Đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay
Đặt vấn đề: Tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay khác nhau tùy theo các nghiên cứu.
Đau thần kinh có liên quan đến mức độ đau nhưng mối liên quan của nó với mức độ nặng lâm sàng và chẩn
đoán điện vẫn chưa có sự thống nhất.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay. Khảo sát mối liên quan giữa
các yếu tố nhân khẩu học, lâm sàng, mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh. Khảo sát sự tương
quan giữa điểm đau thần kinh DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston.
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 66 bệnh nhân với 112 bàn tay mắc hội chứng
ống cổ tay tại Phòng khám Quốc tế Exson từ tháng 1 cho đến hết tháng 4 năm 2020. Khảo sát đau thần kinh
bằng thang điểm DN4.
Kết quả: Tỉ lệ đau thần kinh là 40,9%. Không có mối liên quan giữa: tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, BMI,
bên, thời gian mắc hội chứng ống cổ tay với đau thần kinh. Hội chứng ống cổ tay hai bên có tỉ lệ đau thần kinh
cao hơn một bên. Tỉ lệ test Tinel (+), Phalen (+), điểm đau VAS và điểm Boston ở nhóm bàn tay có đau thần kinh
cao hơn nhóm không có đau thần kinh. Có sự khác biệt về mức độ nặng chẩn đoán điện giữa hai nhóm. Có sự
tương quan giữa điểm DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston.
Kết luận: Thang điểm DN4 có thể là một công cụ hữu ích trong đánh giá đau thần kinh ở bệnh nhân mắc
hội chứng ống cổ tay.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 13 ĐAU THẦN KINH Ở BỆNH NHÂN MẮC HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY Nguyễn Văn Ca1, Vũ Anh Nhị2, Nguyễn Lê Trung Hiếu2,3 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay khác nhau tùy theo các nghiên cứu. Đau thần kinh có liên quan đến mức độ đau nhưng mối liên quan của nó với mức độ nặng lâm sàng và chẩn đoán điện vẫn chưa có sự thống nhất. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay. Khảo sát mối liên quan giữa các yếu tố nhân khẩu học, lâm sàng, mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh. Khảo sát sự tương quan giữa điểm đau thần kinh DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston. Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 66 bệnh nhân với 112 bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay tại Phòng khám Quốc tế Exson từ tháng 1 cho đến hết tháng 4 năm 2020. Khảo sát đau thần kinh bằng thang điểm DN4. Kết quả: Tỉ lệ đau thần kinh là 40,9%. Không có mối liên quan giữa: tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, BMI, bên, thời gian mắc hội chứng ống cổ tay với đau thần kinh. Hội chứng ống cổ tay hai bên có tỉ lệ đau thần kinh cao hơn một bên. Tỉ lệ test Tinel (+), Phalen (+), điểm đau VAS và điểm Boston ở nhóm bàn tay có đau thần kinh cao hơn nhóm không có đau thần kinh. Có sự khác biệt về mức độ nặng chẩn đoán điện giữa hai nhóm. Có sự tương quan giữa điểm DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston. Kết luận: Thang điểm DN4 có thể là một công cụ hữu ích trong đánh giá đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay. Từ khóa: đau thần kinh, hội chứng ống cổ tay ABSTRACT NEUROPATHIC PAIN IN PATIENTS WITH CARPAL TUNNEL SYNDROME Nguyen Van Ca, Vu Anh Nhi, Nguyen Le Trung Hieu * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 13 - 19 Background: The incidence of neuropathic pain in patients with carpal tunnel syndrome according to studies varies widely. Neuropathic pain is associated with pain severity but its association with clinical and electrodiagnostic severity remain unconsensus. Objectives: To determine the incidence of neuropathic pain in patients with carpal tunnel syndrome, investigate association of neuropathic pain with demographic factors, clinical