Dấu hiệu trầm cảm, ý tưởng hành vi tự sát của sinh viên Đại học Y Hà Nội và các yếu tố liên quan năm học 2018-2019

Đặt vấn đề: rối loạn trầm cảm là một trong những vấn đề sức khoẻ gây ra gánh nặng bệnh tật đáng chú

ý trên toàn thế giới cũng như ở Việt Nam, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân, đặc biệt là sinh viên

khối ngành sức khỏe. Mục tiêu: xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm, tỷ lệ có ý tưởng hoặc hành vi tự sát và các

yếu tố liên quan trên sinh viên năm đầu và năm cuối của Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2018 - 2019.

Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 1723 sinh viên sử dụng bộ câu hỏi Patient Health

Questionaire 9. Kết quả cho thấy tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở sinh viên là 17,4% (95% CI: 15,6% - 19,4%) tỷ lệ

có ý tưởng hành vi tự sát là 26,2% (95% CI: 24,12% - 28,48%). Khả năng có dấu hiệu trầm cảm cao hơn có

ý nghĩa thống kê ở nhóm sinh viên có gánh nặng tài chính (PR = 2,07; 95% CI: 1,53 - 2,81), nhóm có nhiều

hơn ba anh chị em trong gia đình (PR = 1,78; 95% CI: 1,08 - 2,93), bản thân có tiền sử bệnh mạn tính (PR =

1,44; 95% CI: 1,09 - 1,89). Khả năng có ý tưởng hành vi tự sát cao hơn ở nữ giới (PR = 0,69; 95% CI: 0,55

- 0,84), nhóm có gánh nặng tài chính (PR = 1,39; 95 % CI: 1,09 - 1,78), bản thân có tiền sử bệnh mạn tính

(PR = 1,70; 95% CI: 1,39 - 2,09). Kết luận: tỷ lệ trầm cảm và tỷ lệ có ý tưởng hoặc hành vi tự sát ở sinh viên

cho thấy nhu cầu rõ ràng cần cải thiện môi trường và hệ thống hỗ trợ tâm lý cho sinh viên tại cơ sở đào tạo.

pdf 12 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Dấu hiệu trầm cảm, ý tưởng hành vi tự sát của sinh viên Đại học Y Hà Nội và các yếu tố liên quan năm học 2018-2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu hiệu trầm cảm, ý tưởng hành vi tự sát của sinh viên Đại học Y Hà Nội và các yếu tố liên quan năm học 2018-2019

