Đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay

Đặt vấn đề: Tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay khác nhau tùy theo các nghiên cứu.

Đau thần kinh có liên quan đến mức độ đau nhưng mối liên quan của nó với mức độ nặng lâm sàng và chẩn

đoán điện vẫn chưa có sự thống nhất.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay. Khảo sát mối liên quan giữa

các yếu tố nhân khẩu học, lâm sàng, mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh. Khảo sát sự tương

quan giữa điểm đau thần kinh DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston.

Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 66 bệnh nhân với 112 bàn tay mắc hội chứng

ống cổ tay tại Phòng khám Quốc tế Exson từ tháng 1 cho đến hết tháng 4 năm 2020. Khảo sát đau thần kinh

bằng thang điểm DN4.

Kết quả: Tỉ lệ đau thần kinh là 40,9%. Không có mối liên quan giữa: tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, BMI,

bên, thời gian mắc hội chứng ống cổ tay với đau thần kinh. Hội chứng ống cổ tay hai bên có tỉ lệ đau thần kinh

cao hơn một bên. Tỉ lệ test Tinel (+), Phalen (+), điểm đau VAS và điểm Boston ở nhóm bàn tay có đau thần kinh

cao hơn nhóm không có đau thần kinh. Có sự khác biệt về mức độ nặng chẩn đoán điện giữa hai nhóm. Có sự

tương quan giữa điểm DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston.

Kết luận: Thang điểm DN4 có thể là một công cụ hữu ích trong đánh giá đau thần kinh ở bệnh nhân mắc

hội chứng ống cổ tay.