characteristics and electrodiagnostic severity. To investigate correlation between DN4 score with VAS and Boston scores. Methods: Descriptive study of 66 patients with 112 hands with carpal tunnel syndrome at Exson international clinic from January to April 2020. Valuation of neuropathic pain by DN4 scale. Results: Neuropathic pain accounted for 40.9%. There was no relationship between: age, sex, height, weight, BMI, lateral, duration of carpal tunnel syndrome with neuropathic pain. Patients with bilateral carpal tunnel syndrome had a significantly higher incidence of neuropathic pain than unilateral. The rate of Tinel (+), Phalen (+), VAS score and Boston scores in the hand group with neuropathic pain was higher than in the group without 1Phòng khám Quốc tế Exson 2Bộ môn Thần kinh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 3Khoa Thần kinh, BV Nhi Đồng 2 Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Văn Ca ĐT: 0396913681 Email: [email protected] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 14 neuropathic pain. There was a significant difference in the electrodiagnostic severity between the two groups. There was a significantly correlation between DN4 score with VAS score and Boston score. Conclusion: The DN4 score may be a useful tool in assessing neuropathic pain in patients with carpal tunnel syndrome. Key words: neuropathic pain, carpal tunnel syndrome ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Dieleman (IASP, 2008) có đến 54,5% bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay có đau thần kinh nhưng không được điều trị trong vòng 6 tháng kể từ khi được chẩn đoán(1). Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay dao động từ 54,2 – 93%, tỉ lệ này tính theo bàn tay từ 30,8 – 73,46%(2,3,4,5). Mối liên quan giữa nhân khẩu học, mức độ đau với đau thần kinh đã có sự thống nhất, tuy nhiên mối liên quan giữa mức độ nặng lâm sàng và chẩn đoán điện với đau thần kinh vẫn chưa thống nhất giữa các nghiên cứu(6,7,8). Các thang điểm đau thần kinh đã được sử dụng trong đánh hội chứng ống cổ tay, tuy nhiên sự tương quan giữa chúng với điểm mức độ đau và điểm mức độ nặng lâm sàng vẫn chưa được làm sáng tỏ. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay” với các mục tiêu sau: - Xác định tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay. - Khảo sát mối liên quan giữa các yếu tố nhân khẩu học, lâm sàng, mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh. - Khảo sát sự tương quan giữa điểm đau thần kinh DN4 với điểm mức độ đau VAS và điểm mức độ nặng lâm sàng Boston. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân (BN) từ 18 tuổi trở lên đến khám tại Phòng khám Quốc tế Exson trong thời gian từ tháng 01 đến hết tháng 4 năm 2020. Tiêu chuẩn chọn Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên. - Chẩn đoán lâm sàng hội chứng ống cổ tay theo tiêu chuẩn của Viện Thần kinh học Hoa Kỳ (AAN, 1993)(9). - Xác nhận chẩn đoán hội chứng ống cổ tay trên test chẩn đoán điện theo khuyến cáo thực hành của Hội Thần kinh cơ và chẩn đoán điện y khoa Hoa Kỳ (AANEM, 2011)(10). - Đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ Phát hiện bất thường của thần kinh giữa đoạn ngoài ống cổ tay trên chẩn đoán điện. Phát hiện bệnh của dây thần kinh ngoại biên khác ở chi trên hoặc bệnh đa dây thần kinh ghi nhận trên chẩn đoán điện. Phát hiện các tình trạng rối loạn hoặc bệnh lí của hệ thống thần kinh cảm giác trung ương trên lâm sàng. Không hoàn tất các phần cần thiết cho nghiên cứu. Phát hiện các bệnh lí đi kèm cần ưu tiên xử trí trong quá trình lấy số liệu. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu n ≥ (1,96/m)2 x p (1 – p) Với tỉ lệ đau thần kinh được xác định bởi DN4 dao động trong khoảng từ 76,7 – 93%(9,11), chọn p=0,8; m=0,1; cỡ mẫu tối thiểu là 62 bệnh nhân. Tỉ lệ đau thần kinh tính theo bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay dao động trong khoảng từ 30,8 – 73,46%(2,3,6,7) tính được cỡ mẫu tối thiểu là 81 bàn tay. Phương pháp thực hiện Đau thần kinh được đánh giá bởi thang điểm DN4. Bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay có đau thần kinh khi điểm DN4 ≥4. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 15 Mức độ đau gây ra do hội chứng ống cổ tay được đánh giá bởi thang điểm đau VAS. Mức độ nặng của hội chứng ống cổ tay trên lâm sàng được đánh giá bởi thang điểm Boston bao gồm mức độ nặng triệu chứng (Boston-SSS) và mức độ nặng chức năng (Boston-FSS). Xử lí và phân tích số liệu Trên phần mềm SPSS 20. Y đức Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 760/ HĐĐĐ, ngày 12/12/2019. KẾT QUẢ Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Trong 66 bệnh nhân có 17 nam (25,8%) và 49 nữ (74,2%), tỉ lệ nữ:nam xấp xỉ 3:1, 46 bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay hai bên (69,7%). Tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là 54,27 ± 10,02 (33 – 77), chiều cao 157,12 ± 7,78 (140 – 175), cân nặng 59,12 ± 8,83 (41 – 82), BMI 23,86 ± 2,35 (18,14 – 30,43). Trong 112 bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay có 52 bàn tay trái (46,4%) và 60 bàn tay phải (53,6%). Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán điện của 112 bàn tay trong nghiên cứu được trình bày trong Bảng 1. Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán điện đối tượng nghiên cứu (n = 112 (bàn tay)) Thời gian mắc hội chứng ống cổ tay 22,53 ± 15,708 (1 – 72), trung vị 20 Tinel (+) Phalen (+) 58,9% 67,9% VAS hiện tại VAS tệ nhất trong 4 tuần qua 3,04 ± 1,57 (0 – 6) 4,56 ± 1,56 (1 – 8) Boston-SSS Boston-FSS 2,20 ± 0,77 (1,18 – 4,00), trung vị 2 1,77 ± 0,74 (1,00 – 3,75), trung vị 1,5 DN4 3,14 ± 1,58 (0 – 7), trung vị 3 Phân độ chẩn đoán điện Nhẹ Trung bình Nặng 44,6% 42,9% 12,5% Tỉ lệ đau thần kinh Trong 66 bệnh nhân có 27 bệnh nhân có ít nhất một bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay có điểm DN4 ≥4, tương ứng với tỉ lệ đau thần kinh 40,9%. Trong 112 bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay có 38 bàn tay có điểm DN4 ≥4, tương ứng với tỉ lệ đau thần kinh là 33,9%. Mối liên quan giữa nhân khẩu học, lâm sàng và mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh Không có mối liên quan giữa tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, BMI, bên (phải và trái) với đau thần kinh. Tỉ lệ đau thần kinh ở nhóm bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay hai bên cao hơn có ý nghĩ so với nhóm bệnh nhân chỉ mắc hội chứng ống cổ tay một bên (p=0,023). Về lâm sàng, không có mối liên quan giữa thời gian mắc hội chứng ống cổ tay với đau thần kinh (p=0,547). Tỉ lệ test Tinel và Phalen (+) ở nhóm bàn tay có đau thần kinh cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không có đau thần kinh (p <0,001). Điểm đau VAS hiện tại và tệ nhất trong 4 tuần qua ở nhóm bàn tay có đau thần kinh cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không có đau thần kinh (p <0,001) (Bảng 2). Bảng 2: Mối liên quan giữa điểm đau VAS với đau thần kinh VAS Đau thần kinh n=112 p (t-test) Hiện tại Có 38 4,26 1,16 <0,001 Không 74 2,41 1,37 Tệ nhất trong 4 tuần qua Có 38 5,74 1,31 <0,001 Không 74 3,96 1,32 Điểm mức độ nặng triệu chứng Boston-SSS và chức năng Boston-FSS ở nhóm bàn tay có đau thần kinh cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không có đau thần kinh (p <0,001) (Hình 1). Về chẩn đoán điện, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ bàn tay theo phân độ chẩn đoán điện giữa hai nhóm (p <0,001) (Bảng 3). Bảng 3: Mối liên quan giữa mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh Phân độ chẩn Đau thần kinh Tổng p Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 16 đoán điện Có Không (χ 2 – test) Nhẹ 8 42 50 <0,001 Trung bình 18 30 48 Nặng 12 2 14 Tổng 38 74 112 A B Hình 1: Mối liên quan giữa điểm mức độ nặng triệu chứng Boston-SSS với đau thần kinh (A), và điểm mức độ nặng chức năng Boston-FSS với đau thần kinh (B) Sự tương quan giữa điểm đau thần kinh DN4 với điểm mức độ đau VAS và điểm mức độ nặng lâm sàng Boston Có sự tương quan giữa điểm DN4 với điểm đau VAS hiện tại cũng như với điểm VAS tệ nhất trong 4 tuần qua (p <0,001). Hệ số tương quan r lần lượt là 0,475 và 0,455; tương quan thuận, mức độ tương quan yếu. Có sự tương quan giữa điểm DN4 với điểm mức độ nặng triệu chứng Boston-SSS cũng như với điểm mức độ nặng chức năng Boston-FSS (p <0,001). Hệ số tương quan r lần lượt là 0,473 và 0,467, tương quan thuận, mức độ tương quan yếu. BÀN LUẬN Tỉ lệ đau thần kinh Bảng 4: Tỉ lệ đau thần kinh ở bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay theo các tác giả Tác giả (năm) Thang điểm sử dụng Kết quả Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013) ( 3 ) LANSS 47,6% Sonohata M (Nhật Bản, 2014) (12) painDETECT 30,8% Sonohata M (Nhật Bản, 2017) (10) painDETECT 36% Alagoz AN (Thổ Nhĩ Kỳ, 2019) (2) LANSS 73,46% Chúng tôi (Việt Nam, 2020) DN4 33,9% Trong nghiên cứu của chúng tôi, đau thần kinh được đánh giá bởi thang điểm DN4. Kết quả có 40,9% bệnh nhân và 33,9% bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay có đau thần kinh. Khi so sánh với các tác giả khác, tỉ lệ bàn tay có đau thần kinh trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự với các tác giả Nhật Bản. Theo các nghiên cứu của Sonohata M, tỉ lệ này dao động trong khoảng từ 30,8 – 36% (Bảng 4)(5,6,7). Khi so sánh với các tác giả Châu Âu, tỉ lệ đau thần kinh trên bệnh nhân cũng như tính theo số bàn tay trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn (Bảng 5), điều này gợi ý rằng các yếu tố như nhân trắc, điều kiện kinh tế và xã hội, mô hình bệnh tật có thể có liên quan. Thực tế cũng đã cho thấy tỉ lệ đau thần kinh trong dân số chung theo các tác giả Phương Tây (7 – 10%)(3) cao hơn so với nghiên cứu ở Châu Á, theo Inoue tỉ lệ đau thần kinh trong dân số chung ở Nhật Bản là 3,2%(7). Ngoài ra, việc sử dụng các thang điểm đau thần kinh khác nhau trong các nghiên cứu cũng có thể góp phần gây ra sự khác biệt này. Bảng 5: Tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay theo các tác giả Tác giả (năm) Đánh giá bởiKết quả Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013) ( 6 ) LANSS 54,2% Turgut ST (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013) ( 8 ) DN4 93% Oteo-Alvaro A (Tây Ban Nha, 2018) ( 4 ) DN4 67,7% Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 17 Chúng tôi (Việt Nam, 2020) DN4 40,9% Trong số 112 bàn tay có 99,1% bàn tay có triệu chứng tê; 58,9% bàn tay có triệu chứng cảm giác rần rần; 36,6% bàn tay có giảm cảm giác sờ chạm; 29,5% bàn tay có cảm giác châm chích; 25,9% bàn tay có giảm cảm giác châm kim; 24,1% bàn tay có cảm giác buốt cóng; 21,4% bàn tay có cảm giác như điện giật; 12,5% bàn tay có cảm giác nóng rát; 6,3% bàn tay có cảm giác ngứa và chỉ có 0,9% bàn tay xuất hiện đau hoặc đau tăng lên khi chà nhẹ. Kết quả này của chúng tôi tuy có tỉ lệ % xuất hiện các triệu chứng thấp hơn so với nghiên cứu của Oteo-Álvaro A (tê 96,7%; rần rần 98,9%; giảm cảm giác sờ chạm 63,6%; giảm cảm giác châm kim 53,3%; cảm giác điện giật 41,1%; cảm giác nóng rát 33,3%; cảm giác buốt cóng 24,4%; cảm giác ngứa và cảm giác đau xuất hiện hoặc tăng lên khi chà sát là 11,1%)(4). Tuy nhiên có một điểm chung đó là các triệu chứng tê, rần rần, giảm cảm giác là những triệu chứng thường gặp nhất, trong khi các triệu chứng ngứa, đau