sở hữu khác về rừng tự nhiên: sở 
hữu cá thể, cộng đồng, tư nhân và chế độ đồng 
sở hữu (nhà nước - tư nhân). 
Do đó, Nhà nước cần công nhận quyền sở 
hữu khác về rừng tự nhiên: sở hữu cá thể, cộng 
đồng, tư nhân và chế độ đồng sở hữu (nhà 
nước và tư nhân). Bởi lẽ, chất lượng rừng biến 
đổi theo thời gian phụ thuộc vào quá trình tái 
sinh tự nhiên và xúc tiến tái sinh do các chủ 
rừng đầu tư. Do đó, không phải ở mọi thời 
điểm sở hữu rừng tự nhiên (xét theo chỉ tiêu 
chất lượng, giá trị rừng) đều thuộc sở hữu Nhà 
nước. Quyền sở hữu Nhà nước với rừng chỉ 
nên xác lập ở lọai rừng đặc dụng và phòng hộ 
(khu phòng hộ tập trung) và một ít rừng tự 
nhiên sản xuất tập trung (những công ty lâm 
nghiệp quốc doanh có quy mô lớn), còn lại nên 
chuyển đổi thành các loại sở hữu khác với 
phương thức thích hợp. 
Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013 quy định 
“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng 
sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài 
nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà 
nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở 
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu 
và thống nhất quản lý”3. Rừng tự nhiên, theo 
Hiến pháp, có thể được định nghĩa là một loại 
tài sản. Tuy nhiên, Dự thảo Luật BV&PTR lại 
chỉ đang định nghĩa “Rừng là hệ sinh thái bao 
gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi 
sinh vật rừng, và các yếu tố khác, trong đó 
thành phần chính là cây gỗ, tre, nứa, họ dừa 
với chiều cao trên 5 mét đối với hệ thực vật núi 
đất hoặc trên 2 mét đối với các hệ thực vật 
khác đạt độ dài che từ 0,1 trở lên; diện tích 
liền vùng từ 0,5 ha trở lên”4. Định nghĩa này 
mới chỉ đề cập đến khía cạnh sinh thái, sinh 
học mà chưa bao quát hết vai trò, ý nghĩa và 
giá trị của rừng xét trên các phương diện kinh 
tế và xã hội. Vì vậy, Dự thảo cần bổ sung định 
nghĩa rõ ràng hơn về rừng theo hướng rừng là 
một loại tài sản. Quy định này sẽ giúp định 
hình các quy định về chế độ sở hữu, quyền 
cũng như nghĩa vụ của các chủ thể liên quan 
đến rừng một cách xuyên suốt và thống nhất. 
3.2. Thực tiễn của sở hữu rừng tại Việt Nam 
và những vấn đề đang đặt ra 
Theo số liệu công bố5 tính đến ngày 
31/12/2016, diện tích rừng hiện có 14.377.682 
ha. Trong đó, rừng tự nhiên 10.242.141 ha; 
rừng trồng 4.135.541 ha. Diện tích rừng đủ tiêu 
chuẩn để tính độ che phủ toàn quốc là 
13.631.934 ha, độ che phủ tương ứng là 
41,19%. Trog tổng số 8.839.154 ha rừng gỗ thì 
có tới 588.150 ha rừng nghèo kiệt. Với con số 
này thì việc xác định chế độ sở hữu cũng như 
cơ chế khai thác sử dụng là hết sức khó khăn. 
Trong khi đó, Hiến pháp 2013 quy định 
“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng 
sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên 
3 Điều 53, Hiến pháp 2013 
4Khoản 2, Điều 3 - Giải thích từ ngữ 
5Quyết định số 1819/QĐ-BNN-TCLN ngày 16/5/2017 
về công bố hiện trạng rừng toàn quốc. 
Kinh tế & Chính sách 
 184 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước 
đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu 
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và 
thống nhất quản lý”6. Như vậy, tất cả các 
nguồn tài nguyên đều thuộc sở hữu toàn dân do 
nhà nước thống nhất quản lý. Trong Luật Đất 
đai 2013, ghi: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân 
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” (điều 5); 
Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với 
đất đai, trao quyền sử dụng đất cho người sử 
dụng đất và điều tiết các nguồn lợi từ đất đai. 