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay

Đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 13
ĐAU THẦN KINH Ở BỆNH NHÂN MẮC HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY 
Nguyễn Văn Ca1, Vũ Anh Nhị2, Nguyễn Lê Trung Hiếu2,3 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay khác nhau tùy theo các nghiên cứu. 
Đau thần kinh có liên quan đến mức độ đau nhưng mối liên quan của nó với mức độ nặng lâm sàng và chẩn 
đoán điện vẫn chưa có sự thống nhất. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay. Khảo sát mối liên quan giữa 
các yếu tố nhân khẩu học, lâm sàng, mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh. Khảo sát sự tương 
quan giữa điểm đau thần kinh DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston. 
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 66 bệnh nhân với 112 bàn tay mắc hội chứng 
ống cổ tay tại Phòng khám Quốc tế Exson từ tháng 1 cho đến hết tháng 4 năm 2020. Khảo sát đau thần kinh 
bằng thang điểm DN4. 
Kết quả: Tỉ lệ đau thần kinh là 40,9%. Không có mối liên quan giữa: tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, BMI, 
bên, thời gian mắc hội chứng ống cổ tay với đau thần kinh. Hội chứng ống cổ tay hai bên có tỉ lệ đau thần kinh 
cao hơn một bên. Tỉ lệ test Tinel (+), Phalen (+), điểm đau VAS và điểm Boston ở nhóm bàn tay có đau thần kinh 
cao hơn nhóm không có đau thần kinh. Có sự khác biệt về mức độ nặng chẩn đoán điện giữa hai nhóm. Có sự 
tương quan giữa điểm DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston. 
Kết luận: Thang điểm DN4 có thể là một công cụ hữu ích trong đánh giá đau thần kinh ở bệnh nhân mắc 
hội chứng ống cổ tay. 
Từ khóa: đau thần kinh, hội chứng ống cổ tay 
ABSTRACT 
NEUROPATHIC PAIN IN PATIENTS WITH CARPAL TUNNEL SYNDROME 
Nguyen Van Ca, Vu Anh Nhi, Nguyen Le Trung Hieu 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 13 - 19 
Background: The incidence of neuropathic pain in patients with carpal tunnel syndrome according to 
studies varies widely. Neuropathic pain is associated with pain severity but its association with clinical and 
electrodiagnostic severity remain unconsensus. 
Objectives: To determine the incidence of neuropathic pain in patients with carpal tunnel syndrome, 
investigate association of neuropathic pain with demographic factors, clinical characteristics and electrodiagnostic 
severity. To investigate correlation between DN4 score with VAS and Boston scores. 
Methods: Descriptive study of 66 patients with 112 hands with carpal tunnel syndrome at Exson 
international clinic from January to April 2020. Valuation of neuropathic pain by DN4 scale. 
Results: Neuropathic pain accounted for 40.9%. There was no relationship between: age, sex, height, weight, 
BMI, lateral, duration of carpal tunnel syndrome with neuropathic pain. Patients with bilateral carpal tunnel 
syndrome had a significantly higher incidence of neuropathic pain than unilateral. The rate of Tinel (+), Phalen 
(+), VAS score and Boston scores in the hand group with neuropathic pain was higher than in the group without 
1Phòng khám Quốc tế Exson 2Bộ môn Thần kinh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
3Khoa Thần kinh, BV Nhi Đồng 2 
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Văn Ca ĐT: 0396913681 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 14
neuropathic pain. There was a significant difference in the electrodiagnostic severity between the two groups. 
There was a significantly correlation between DN4 score with VAS score and Boston score. 