xuất hiện hoặc tăng lên khi chà nhẹ lại rất ít gặp. Mối liên quan giữa nhân khẩu học, lâm sàng và mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh Mối liên quan giữa các yếu tố nhân khẩu học với đau thần kinh Chúng tôi nhận thấy rằng không có mối liên quan giữa hầu hết các yếu tố nhân khẩu học với đau thần kinh. Nghiên cứu của Sonohata M (Nhật Bản, 2014)(6), Sonohata M (Nhật Bản, 2017)(7), Oteo-Álvaro A (Tây Ban Nha, 2018)(4), Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)(3) cũng đã cho kết quả tương tự. Ngoài ra chúng tôi còn tìm thấy ở những bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay hai bên, tỉ lệ đau thần kinh cao hơn có ý nghĩa so với những bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay một bên. Điều này không khó lí giải bởi tỉ lệ đau thần kinh giữa tay phải và tay trái không có sự khác biệt, do đó ở những bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay cả hai bên thì khả năng có đau thần kinh ở ít nhất một bên sẽ cao hơn so với những bệnh nhân chỉ mắc hội chứng ống cổ tay một bên. Mối liên quan giữa thời gian mắc hội chứng ống cổ tay với đau thần kinh Không có mối liên quan giữa thời gian mắc hội chứng ống cổ tay với đau thần kinh (Mann-Whitney-test, p=0,547), tương tự với kết quả nghiên cứu của các tác giả Sonohata M (Nhật Bản, 2014)(6), Sonohata M (Nhật bản, 2017)(7), Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)(3). Mối liên quan giữa test Tinel và Phalen với đau thần kinh Nghiên cứu của chúng tôi tương tự với Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013). Kết quả này có thể được lí giải là do hai test lâm sàng Tinel và Phalen có cơ chế làm căng dây thần kinh giữa đồng thời làm tăng áp lực bên trong ống cổ tay, từ đó gây ra các triệu chứng hoặc làm nặng thêm các triệu chứng hội chứng ống cổ tay. Ở những bàn tay có đau thần kinh có sự tăng nhạy cảm đau do đó hai test này có tỉ lệ (+) cao hơn ở những bàn tay không có đau thần kinh. M i liên quan gi a m c au v i au th n kinh Điểm VAS hiện tại và tệ nhất trong 4 tuần qua ở nhóm bàn tay có đau thần kinh cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không có đau thần kinh (p <0,001), tương tự với Sonohata M (Nhật Bản, 2014). Trong nghiên cứu của Ceceli E (Thổ Nhĩ Kỳ, 2018), đau thần kinh được đánh giá bởi LANSS và painDETECT(11). Điểm đau VAS ở nhóm được chẩn đoán đau thần kinh bởi LANSS là 4,84 ± 2,51 cao hơn nhóm không có đau thần kinh là 3,16 ± 2,8 (p=0,002). Điểm đau VAS ở nhóm được chẩn đoán đau thần kinh bởi painDETECT là 5,15 ± 2,59 cũng cao hơn 3,16 ± 2,39 ở nhóm không có đau thần kinh (p <0,001). Kết quả này cũng tương tự với các nghiên cứu về đau thần kinh trong dân số chung. Theo đó, ở những bệnh nhân có đau thần kinh trải nghiệm mức độ đau nặng hơn những bệnh nhân không có đau thần kinh(12,13). Điều này có lẽ liên quan đến cơ chế đau thần kinh, ở những bệnh nhân có đau thần kinh có sự tăng nhạy cảm đau và giảm ức chế đau(12). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 18 Mối liên quan giữa mức độ nặng lâm sàng với đau thần kinh Ở những bàn tay có đau thần kinh biểu hiện tình trạng lâm sàng nặng hơn cả về triệu chứng và chức năng so với những bàn tay không có đau thần kinh. Kết quả của chúng tôi tương tự với Oteo-Álvaro A (Tây Ban Nha, 2018). Truini (Ý, 2009) sử dụng thang điểm NPSI để đánh giá đau thần kinh trên 117 bàn tay của 70 bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay cho thấy không có sự khác biệt về điểm Boston giữa hai nhóm có đau thần kinh và nhóm không có đau thần kinh (p >0,2; Mann-Whiteney test). Như vậy, cho tới thời điểm hiện tại chưa có sự đồng nhất trong các kết quả nghiên cứu về mối liên quan giữa đau thần kinh với mức độ nặng lâm sàng. Mối liên quan giữa mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ nặng theo phân độ chẩn đoán điện giữa hai nhóm bàn tay có đau thần kinh và không có đau thần kinh (χ2 test, p <0,001), tương tự với Oteo-Álvaro A (Tây Ban Nha, 2018)(4). Trong khi đó, nghiên cứu của Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)(3), Turgut ST (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)(8), Alagoz AN (Thổ Nhĩ Kỳ, 2019)(2) lại không tìm thấy mối liên quan giữa mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh. Tuy nhiên, có một điểm chung giữa các nghiên cứu đó là tỉ lệ đau thần kinh ở những bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay mức độ nặng cao hơn mức độ trung bình và cao hơn mức độ nhẹ. Điều này có thể được giải thích là do mức độ nặng trên chẩn đoán điện tương ứng với sự tổn thương của dây thần kinh giữa. Sự tổn thương này gây ra các thay đổi của sợi trục, điều này phù hợp với cơ chế bệnh sinh gây nên đau thần kinh. Ngoài ra, khi có tổn thương sợi trục thì lâm sàng biểu hiện bằng các tình trạng khiếm khuyết thần kinh như giảm hoặc mất cảm giác. Các triệu chứng này cộng thêm các triệu chứng kinh điển của hội chứng ống cổ tay (tê và rần) làm gia tăng số điểm trong bảng câu hỏi DN4 do đó làm tăng khả năng chẩn đoán đau thần kinh. Sự tương quan giữa điểm đau thần kinh DN4 với điểm mức độ đau VAS và điểm mức độ nặng lâm sàng Boston Sự tương quan giữa điểm DN4 và điểm VAS Kết quả của chúng tôi tương tự với hầu hết các nghiên cứu trên thế giới (Bảng 6). Sự tương quan giữa DN4 và VAS có thể giải thích là do DN4 càng cao thì nhiều khả năng bệnh nhân có đau thần kinh, và như đã biết điểm đau VAS cao hơn ở bệnh nhân có đau thần kinh(12,13). Bảng 6: Sự tương quan giữa điểm đau thần kinh với điểm mức độ đau Tác giả (năm) Thang đau thần kinh Thang mức độ đau Kết quả Sonohata M (Nhật Bản, 2013) (5) painDETECT VAS (hiện tại và tệ nhất trong 4 tuần qua) r=0,264; p=0,223 r=0,048; p=0,828 Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013) (3) LANSS VAS r=0,712; p <0,001 Dandinoglu T (Thổ Nhĩ Kỳ, 2016) (14) DN4 LANSS VAS VAS r=0,279; p=0,063 r=0,521; p=0,001 Ceceli E (Thổ Nhĩ Kỳ, 2018) (11) PainDETECT LANSS VAS VAS r=0,439; p <0,001 r=0,339; p=0,004 Chúng tôi (2020) DN4 VAS (hiện tại và tệ nhất trong 4 tuần qua) r=0,475; p <0,001 r=0,455; p <0,001 S t ng quan gi a i m DN4 v i i m Boston Bảng 7: Sự tương quan giữa điểm đau thần kinh với điểm độ nặng lâm sàng theo các tác giả Tác giả (năm) Thang đau thần kinh Thang đánh giá lâm sàng Kết quả Sonohata M (2013) ( 5 ) painDETECT DASH r=0,419, p <0,05 Dandinoglu T (2016) (14) DN4 Boston-SSS r=0,239, p=0,132 Boston-FSS r=0,213, p=0,182 LANSS Boston-SSS r = 0,301, p=0,056 Boston-FSS r=0,223, p=0,162 Ceceli E (2018) (11) LANSS DHI r=0,232, p=0,050 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 19 painDETECT DHI r=0,533, p <0,001 Chúng tôi (2020) DN4 Boston-SSS r=0,473, p <0,001 DN4 Boston-FSS r=0,467, p <0,001 Kết quả của chúng tôi có điểm chung với Sonohata M (Nhật Bản, 2013)(5), Ceceli E (Thổ Nhĩ Kỳ, 2018)(11) (Bảng 7). Sự tương quan giữa điểm đau thần kinh và điểm mức độ nặng lâm sàng hội chứng ống cổ tay có thể được giải thích là do với điểm DN4 càng cao thì nhiều khả năng bệnh nhân có đau thần kinh. Những bệnh nhân có đau thần kinh có trải nghiệm mức độ đau nặng hơn, ảnh hưởng đến hoạt động chức năng cũng như chất lượng cuộc sống nhiều hơn do đó thường gây ra tình trạng nặng về triệu chứng cũng như chức năng bàn tay trên lâm sàng(11,13). Tuy nhiên do DN4 là thang điểm sàng lọc trong khi Boston là thang điểm mức độ do đó giữa hai thang điểm này có mối tương quan yếu. KẾT LUẬN Từ kết quả nghiên cứu đau thần kinh ở 112 bàn tay của 66 bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay tại Phòng khám Quốc tế EXSON từ tháng 01 năm 2020 cho đến hết tháng 04 