Theo Hiến pháp quy định thì rừng tự nhiên 
cũng thuộc sở hữu toàn dân và trong dự thảo 
Luật BV&PTR, tại Khoản 1 Điều 7 ghi “Nhà 
nước sở hữu rừng tự nhiên”. Nhưng theo 
chúng tôi, tuy cùng là tài nguyên thiên nhiên 
song tài nguyên rừng tự nhiên có những đặc 
điểm khác với tài nguyên đất đai và do đó 
quyền sở hữu rừng của Nhà nước đối với đất 
đai có khác với rừng tự nhiên. Đặc điểm khác 
biệt cơ bản của rừng tự nhiên và đất đai là: 
rừng tự nhiên là tài nguyên tái tạo được, được 
bảo vệ & phát triển sẽ sinh sôi nẩy nở cả về 
diện tích, chất lượng và giá trị rừng; có đất đai 
là tài nguyên không tái tạo được. Rừng luôn 
gắn với đất đai không thể tách rời. Chu kỳ sinh 
trưởng của cây rừng tự nhiên rất dài; chu kỳ 
sản xuất của rừng tự nhiên thường từ 25 - 30 
năm (khai thác chọn theo phương án điều chế 
rừng). Quá trình tái sản xuất trong kinh doanh 
rừng tự nhiên vừa là quá trình tái sản xuất tự 
nhiên và quá trình tái sản xuất kinh tế, khi áp 
dụng phương thức thâm canh rừng thì quá trình 
tái sản xuất kinh tế ngày càng có vai trò quan 
trọng. Tiêu chí đo lường rừng tự nhiên khác với 
đất đai: tiêu chí đo lường đất đai thông thường 
là diện tích, tính bằng m2, ha Nhưng đối với 
6 Điều 53, Hiến pháp 2013 
rừng tự nhiên, tiêu chí diện tích là không đủ, 
đồng thời với diện tích là tiêu chí chất lượng 
rừng. Thông thường hiện nay mới dùng trữ 
lượng gỗ m3/ha, là chưa đủ, vì cùng một trữ 
lượng nhưng tổ thành loài cây khác nhau rừng 
có giá trị rất khác nhau. Đối với rừng tự nhiên 
sản xuất, tiêu chí chất lượng rừng là cực kỳ 
quan trọng, nó là yếu tố quan trọng nhất để 
quyết định giá rừng cao hay thấp (tính trên ha). 
Rừng tự nhiên có giá trị về môi trường sinh 
thái, đa dạng sinh học và cả kinh tế, gấp nhiều 
lần rừng trồng. Ở nước ta chưa có nghiên cứu 
tính giá trị môi trường bằng tiền, nhưng ở các 
nước phát triển cho thấy giá trị môi trường 
chiếm trên 90% tổng giá trị của rừng (giá trị 
lâm sản hàng hóa chỉ chiếm 4 - 5%). Giá trị 
môi trường của rừng là giá trị phi hàng hóa, 
hiện nay tòan xã hội đang sử dụng mà không 
phải trả phí. Tuy giá trị lâm sản hàng hóa của 
rừng tự nhiên nhỏ so với tổng giá trị của rừng, 
nhưng đối với nền kinh tế địa phương ở vùng 
còn rừng, rừng tự nhiên vẫn là một nguồn lực 
đáng kể cho phát triển, đặc biệt là đối với miền 
núi. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số 
còn gắn bó nhiều với rừng tự nhiên, nhất là 
lâm sản ngoài gỗ. Như vậy, việc xác định chế 
độ sở hữu đối với rừng tự nhiên trong dự thảo 
cần làm rõ vấn đề này. 
Hình thức sở hữu theo quy định của Bộ luật 
dân sự: theo quy định tại Mục 2 Chương XIII 
có quy định hình thức sở hữu như sau: Trên cơ 
sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở 
hữu tư nhân, các hình thức sở hữu bao gồm sở 
hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, 
sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ 
chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức 
chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, 
tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Như vậy, ngoài 
Kinh tế & Chính sách 
 185TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
hình hai hình thức sở hữu như dự thảo Luật 
BV&PTR quy định thì còn có rất nhiều các 
hình thức sở hữu khác. Vì vậy, việc chỉ quy 
định có hai hình thức sở hữu như trong Dự 
thảo Luật Bảo vệ và phát triển rừng là chưa 
thực sự phù hợp với các hình thức sở hữu trong 
Bộ luật Dân sự. Điều này sẽ khiến cho quá 
trình thực thi pháp luật trong thực tiễn sẽ hết 
sức khó khăn vì có sự thiếu thống nhất về một 
quy định trong các văn bản pháp luật. Do đó, 
việc bổ sung thêm các hình thức sở hữu rừng là 
yêu cầu thiết yếu của Dự thảo luật này. 
3.3. Một số ý kiến đề xuất góp ý quy định về 
sở hữu rừng trong dự thảo Luật (kiến nghị 
sửa trực tiếp vào Điều 7 trong Dự thảo 
Luật) 
Sở hữu rừng là một vấn đề quan trọng, nó sẽ 
là căn cứ pháp lý, là gốc để quy định các vấn 
đề khác có liên quan như chế độ khai thác, chế 
độ quản lý, bảo vệ, cơ chế hưởng lợi. Do đó, 
việc sửa đổi quy định này là hết sức cần thiết 
và cần phải đi theo các hướng sửa đổi sau: 
Quyền sở hữu Nhà nước với rừng chỉ nên 
xác lập ở loại rừng đặc dụng và phòng hộ (khu 
phòng hộ tập trung) và một ít rừng tự nhiên sản 
xuất tập trung (những công ty lâm nghiệp quốc 
doanh có quy mô lớn), còn lại nên chuyển đổi 
thành các loại sở hữu khác với phương thức 
thích hợp. 