Conclusion: The DN4 score may be a useful tool in assessing neuropathic pain in patients with carpal 
tunnel syndrome. 
Key words: neuropathic pain, carpal tunnel syndrome 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo Dieleman (IASP, 2008) có đến 54,5% 
bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay có đau 
thần kinh nhưng không được điều trị trong vòng 
6 tháng kể từ khi được chẩn đoán(1). 
Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỉ lệ 
đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống 
cổ tay dao động từ 54,2 – 93%, tỉ lệ này tính theo 
bàn tay từ 30,8 – 73,46%(2,3,4,5). Mối liên quan giữa 
nhân khẩu học, mức độ đau với đau thần kinh 
đã có sự thống nhất, tuy nhiên mối liên quan 
giữa mức độ nặng lâm sàng và chẩn đoán điện 
với đau thần kinh vẫn chưa thống nhất giữa các 
nghiên cứu(6,7,8). 
Các thang điểm đau thần kinh đã được sử 
dụng trong đánh hội chứng ống cổ tay, tuy 
nhiên sự tương quan giữa chúng với điểm mức 
độ đau và điểm mức độ nặng lâm sàng vẫn chưa 
được làm sáng tỏ. Chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu “Đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng 
ống cổ tay” với các mục tiêu sau: 
- Xác định tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân 
mắc hội chứng ống cổ tay. 
- Khảo sát mối liên quan giữa các yếu tố 
nhân khẩu học, lâm sàng, mức độ nặng trên 
chẩn đoán điện với đau thần kinh. 
- Khảo sát sự tương quan giữa điểm đau 
thần kinh DN4 với điểm mức độ đau VAS và 
điểm mức độ nặng lâm sàng Boston. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân (BN) từ 18 tuổi trở lên đến khám 
tại Phòng khám Quốc tế Exson trong thời gian từ 
tháng 01 đến hết tháng 4 năm 2020. 
Tiêu chuẩn chọn 
Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên. 
- Chẩn đoán lâm sàng hội chứng ống cổ tay 
theo tiêu chuẩn của Viện Thần kinh học Hoa Kỳ 
(AAN, 1993)(9). 
- Xác nhận chẩn đoán hội chứng ống cổ tay 
trên test chẩn đoán điện theo khuyến cáo thực 
hành của Hội Thần kinh cơ và chẩn đoán điện y 
khoa Hoa Kỳ (AANEM, 2011)(10). 
- Đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Phát hiện bất thường của thần kinh giữa 
đoạn ngoài ống cổ tay trên chẩn đoán điện. 
Phát hiện bệnh của dây thần kinh ngoại biên 
khác ở chi trên hoặc bệnh đa dây thần kinh ghi 
nhận trên chẩn đoán điện. 
Phát hiện các tình trạng rối loạn hoặc bệnh lí 
của hệ thống thần kinh cảm giác trung ương trên 
lâm sàng. 
Không hoàn tất các phần cần thiết cho 
nghiên cứu. 
Phát hiện các bệnh lí đi kèm cần ưu tiên xử 
trí trong quá trình lấy số liệu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
Cỡ mẫu 
n ≥ (1,96/m)2 x p (1 – p) 
Với tỉ lệ đau thần kinh được xác định bởi 
DN4 dao động trong khoảng từ 76,7 – 93%(9,11), 
chọn p=0,8; m=0,1; cỡ mẫu tối thiểu là 62 bệnh 
nhân. Tỉ lệ đau thần kinh tính theo bàn tay mắc 
hội chứng ống cổ tay dao động trong khoảng từ 
30,8 – 73,46%(2,3,6,7) tính được cỡ mẫu tối thiểu là 
81 bàn tay. 
Phương pháp thực hiện 
Đau thần kinh được đánh giá bởi thang điểm 
DN4. Bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay có đau 
thần kinh khi điểm DN4 ≥4. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 15
Mức độ đau gây ra do hội chứng ống cổ tay 
được đánh giá bởi thang điểm đau VAS. 
Mức độ nặng của hội chứng ống cổ tay trên 
lâm sàng được đánh giá bởi thang điểm Boston 
bao gồm mức độ nặng triệu chứng (Boston-SSS) 
và mức độ nặng chức năng (Boston-FSS). 
Xử lí và phân tích số liệu 
Trên phần mềm SPSS 20. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM, số 760/ HĐĐĐ, ngày 
12/12/2019. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Trong 66 bệnh nhân có 17 nam (25,8%) và 49 