năm 2020, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: - Tỉ lệ đau thần kinh chiếm 40,9% bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay. Khảo sát theo bàn tay, tỉ lệ này là 33,9%. - Không có mối liên quan giữa các yếu tố nhân khẩu học (tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, BMI, bên), thời gian mắc hội chứng ống cổ tay với đau thần kinh. Tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay 2 bên cao hơn có ý nghĩa so với 1 bên. Test Tinel và Phalen (+) ở những bàn tay có đau thần kinh cao hơn có ý nghĩa so với những bàn tay không có đau thần kinh. Mức độ đau, mức độ nặng triệu chứng và chức năng ở những bàn tay có đau thần kinh cao hơn có ý nghĩa so với những bàn tay không có đau thần kinh. Có mối liên quan giữa mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh. - Có mối tương quan giữa điểm đau thần kinh DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dieleman JP, Kerklaan J, Huygen FJPM, et al (2008). Incidence rates and treatment of neuropathic pain conditions in the general population. Pain, 137(3):681-688. 2. Alagöz AN, Aras Y, Acar BA, et al (2019). Comparison of Severity of Pain and Electrophysiological Severity Degree in Patients with Carpal Tunnel Syndrome. Bosphorus Medical Journal, 6(1):1-8. 3. Gürsoy AE, Kolukisa M, Yildiz GB, et al (2013). Relationship between electrodiagnostic severity and neuropathic pain assessed by the LANSS pain scale in carpal tunnel syndrome. Neuropsychiatric Disease and Treatment, 9:65. 4. Oteo-Álvaro Á, Marín MT, et al (2018). Predictive factors of the neuropathic pain in patients with carpal tunnel syndrome and its impact on patient activity. Pain Management, 8(6):455-463. 5. Sonohata M, Tsuruta T, Mine H, et al (2013). The relationship between neuropathic pain, and the function of the upper limbs based on clinical severity according to electrophysiological studies in patients with carpal tunnel syndrome. The open Orthopaedics Journal, 7:99. 6. Sonohata M, Tsuruta T, Mine H, et al (2014). Clinical characteristics of neuropathic pain in patients with carpal tunnel syndrome. Hand Surgery, 19(01):43-48. 7. Sonohata M, Tsuruta T, Mine H, et al (2017). The effect of carpal tunnel release on neuropathic pain in carpal tunnel syndrome. Pain Research and Management, 2017(1):1-8. 8. Turgut ST, İçağasıoğlu A, Selimoğlu E, et al (2013). The relationship between electrodiagnostic findings and the DN4 questionnaire in patients with carpal tunnel syndrome. Journal of Musculoskeletal Pain, 21(1):19-22. 9. AAN (1993). Practice parameter for carpal tunnel syndrome (summary statement). Report of the Quality Standards Subcommittee of the American Academy of Neurology. Neurology, 43 (11):2406-2409. 10. Werner RA, Andary M, et al (2011). Electrodiagnostic evaluation of carpal tunnel syndrome. Muscle & Nerve, 44(4):597-607. 11. Ceceli E, Gumruk S, Okumus M, et al (2018). Comparison of 2 methods of neuropathic pain assessment in carpal tunnel syndrome and hand functions. Neurosciences, 23(1):23-28. 12. Colloca L, Ludman T, Bouhassira D, et al (2017). Neuropathic pain. Nature reviews Disease primers, 3:17002. 13. Inoue S, Taguchi T, Yamashita T, et al (2017). The prevalence and impact of chronic neuropathic pain on daily and social life: a nationwide study in a Japanese population. European Journal of Pain, 21(4):727-737. 14. Dandinoğlu T, Karadeniz M, Yilmaz V, et al (2016). Evaluating neuropathic complaints by DN4 and LANSS scales after local corticosteroid therapy in carpal tunnel syndrome. Journal of Back and Musculoskeletal Rehabilitation, 29(3):575-580. Ngày nhận bài báo: 10/11/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
File đính kèm:
dau_than_kinh_o_benh_nhan_mac_hoi_chung_ong_co_tay.pdf