Dấu hiệu trầm cảm, ý tưởng hành vi tự sát của sinh viên Đại học Y Hà Nội và các yếu tố liên quan năm học 2018-2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
162 TCNCYH 128 (4) - 2020
Tác giả liên hệ: Bùi Mai Thi,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 24/03/2020
Ngày được chấp nhận: 25/04/2020
DẤU HIỆU TRẦM CẢM, Ý TƯỞNG HÀNH VI TỰ SÁT CỦA SINH 
VIÊN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
NĂM HỌC 2018 - 2019
 Bùi Mai Thi , Lê Đại Minh, Nguyễn Tiến Đạt, Đặng Thị Diễm Quỳnh, 
Nguyễn Thị Thu Trang, Phạm Thanh Tùng, Kim Bảo Giang
¹Trường Đại học Y Hà Nội, Việt Nam, 
Đặt vấn đề: rối loạn trầm cảm là một trong những vấn đề sức khoẻ gây ra gánh nặng bệnh tật đáng chú 
ý trên toàn thế giới cũng như ở Việt Nam, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân, đặc biệt là sinh viên 
khối ngành sức khỏe. Mục tiêu: xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm, tỷ lệ có ý tưởng hoặc hành vi tự sát và các 
yếu tố liên quan trên sinh viên năm đầu và năm cuối của Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2018 - 2019. 
Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 1723 sinh viên sử dụng bộ câu hỏi Patient Health 
Questionaire 9. Kết quả cho thấy tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở sinh viên là 17,4% (95% CI: 15,6% - 19,4%) tỷ lệ 
có ý tưởng hành vi tự sát là 26,2% (95% CI: 24,12% - 28,48%). Khả năng có dấu hiệu trầm cảm cao hơn có 
ý nghĩa thống kê ở nhóm sinh viên có gánh nặng tài chính (PR = 2,07; 95% CI: 1,53 - 2,81), nhóm có nhiều 
hơn ba anh chị em trong gia đình (PR = 1,78; 95% CI: 1,08 - 2,93), bản thân có tiền sử bệnh mạn tính (PR = 
1,44; 95% CI: 1,09 - 1,89). Khả năng có ý tưởng hành vi tự sát cao hơn ở nữ giới (PR = 0,69; 95% CI: 0,55 
- 0,84), nhóm có gánh nặng tài chính (PR = 1,39; 95 % CI: 1,09 - 1,78), bản thân có tiền sử bệnh mạn tính 
(PR = 1,70; 95% CI: 1,39 - 2,09). Kết luận: tỷ lệ trầm cảm và tỷ lệ có ý tưởng hoặc hành vi tự sát ở sinh viên 
cho thấy nhu cầu rõ ràng cần cải thiện môi trường và hệ thống hỗ trợ tâm lý cho sinh viên tại cơ sở đào tạo.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe tâm thần hiện đang gây gánh 
nặng bệnh tật toàn cầu đáng kể và ảnh hưởng 
xấu tới chất lượng cuộc sống chung của con 
người.1 Theo Tổ chức Y tế thế giới, tỷ lệ trầm 
cảm toàn cầu năm 2015 là 4,4%, với 322 triệu 
người trên thế giới sống với trầm cảm.2 Nghiên 
cứu gánh nặng bệnh tật toàn cầu đã thống kê 
được tỉ lệ mắc hội chứng trầm cảm trong giai 
đoạn 2005 - 2015 tăng lên.3
Đa số sinh viên đại học, phải đối mặt với 
các yếu tố gây căng thẳng khác nhau như yêu 
cầu học tập, áp lực thời gian và xã hội. Đặc biệt 
đối với sinh viên y khoa, gánh nặng này còn 
lớn hơn do khối lượng học tập lớn, áp lực của 
môi trường học tập trong lâm sàng.4 Tỉ lệ trầm 
cảm, triệu chứng trầm cảm và ý tưởng hành vi 
tự sát trong sinh viên y khoa tại 43 nước trên 
thế giới là 27,2% và có ý tưởng hành vi tự sát 
là 11,1%.5 Nghiên cứu trên 7.357 sinh viên y 
khoa theo học tại tất cả 41 trường y ở Hàn 
Quốc sử dụng thang đo trầm cảm Beck (Beck 
Depression Inventory BDI) cho thấy tỷ lệ trầm 
cảm là 9,4%.6 Ở một nghiên cứu khác trên 487 
sinh viên y khoa năm nhất từ Đại học Trung 
Nam, Trung Quốc sử dụng thang đo tự đánh 
giá về trầm cảm, rối loạn cơ thể cho thấy tỷ lệ 
trầm cảm là 5,6%.7
Tại Việt Nam, nghiên cứu trên 2099 sinh 
viên đa khoa của 8 trường Đại học Y trong cả 
nước sử dụng thang đo CES - D (The Centre for 