nữ (74,2%), tỉ lệ nữ:nam xấp xỉ 3:1, 46 bệnh nhân 
mắc hội chứng ống cổ tay hai bên (69,7%). Tuổi 
trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là 54,27 ± 
10,02 (33 – 77), chiều cao 157,12 ± 7,78 (140 – 175), 
cân nặng 59,12 ± 8,83 (41 – 82), BMI 23,86 ± 2,35 
(18,14 – 30,43). Trong 112 bàn tay mắc hội chứng 
ống cổ tay có 52 bàn tay trái (46,4%) và 60 bàn 
tay phải (53,6%). Đặc điểm lâm sàng và chẩn 
đoán điện của 112 bàn tay trong nghiên cứu 
được trình bày trong Bảng 1. 
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán điện đối 
tượng nghiên cứu (n = 112 (bàn tay)) 
Thời gian mắc hội chứng ống 
cổ tay 
22,53 ± 15,708 (1 – 72), 
trung vị 20 
Tinel (+) 
Phalen (+) 
58,9% 
67,9% 
VAS hiện tại 
VAS tệ nhất trong 4 tuần qua 
3,04 ± 1,57 (0 – 6) 
4,56 ± 1,56 (1 – 8) 
Boston-SSS 
Boston-FSS 
2,20 ± 0,77 (1,18 – 4,00), 
trung vị 2 
1,77 ± 0,74 (1,00 – 3,75), 
trung vị 1,5 
DN4 
3,14 ± 1,58 (0 – 7), 
trung vị 3 
Phân độ chẩn đoán điện 
Nhẹ 
Trung bình 
Nặng 
44,6% 
42,9% 
12,5% 
Tỉ lệ đau thần kinh 
Trong 66 bệnh nhân có 27 bệnh nhân có ít 
nhất một bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay có 
điểm DN4 ≥4, tương ứng với tỉ lệ đau thần kinh 
40,9%. Trong 112 bàn tay mắc hội chứng ống cổ 
tay có 38 bàn tay có điểm DN4 ≥4, tương ứng với 
tỉ lệ đau thần kinh là 33,9%. 
Mối liên quan giữa nhân khẩu học, lâm sàng 
và mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau 
thần kinh 
Không có mối liên quan giữa tuổi, giới, chiều 
cao, cân nặng, BMI, bên (phải và trái) với đau 
thần kinh. Tỉ lệ đau thần kinh ở nhóm bệnh 
nhân mắc hội chứng ống cổ tay hai bên cao hơn 
có ý nghĩ so với nhóm bệnh nhân chỉ mắc hội 
chứng ống cổ tay một bên (p=0,023). 
Về lâm sàng, không có mối liên quan giữa 
thời gian mắc hội chứng ống cổ tay với đau 
thần kinh (p=0,547). Tỉ lệ test Tinel và Phalen 
(+) ở nhóm bàn tay có đau thần kinh cao hơn 
có ý nghĩa so với nhóm không có đau thần 
kinh (p <0,001). Điểm đau VAS hiện tại và tệ 
nhất trong 4 tuần qua ở nhóm bàn tay có đau 
thần kinh cao hơn có ý nghĩa so với nhóm 
không có đau thần kinh (p <0,001) (Bảng 2). 
Bảng 2: Mối liên quan giữa điểm đau VAS với đau 
thần kinh 
VAS 
Đau thần 
kinh 
n=112 p (t-test) 
Hiện tại 
Có 38 4,26 1,16 
<0,001 
Không 74 2,41 1,37 
Tệ nhất trong 
4 tuần qua 
Có 38 5,74 1,31 
<0,001 
Không 74 3,96 1,32 
Điểm mức độ nặng triệu chứng Boston-SSS 
và chức năng Boston-FSS ở nhóm bàn tay có đau 
thần kinh cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không 
có đau thần kinh (p <0,001) (Hình 1). 
Về chẩn đoán điện, có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê về tỉ lệ bàn tay theo phân độ 
chẩn đoán điện giữa hai nhóm (p <0,001) 
(Bảng 3). 
Bảng 3: Mối liên quan giữa mức độ nặng trên chẩn 
đoán điện với đau thần kinh 
Phân độ chẩn Đau thần kinh Tổng p 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 16
đoán điện Có Không (χ
2
 – test) 
Nhẹ 8 42 50 
<0,001 
Trung bình 18 30 48 
Nặng 12 2 14 
Tổng 38 74 112 
A B 
Hình 1: Mối liên quan giữa điểm mức độ nặng triệu chứng Boston-SSS với đau thần kinh (A), và điểm mức độ 
nặng chức năng Boston-FSS với đau thần kinh (B) 
Sự tương quan giữa điểm đau thần kinh DN4 
với điểm mức độ đau VAS và điểm mức độ 
nặng lâm sàng Boston 
Có sự tương quan giữa điểm DN4 với điểm 
đau VAS hiện tại cũng như với điểm VAS tệ 
nhất trong 4 tuần qua (p <0,001). Hệ số tương 
quan r lần lượt là 0,475 và 0,455; tương quan 
thuận, mức độ tương quan yếu. 
Có sự tương quan giữa điểm DN4 với 
điểm mức độ nặng triệu chứng Boston-SSS 
cũng như với điểm mức độ nặng chức năng 
Boston-FSS (p <0,001). Hệ số tương quan r lần 