Phân biệt rõ các loại hình sở hữu đối với 
rừng (xác định giá trị tài sản đối với rừng): 
khác với đất đai, rừng có thể là sở hữu toàn 
dân, có thể là sở hữu chung, sở hữu riêng. 
 Quy định chi tiết các loại hình sở hữu đối 
với rừng, cụ thể: Quyền sở hữu toàn dân do 
Nhà nước đại diện chủ sở hữu với rừng chỉ nên 
xác lập ở loại rừng tự nhiên nguyên sinh, rừng 
tự nhiên thứ sinh, rừng phục hồi tự nhiên hoặc 
rừng tự nhiên phục hồi, rừng trồng bằng nguồn 
đầu tư của Nhà nước. Đối với rừng sản xuất có 
thể đa dạng hóa về hình thức sở hữu; trong đó 
có quy định sở hữu riêng và sở hữu chung đối 
với diện tích rừng kinh tế (cả tự nhiên, rừng 
trồng) hình thành do tổ chức hoặc người dân tự 
đầu tư, bảo vệ và khoanh nuôi, phục hồi và làm 
giầu rừng. Quy định sở hữu cộng đồng đối với 
các loại rừng kinh tế được giao cho cộng đồng 
và do cộng đồng đầu tư hình thành vốn rừng. 
 Dự thảo cần bổ sung định nghĩa rõ ràng 
hơn về rừng theo hướng rừng là một loại tài 
sản. Quy định này sẽ giúp định hình các quy 
định về chế độ sở hữu, quyền cũng như nghĩa 
vụ của các chủ thể liên quan đến rừng một 
cách xuyên suốt và thống nhất. 
IV. KẾT LUẬN 
Trước tình hình suy thoái tài nguyên rừng 
hiện nay, Nhà nước luôn không ngừng hoàn 
hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, đặc 
biệt là việc sửa đổi Luật Bảo vệ và phát triển 
rừng 2004 với nhiều điểm mới sửa đổi, bổ 
sung chắc chắn sẽ mang đến những tác động 
tích cực cho việc bảo vệ tài nguyên rừng. Đối 
với mỗi cá nhân, tổ chức việc hiểu rõ về quyền 
sở hữu rừng giúp chúng ta nghiêm chỉnh chấp 
hành pháp luật và nâng cao ý thức hành động 
về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nhằm 
bảo vệ có hiệu quả môi trường sống của con 
người. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cục Kiểm lâm (2015). Báo cáo tổng kết đánh giá 
tình hình thực hiện Luật BV&PTR. 
2. Quốc Hội (2004). Luật bảo vệ và phát triển rừng. 
3. Quốc hội. Dự thảo Luật Bảo vệ và phát triển rừng. 
4. Quốc Hội (2013). Hiến Pháp 2013. 
5. Quốc Hội (2013). Luật Đất đai. 
Kinh tế & Chính sách 
 186 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
RECOMMENDATIONS FOR AMENDMENTS TO A NUMBER OF 
PROVISIONS ON FOREST OWNERSHIP IN THE DRAFT LAW ON 
FOREST PROTECTION AND FOREST DEVELOPMENT (AMENDED) 
Nguyen Thi Tien1, Vo Mai Anh2, Nguyen Thi Ngoc Bich3, 
Vu Ngoc Chuan4, Nguyen Thu Trang5 
1,2,3,4,5Vietnam National University of Forestry 
SUMMARY 
Ownership right is one of the basic and core concepts of property regulations. Depending on the country where 
the law allows the owner to perform certain acts on the property according to its will. The Draft Law on Forest 
Protection and Development (amended) has made certain amendments related to the forest ownership 
regulations. However, forest ownership in the Draft still has some shortcomings, not really in line with the right 
of ownership in the Constitution as well as in related laws. In addition, the identification of the existing and 
positive aspects of ownership provisions in the Draft Law of Forest Protection and Development has not 
analyzed the scientific basis of forest ownership in response to the promulgation of the Law on Forest 
Protection and Development (amended) replaced the Law on Forest Protection and Development in 2004. 
Therefore, the paper is to point out the inadequacies in the regulations on forest owners and forest owners in the 
Draft Law on Forest Protection and Development, so it is very essential. 
Keywords: Forest protection and development, forest ownership, ownership interest. 
Ngày nhận bài : 28/8/2017 
Ngày phản biện : 16/9/2017 
Ngày quyết định đăng : 28/9/2017 

File đính kèm:

  • pdfde_xuat_sua_doi_mot_so_quy_dinh_ve_so_huu_rung_trong_du_thao.pdf