Epidemiological Studies - Depression Scale), 
cho thấy tỷ lệ sinh viên nguy cơ bị trầm cảm lên 
Từ khoá: Sinh viên y, trầm cảm, tự sát, yếu tố liên quan.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
163TCNCYH 128 (4) - 2020
tới 43,2%.⁸ Nghiên cứu khác ở sinh viên Đại 
học Y Hà Nội ở bác sĩ đa khoa có các vấn đề 
về sức khỏe tâm thần là 10,2%⁹ và 15,2%, có 
sự khác biệt về tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên giữa 
các năm học.10,11
Những nghiên cứu trên sinh viên y dược đã 
chỉ ra mối liên quan giữa ý tưởng, hành vi tự 
sát, rối loạn trầm cảm với nhiều yếu tố khác. 
Tuy nhiên, chưa đề cập đến sinh viên thuộc các 
ngành khác nhau của trường y như Cử nhân 
cũng như chưa đề cập nhiều đến tỷ lệ sinh viên 
y có ý tưởng hoặc hành vi tự sát. Vì vậy, chúng 
tôi thực hiện nghiên cứu này trên toàn bộ các 
sinh viên năm đầu, năm cuối của tất cả các 
ngành đào tạo tại Đại học Y Hà Nội với mục 
tiêu: (1) Xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm và ý 
tưởng hoặc hành vi tự sát của sinh viên đại học 
Y Hà Nội năm học 2018 - 2019; (2) Phân tích 
một số yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm, ý 
tưởng hoặc hành vi tự sát của sinh viên Trường 
Đại học Y Hà Nội. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Sinh viên năm đầu và năm cuối (năm thứ 4 
đối với hệ Cử nhân, năm thứ 6 đối với hệ Bác 
sĩ) đang theo học tại Trường Đại học Y Hà Nội 
vào năm học 2018 - 2019.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Cỡ mẫu và chọn mẫu:
Toàn bộ sinh viên Trường Đại học Y Hà 
Nội năm đầu và năm cuối đang theo học các 
chương trình: Bác sĩ Đa khoa, Y học Cổ truyền, 
Y học Dự phòng, Răng Hàm Mặt và cử nhân 
Điều dưỡng, Dinh dưỡng, Khúc xạ nhãn khoa, 
Xét nghiệm Y học, Y tế Công cộng. 
Công cụ nghiên cứu:
Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi Patient 
Health Questionnaire 9 (PHQ - 9) để đánh giá 
tình trạng trầm cảm và ý tưởng, hành vi tự sát. 
Bộ PHQ - 9 gồm 9 câu hỏi đã được phát triển 
bởi Robert L. Spitzer và cộng sự.12 Bộ công 
cụ này đã được dịch ra tiếng Việt và đánh giá 
giá trị khi sử dụng tại Viêệtt Nam thông qua 
nghiên cứu của nhiều tác giả.13,14 Với mỗi câu 
hỏi, người tham gia nghiên cứu sẽ có 4 sự lựa 
chọn theo mức độ tương ứng với các điểm: 0 
= không có, 1 = vài ngày, 2 = quá nửa số ngày 
trong tuần, 3 = hầu như mọi ngày. Tổng điểm 
dao động từ 0 đến 27.
Các biến số nghiên cứu:
 - Các yếu tố liên quan đến học tập: (1) Hệ 
đào tạo (Bác sĩ/Cử nhân); (2) Năm học (Năm 
đầu/Năm cuối); (3) Kết quả học tập của học kì 
gần nhất (Giỏi/Khá/Trung bình, Yếu/Cchưa xếp 
loại).
 - Các yếu tố liên quan đến nhân khẩu học: 
(1) Giới tính (Nam/Nữ/Khác); (2) Dân tộc (Kinh/
Khác); (3) Chỉ số khối cơ thể (BMI): tính theo 
công thức BMI = cân nặng/(chiều cao)2; dựa 
trên chỉ số BMI, chia thành 3 nhóm gồm < 18,5 
(Thiếu năng lượng trường diễn)/18,5 - 24,9 
(Bình thường)/ ≥ 25 (Thừa cân); (4) Con thứ 
mấy trong gia đình (Con đầu/Con thứ); (5) Số 
anh chị em trong gia đình(≤ 3/ > 3); (6) Hiện 
tại đang sống cùng [Sống một mình/Sống cùng 
người thân (bố, mẹ, anh chị em ruột)/Bạn bè/
Khác]; (7) Tình hình tài chính theo đối tượng 
cảm nhận (Có gánh nặng tài chính/Không có 
gánh nặng tài chính); (8) Gia đình thuộc đối 
tượng được hỗ trợ xã hội (Có/Không).
 - Tiền sử mắc bệnh: (1) Tiền sử mắc bệnh 
của bản thân (Không bệnh/Có mắc bệnh mạn 
tính, tâm thần khác); (2) Tiền sử mắc bệnh tâm 