lượt là 0,473 và 0,467, tương quan thuận, mức 
độ tương quan yếu. 
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ đau thần kinh 
Bảng 4: Tỉ lệ đau thần kinh ở bàn tay mắc hội chứng 
ống cổ tay theo các tác giả 
Tác giả (năm) 
Thang điểm sử 
dụng 
Kết quả 
Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)
(
3
)
 LANSS 47,6% 
Sonohata M (Nhật Bản, 2014)
(12)
 painDETECT 30,8% 
Sonohata M (Nhật Bản, 2017)
(10)
 painDETECT 36% 
Alagoz AN (Thổ Nhĩ Kỳ, 2019)
(2)
 LANSS 73,46% 
Chúng tôi (Việt Nam, 2020) DN4 33,9% 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đau thần 
kinh được đánh giá bởi thang điểm DN4. Kết 
quả có 40,9% bệnh nhân và 33,9% bàn tay mắc 
hội chứng ống cổ tay có đau thần kinh. Khi so 
sánh với các tác giả khác, tỉ lệ bàn tay có đau 
thần kinh trong nghiên cứu của chúng tôi tương 
tự với các tác giả Nhật Bản. Theo các nghiên cứu 
của Sonohata M, tỉ lệ này dao động trong 
khoảng từ 30,8 – 36% (Bảng 4)(5,6,7). 
Khi so sánh với các tác giả Châu Âu, tỉ lệ đau 
thần kinh trên bệnh nhân cũng như tính theo số 
bàn tay trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn 
(Bảng 5), điều này gợi ý rằng các yếu tố như 
nhân trắc, điều kiện kinh tế và xã hội, mô hình 
bệnh tật có thể có liên quan. Thực tế cũng đã cho 
thấy tỉ lệ đau thần kinh trong dân số chung theo 
các tác giả Phương Tây (7 – 10%)(3) cao hơn so 
với nghiên cứu ở Châu Á, theo Inoue tỉ lệ đau 
thần kinh trong dân số chung ở Nhật Bản là 
3,2%(7). Ngoài ra, việc sử dụng các thang điểm 
đau thần kinh khác nhau trong các nghiên cứu 
cũng có thể góp phần gây ra sự khác biệt này. 
Bảng 5: Tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh nhân mắc hội 
chứng ống cổ tay theo các tác giả 
Tác giả (năm) Đánh giá bởiKết quả 
Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)
(
6
)
 LANSS 54,2% 
Turgut ST (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)
(
8
)
 DN4 93% 
Oteo-Alvaro A (Tây Ban Nha, 
2018)
(
4
)
DN4 67,7% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 17
Chúng tôi (Việt Nam, 2020) DN4 40,9% 
Trong số 112 bàn tay có 99,1% bàn tay có 
triệu chứng tê; 58,9% bàn tay có triệu chứng cảm 
giác rần rần; 36,6% bàn tay có giảm cảm giác sờ 
chạm; 29,5% bàn tay có cảm giác châm chích; 
25,9% bàn tay có giảm cảm giác châm kim; 24,1% 
bàn tay có cảm giác buốt cóng; 21,4% bàn tay có 
cảm giác như điện giật; 12,5% bàn tay có cảm 
giác nóng rát; 6,3% bàn tay có cảm giác ngứa và 
chỉ có 0,9% bàn tay xuất hiện đau hoặc đau tăng 
lên khi chà nhẹ. Kết quả này của chúng tôi tuy có 
tỉ lệ % xuất hiện các triệu chứng thấp hơn so với 
nghiên cứu của Oteo-Álvaro A (tê 96,7%; rần rần 
98,9%; giảm cảm giác sờ chạm 63,6%; giảm cảm 
giác châm kim 53,3%; cảm giác điện giật 41,1%; 
cảm giác nóng rát 33,3%; cảm giác buốt cóng 
24,4%; cảm giác ngứa và cảm giác đau xuất hiện 
hoặc tăng lên khi chà sát là 11,1%)(4). Tuy nhiên 
có một điểm chung đó là các triệu chứng tê, rần 
rần, giảm cảm giác là những triệu chứng thường 
gặp nhất, trong khi các triệu chứng ngứa, đau 
xuất hiện hoặc tăng lên khi chà nhẹ lại rất ít gặp. 
Mối liên quan giữa nhân khẩu học, lâm sàng và mức độ 
nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh 
Mối liên quan giữa các yếu tố nhân khẩu học 
với đau thần kinh 
Chúng tôi nhận thấy rằng không có mối 
liên quan giữa hầu hết các yếu tố nhân khẩu 
học với đau thần kinh. Nghiên cứu của 
Sonohata M (Nhật Bản, 2014)(6), Sonohata M 
(Nhật Bản, 2017)(7), Oteo-Álvaro A (Tây Ban 
Nha, 2018)(4), Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)(3) 
cũng đã cho kết quả tương tự. Ngoài ra chúng 
tôi còn tìm thấy ở những bệnh nhân mắc hội 
chứng ống cổ tay hai bên, tỉ lệ đau thần kinh 
cao hơn có ý nghĩa so với những bệnh nhân 
mắc hội chứng ống cổ tay một bên. Điều này 
không khó lí giải bởi tỉ lệ đau thần kinh giữa 
tay phải và tay trái không có sự khác biệt, do 
đó ở những bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ 
tay cả hai bên thì khả năng có đau thần kinh ở 
ít nhất một bên sẽ cao hơn so với những bệnh 
nhân chỉ mắc hội chứng ống cổ tay một bên. 
Mối liên quan giữa thời gian mắc hội chứng 
ống cổ tay với đau thần kinh 
Không có mối liên quan giữa thời gian mắc 
hội chứng ống cổ tay với đau thần kinh 
(Mann-Whitney-test, p=0,547), tương tự với kết 
quả nghiên cứu của các tác giả Sonohata M 
(Nhật Bản, 2014)(6), Sonohata M (Nhật bản, 
2017)(7), Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)(3). 
Mối liên quan giữa test Tinel và Phalen với 
đau thần kinh 
Nghiên cứu của chúng tôi tương tự với 
Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013). Kết quả này có 
thể được lí giải là do hai test lâm sàng Tinel và 
Phalen có cơ chế làm căng dây thần kinh giữa 
đồng thời làm tăng áp lực bên trong ống cổ tay, 
từ đó gây ra các triệu chứng hoặc làm nặng thêm 
các triệu chứng hội chứng ống cổ tay. Ở những 
bàn tay có đau thần kinh có sự tăng nhạy cảm 
đau do đó hai test này có tỉ lệ (+) cao hơn ở 
những bàn tay không có đau thần kinh. 
Mi liên quan gia mc  au vi 
au thn kinh 
Điểm VAS hiện tại và tệ nhất trong 4 tuần 
qua ở nhóm bàn tay có đau thần kinh cao hơn 
có ý nghĩa so với nhóm không có đau thần 
kinh (p <0,001), tương tự với Sonohata M 
(Nhật Bản, 2014). Trong nghiên cứu của Ceceli 
E (Thổ Nhĩ Kỳ, 2018), đau thần kinh được 
đánh giá bởi LANSS và painDETECT(11). Điểm 
đau VAS ở nhóm được chẩn đoán đau thần 
kinh bởi LANSS là 4,84 ± 2,51 cao hơn nhóm 
không có đau thần kinh là 3,16 ± 2,8 (p=0,002). 
Điểm đau VAS ở nhóm được chẩn đoán đau 
thần kinh bởi painDETECT là 5,15 ± 2,59 cũng 
cao hơn 3,16 ± 2,39 ở nhóm không có đau thần 
kinh (p <0,001). Kết quả này cũng tương tự với 
các nghiên cứu về đau thần kinh trong dân số 
chung. Theo đó, ở những bệnh nhân có đau 
thần kinh trải nghiệm mức độ đau nặng hơn 
những bệnh nhân không có đau thần kinh(12,13). 
Điều này có lẽ liên quan đến cơ chế đau thần 
kinh, ở những bệnh nhân có đau thần kinh có 
sự tăng nhạy cảm đau và giảm ức chế đau(12). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 18
Mối liên quan giữa mức độ nặng lâm sàng với 
đau thần kinh 
Ở những bàn tay có đau thần kinh biểu hiện 
tình trạng lâm sàng nặng hơn cả về triệu chứng 
và chức năng so với những bàn tay không có 
đau thần kinh. Kết quả của chúng tôi tương tự 
với Oteo-Álvaro A (Tây Ban Nha, 2018). Truini 
(Ý, 2009) sử dụng thang điểm NPSI để đánh giá 
đau thần kinh trên 117 bàn tay của 70 bệnh nhân 
mắc hội chứng ống cổ tay cho thấy không có sự 
khác biệt về điểm Boston giữa hai nhóm có đau 
thần kinh và nhóm không có đau thần kinh 
(p >0,2; Mann-Whiteney test). Như vậy, cho tới 
thời điểm hiện tại chưa có sự đồng nhất trong 
các kết quả nghiên cứu về mối liên quan giữa 
đau thần kinh với mức độ nặng lâm sàng. 
Mối liên quan giữa mức độ nặng trên chẩn 
đoán điện với đau thần kinh 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ nặng 
theo phân độ chẩn đoán điện giữa hai nhóm bàn 
tay có đau thần kinh và không có đau thần kinh 
(χ2 test, p <0,001), tương tự với Oteo-Álvaro A 
(Tây Ban Nha, 2018)(4). Trong khi đó, nghiên cứu 
của Gursoy AE (Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)(3), Turgut ST 
(Thổ Nhĩ Kỳ, 2013)(8), Alagoz AN (Thổ Nhĩ Kỳ, 
2019)(2) lại không tìm thấy mối liên quan giữa 