thần kinh của gia đình theo chẩn đoán nhân 
viên Y tế (Có/Không)
 - Tình trạng sức khoẻ tâm thần: Trầm cảm 
(Có/Không): được xác định trầm cảm (Có/
Không). Trong nghiên cứu này sinh viên có 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
164 TCNCYH 128 (4) - 2020
mức điểm PHQ - 9 ≥ 10 được xem như có 
trầm cảm 15. Ý tưởng hành vi tự sát (Có/Không): 
được xác định có ý tưởng, hành vi tự sát nếu 
điểm câu thứ 9 trong bộ câu hỏi PHQ - 9 ≥ 1.
Quá trình thu thập số liệu:
Các câu hỏi phỏng vấn được đưa lên phần 
mềm thu thập thông tin trên máy tính bảng tại 
Trung tâm Khảo thí và Đảm bảo Chất lượng của 
trường Đại học Y Hà Nội. Sau khi hoàn thành 
phần thi trên máy tính, các sinh viên được tham 
gia trả lời câu hỏi nghiên cứu với sự hướng dẫn 
qua hệ thống loa cũng như sự hỗ trợ trực tiếp 
từ nghiên cứu viên tại các phòng.
3. Phân tích số liệu 
Số liệu được trích xuất từ hệ thống thu thập 
trên máy tính bảng, sau đó được làm sạch và 
phân tích bằng STATA 15.1. Thống kê mô tả 
bao gồm các ước tính về trung bình, trung vị, 
độ lệch chuẩn của các biến định lượng và tần 
số, tỷ lệ phần trăm của các biến định tính. Phân 
tích mối liên quan được thực hiện qua mô hình 
hồi quy Poisson đa biến. Mức ý nghĩa 𝝰 < 0,05 
được áp dụng. Do tỷ lệ có biểu hiện trầm cảm ở 
nghiên cứu này cao, phân tích hồi quy logistic 
sẽ dẫn đến đánh giá quá mức mối liên quan 
của biến phụ thuộc với các biến độc lập15,16. 
Trong trường hợp này, sử dụng mô hình phân 
tích hồi quy log - binominal để ước tính trực tiếp 
Prevalence Ratios (PRs) từ dữ liệu sẽ hiệu quả 
hơn nhưng loại mô hình này thường gặp vấn 
đề về hội tụ (convergence) và không cho ra kết 
quả 17. Tuy nhiên, Zou và Barros cùng các cộng 
sự thấy rằng mô hình hồi quy Poisson với sai 
số được điều chỉnh khi dùng cho biến đầu ra là 
biến nhị phân có thể tính được PRs15,16. Chen 
và cộng sự đã cho thấy hai mô hình hồi quy 
Poisson và hồi quy log - binominal cho ra các 
kết quả tương đương 18. Do đó, chúng tôi đã sử 
dụng mô hình hồi quy Poisson với sai số được 
điều chỉnh để tính chỉ số PRs của nghiên cứu 
và tìm ra các yếu tố liên quan với kết quả chúng 
tôi quan tâm.
8. Đạo đức nghiên cứu:
Số liệu trong nghiên cứu này là một phần 
của nghiên cứu trên 10 trường Đại học trên 
địa bàn Hà Nội, đã được thông qua Hội đồng 
đạo đức trong nghiên cứu y sinh học của 
Trường Đại học Y tế công cộng ban hành theo 
quyết định số 430/2018/YTCC - HD3 ngày 
27/09/2018. Nghiên cứu đảm bảo mọi nguyên 
tắc đạo đức trong nghiên cứu y sinh học. Sự 
tham gia của các sinh viên là hoàn toàn tự 
nguyện.
III. KẾT QUẢ 
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Theo kết quả từ bảng 1, nghiên cứu tiếp cận 
được 1723 sinh viên với 737 (42,9%) sinh viên 
nam và 981 (57,1%) sinh viên nữ. Trong đó có 
1512 (87,8%) sinh viên trả lời tất cả các câu hỏi 
trong bộ khảo sát. Số nam sinh viên hệ bác sĩ 
là 92,4% chiếm tỷ lệ cao hơn so với số nam cử 
nhân là 7,6%. Trong số sinh viên nam tham gia 
nghiên cứu có 52,5% sinh viên năm đầu 47,5%. 
Số nam sinh viên có xếp loại học tập giỏi là 
5,3%, xếp loại học tập khá là 34,3%. Số nữ sinh 
viên có xếp loại học tập giỏi chiếm 4,8%, xếp 
loại học tập khá là 28,6%. Về dân tộc, đa số 
các sinh viên là dân tộc Kinh, trong đó nam dân 
tộc Kinh chiếm 96%, nữ dân tộc Kinh là 93%. 
Có 13,6% sinh viên nam và 24,9% sinh viên nữ 
có mức BMI < 18,5. Đa số các nam và nữ sinh 
viên hiện đang sống cùng bạn bè (48% nam và 
56,9% nữ). Về tiền sử bệnh tật, 41,2% sinh viên 