mức độ nặng trên chẩn đoán điện với đau thần 
kinh. Tuy nhiên, có một điểm chung giữa các 
nghiên cứu đó là tỉ lệ đau thần kinh ở những bàn 
tay mắc hội chứng ống cổ tay mức độ nặng cao 
hơn mức độ trung bình và cao hơn mức độ nhẹ. 
Điều này có thể được giải thích là do mức độ 
nặng trên chẩn đoán điện tương ứng với sự tổn 
thương của dây thần kinh giữa. Sự tổn thương 
này gây ra các thay đổi của sợi trục, điều này 
phù hợp với cơ chế bệnh sinh gây nên đau thần 
kinh. Ngoài ra, khi có tổn thương sợi trục thì lâm 
sàng biểu hiện bằng các tình trạng khiếm khuyết 
thần kinh như giảm hoặc mất cảm giác. Các triệu 
chứng này cộng thêm các triệu chứng kinh điển 
của hội chứng ống cổ tay (tê và rần) làm gia tăng 
số điểm trong bảng câu hỏi DN4 do đó làm tăng 
khả năng chẩn đoán đau thần kinh. 
Sự tương quan giữa điểm đau thần kinh DN4 
với điểm mức độ đau VAS và điểm mức độ 
nặng lâm sàng Boston 
Sự tương quan giữa điểm DN4 và điểm VAS 
Kết quả của chúng tôi tương tự với hầu hết 
các nghiên cứu trên thế giới (Bảng 6). Sự tương 
quan giữa DN4 và VAS có thể giải thích là do 
DN4 càng cao thì nhiều khả năng bệnh nhân có 
đau thần kinh, và như đã biết điểm đau VAS cao 
hơn ở bệnh nhân có đau thần kinh(12,13). 
Bảng 6: Sự tương quan giữa điểm đau thần kinh với 
điểm mức độ đau 
Tác giả (năm) 
Thang đau 
thần kinh 
Thang mức độ 
đau 
Kết quả 
Sonohata M 
(Nhật Bản, 
2013)
(5)
painDETECT 
VAS (hiện tại và 
tệ nhất trong 4 
tuần qua) 
r=0,264; 
p=0,223 
r=0,048; 
p=0,828 
Gursoy AE (Thổ 
Nhĩ Kỳ, 2013)
(3)
LANSS VAS 
r=0,712; 
p <0,001 
Dandinoglu T 
(Thổ Nhĩ Kỳ, 
2016)
(14)
DN4 
LANSS 
VAS 
VAS 
r=0,279; 
p=0,063 
r=0,521; 
p=0,001 
Ceceli E (Thổ 
Nhĩ Kỳ, 2018)
(11)
PainDETECT 
LANSS 
VAS 
VAS 
r=0,439; 
p <0,001 
r=0,339; 
p=0,004 
Chúng tôi 
(2020) 
DN4 
VAS (hiện tại và 
tệ nhất trong 4 
tuần qua) 
r=0,475; 
p <0,001 
r=0,455; 
p <0,001 
S tng quan gia im DN4 vi 
im Boston 
Bảng 7: Sự tương quan giữa điểm đau thần kinh với 
điểm độ nặng lâm sàng theo các tác giả 
Tác giả 
(năm) 
Thang đau 
thần kinh 
Thang đánh 
giá lâm sàng 
Kết quả 
Sonohata M 
(2013)
(
5
)
painDETECT DASH 
r=0,419, 
p <0,05 
Dandinoglu 
T (2016)
(14)
DN4 
Boston-SSS 
r=0,239, 
p=0,132 
Boston-FSS 
r=0,213, 
p=0,182 
LANSS 
Boston-SSS 
r = 0,301, 
p=0,056 
Boston-FSS 
r=0,223, 
p=0,162 
Ceceli E 
(2018)
(11)
LANSS DHI 
r=0,232, 
p=0,050 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 19
painDETECT DHI 
r=0,533, 
p <0,001 
Chúng tôi 
(2020) 
DN4 Boston-SSS 
r=0,473, p 
<0,001 
DN4 Boston-FSS 
r=0,467, 
p <0,001 
Kết quả của chúng tôi có điểm chung với 
Sonohata M (Nhật Bản, 2013)(5), Ceceli E (Thổ 
Nhĩ Kỳ, 2018)(11) (Bảng 7). Sự tương quan giữa 
điểm đau thần kinh và điểm mức độ nặng lâm 
sàng hội chứng ống cổ tay có thể được giải thích 
là do với điểm DN4 càng cao thì nhiều khả năng 
bệnh nhân có đau thần kinh. Những bệnh nhân 
có đau thần kinh có trải nghiệm mức độ đau 
nặng hơn, ảnh hưởng đến hoạt động chức năng 
cũng như chất lượng cuộc sống nhiều hơn do đó 
thường gây ra tình trạng nặng về triệu chứng 
cũng như chức năng bàn tay trên lâm sàng(11,13). 
Tuy nhiên do DN4 là thang điểm sàng lọc trong 
khi Boston là thang điểm mức độ do đó giữa hai 
thang điểm này có mối tương quan yếu. 
KẾT LUẬN 
Từ kết quả nghiên cứu đau thần kinh ở 112 
bàn tay của 66 bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ 
tay tại Phòng khám Quốc tế EXSON từ tháng 01 
năm 2020 cho đến hết tháng 04 năm 2020, chúng 
tôi rút ra một số kết luận sau: 
- Tỉ lệ đau thần kinh chiếm 40,9% bệnh nhân 
mắc hội chứng ống cổ tay. Khảo sát theo bàn tay, 
tỉ lệ này là 33,9%. 
- Không có mối liên quan giữa các yếu tố 
nhân khẩu học (tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, 
BMI, bên), thời gian mắc hội chứng ống cổ tay 
với đau thần kinh. Tỉ lệ đau thần kinh ở bệnh 
nhân mắc hội chứng ống cổ tay 2 bên cao hơn có 
ý nghĩa so với 1 bên. Test Tinel và Phalen (+) ở 
những bàn tay có đau thần kinh cao hơn có ý 
nghĩa so với những bàn tay không có đau thần 
kinh. Mức độ đau, mức độ nặng triệu chứng và 
chức năng ở những bàn tay có đau thần kinh cao 
hơn có ý nghĩa so với những bàn tay không có 
đau thần kinh. Có mối liên quan giữa mức độ 
nặng trên chẩn đoán điện với đau thần kinh. 
- Có mối tương quan giữa điểm đau thần 
kinh DN4 với điểm đau VAS và điểm Boston. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dieleman JP, Kerklaan J, Huygen FJPM, et al (2008). Incidence 
rates and treatment of neuropathic pain conditions in the 
general population. Pain, 137(3):681-688. 
2. Alagöz AN, Aras Y, Acar BA, et al (2019). Comparison of 
Severity of Pain and Electrophysiological Severity Degree in 
Patients with Carpal Tunnel Syndrome. Bosphorus Medical 
Journal, 6(1):1-8. 
3. Gürsoy AE, Kolukisa M, Yildiz GB, et al (2013). Relationship 
between electrodiagnostic severity and neuropathic pain 
assessed by the LANSS pain scale in carpal tunnel syndrome. 
Neuropsychiatric Disease and Treatment, 9:65. 
4. Oteo-Álvaro Á, Marín MT, et al (2018). Predictive factors of the 
neuropathic pain in patients with carpal tunnel syndrome and 
its impact on patient activity. Pain Management, 8(6):455-463. 
5. Sonohata M, Tsuruta T, Mine H, et al (2013). The relationship 
between neuropathic pain, and the function of the upper limbs 
based on clinical severity according to electrophysiological 
studies in patients with carpal tunnel syndrome. The open 
Orthopaedics Journal, 7:99. 
6. Sonohata M, Tsuruta T, Mine H, et al (2014). Clinical 
characteristics of neuropathic pain in patients with carpal tunnel 
syndrome. Hand Surgery, 19(01):43-48. 
7. Sonohata M, Tsuruta T, Mine H, et al (2017). The effect of carpal 
tunnel release on neuropathic pain in carpal tunnel syndrome. 
Pain Research and Management, 2017(1):1-8. 
8. Turgut ST, İçağasıoğlu A, Selimoğlu E, et al (2013). The 
relationship between electrodiagnostic findings and the DN4 
questionnaire in patients with carpal tunnel syndrome. Journal of 
Musculoskeletal Pain, 21(1):19-22. 
9. AAN (1993). Practice parameter for carpal tunnel syndrome 
(summary statement). Report of the Quality Standards 
Subcommittee of the American Academy of Neurology. 
Neurology, 43 (11):2406-2409. 
10. Werner RA, Andary M, et al (2011). Electrodiagnostic evaluation 
of carpal tunnel syndrome. Muscle & Nerve, 44(4):597-607. 
11. Ceceli E, Gumruk S, Okumus M, et al (2018). Comparison of 2 
methods of neuropathic pain assessment in carpal tunnel 
syndrome and hand functions. Neurosciences, 23(1):23-28. 
12. Colloca L, Ludman T, Bouhassira D, et al (2017). Neuropathic 
pain. Nature reviews Disease primers, 3:17002. 
13. Inoue S, Taguchi T, Yamashita T, et al (2017). The prevalence 
and impact of chronic neuropathic pain on daily and social life: 
a nationwide study in a Japanese population. European Journal of 
Pain, 21(4):727-737. 
14. Dandinoğlu T, Karadeniz M, Yilmaz V, et al (2016). Evaluating 
neuropathic complaints by DN4 and LANSS scales after local 
corticosteroid therapy in carpal tunnel syndrome. Journal of Back 
and Musculoskeletal Rehabilitation, 29(3):575-580. 
Ngày nhận bài báo: 10/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfdau_than_kinh_o_benh_nhan_mac_hoi_chung_ong_co_tay.pdf