nam và 45% nữ sinh viên có tiền sử mắc bệnh 
mãn tính. 2,6% sinh viên nam và 2,4% sinh viên 
nữ trả lời gia đình có tiền sử mắc bệnh tâm 
thần.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
165TCNCYH 128 (4) - 2020
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Biến số Nam n(%)
Nữ 
n (%)
Tổng 
n (%)
Tỷ lệ trả 
lời n (%)
Chung n (%) 737 (42,9) 981 (57,1) 1718 (100,0) 1718 (99,7)
Hệ Đào Tạo
Bác Sĩ 681 (92,4) 676 (68,9) 1357 (79,0)
1723 (100)
Cử Nhân 56 (7,6) 305 (31,1) 361 (21,0)
Năm học Năm Đầu 387 (52,5) 616 (62,8) 1003 (58,4)
1723 (100)
 Năm Cuối 350 (47,5) 365 (37,2) 715 (41,6)
Xếp loại học tập Giỏi 39 (5,3) 47 (4,8) 86 (5,0)
1717 
(99,7)
 Khá 252 (34,3) 279 (28,6) 531 (31,0)
 Trung bình, Yếu 64 (8,7) 38 (3,9) 102 (6,0)
 Chưa xếp loại [1] 380 (51,7) 613 (62,7) 993 (58,0)
Dân tộc Kinh 704 (96,0) 911 (93,0) 1615 (94,3) 1716 
(99,6) Dân tộc khác 29 (4,0) 69 (7,0) 98 (5,7)
Số anh chị em 
trong gia đình
≤ 3 578 (97,0) 813 (95,6) 1391 (96,2) 1447 
(84,0) > 3 18 (3,0) 37 (4,4) 55 (3,8)
BMI < 18,5 94 (13,6) 260 (28,1) 354 (21,9)
1617 
(93,8) 18,5 - 24,9 526 (76,2) 645 (69,7) 1171 (72,5)
 > 24,9 70 (10,1) 20 (2,2) 90 (5,6)
Hiện đang sống 
cùng ai Sống một mình 144 (19,6) 89 (9,1) 233 (13,6)
1715 
(99,5)
 Sống cùng bố mẹ, anh/chị/em ruột 225 (30,7) 300 (30,7) 525 (30,7)
 Sống cùng bạn bè 352 (48,0) 556 (56,9) 908 (53,1)
Khác 12 (1,6) 33 (3,4) 45 (2,6)
Tình hình tài 
chính
Có gánh nặng tài 
chính 104 (14,5) 125 (13,0) 229 (13,7) 1679 
(97,4)
 Không có gánh nặng tài chính 612 (85,5) 835 (87,0) 1447 (86,3)
Gia đình thuộc 
đối tượng trợ 
cấp xã hội 
Không 525 (74,6) 744 (78,7) 1269 (77,0) 1653 
(95,9)Có 179 (25,4) 201 (21,3) 380 (23,0)
Tiền sử bệnh 
bản thân Không mắc bệnh 410 (58,8) 507 (55,0) 917 (56,6) 1623
(94,2)
 Có mắc bệnh mạn tính, tâm thần khác 287 (41,2) 415 (45,0) 702 (43,4)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
166 TCNCYH 128 (4) - 2020
Biến số Nam n(%)
Nữ 
n (%)
Tổng 
n (%)
Tỷ lệ trả 
lời n (%)
Tiền sử bệnh 
tâm thần của 
gia đình
Có 19 (2,6) 24 (2,4) 43 (2,5)
1723(100)Không 637 (86,4) 877 (89,4) 1514 (88,1)
Không biết/Không 
trả lời 81 (11,0) 80 (8,2) 161 (9,4)
2. Phân bố tỷ lệ trầm cảm theo đặc điểm đối tượng: 
Bảng 2. Phân bố biểu hiện trầm cảm theo một số đặc điểm về học tập, nhân khẩu học và 
tiền sử bệnh
Biến số N
Dấu hiệu trầm cảm
pSố có dấu 
hiệu (n)
%
Chung 1512 263 17,4 
Hệ Đào tạo*
 Bác Sĩ 1212 223 18,4 
0,04 Cử Nhân 300 40 13,3
Năm học
 Năm đầu 882 149 16,9 
0,54 Năm cuối 630 114 18,1
Xếp loại học tập
 Giỏi 82 15 18,3 
0,55
 Khá 464 80 17,2
 Trung bình, Yếu 87 20 23,0
 Chưa xếp loại 876 148 16,9
Giới tính*
 Nam 645 130 20,2 
0,02 Nữ 864 133 15,4
Số anh chị em trong gia 
đình*
 ≤ 3 1243 184 14,8 
0,02 > 3 47 13 27,7
BMI
 < 18.5 302 43 14,2 
0,37
 18.5 - 24.9 1052 186 17,7
 > 24.9 78 13 16,7
Gánh nặng tài chính*
Có 193 62 32,1 
 < 
0.01Không 1311 200 15,3
Gia đình thuộc đối 
tượng trợ cấp xã hội*
 Không 1139 170 14,9 
 < 
0.01 Có 323 86 26,6
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
167TCNCYH 128 (4) - 2020
Biến số N
Dấu hiệu trầm cảm
pSố có dấu 
hiệu (n)
%
Tiền sử bệnh của bản 
thân*
Không 827 127 15,4 
0,01Có 628 128 20,4
Tiền sử mắc bệnh tâm 
thần của gia đình*
 Có 36 4 11,1
0,01
 Không 1366 228 16,7
 Không biết/Không 
trả lời
110 31 28,2
Theo kết quả từ bảng 2, tỷ lệ sinh viên có biểu hiện trầm cảm là 17,4% (95% CI; 15,6% - 19,4%). 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) giữa các nhóm của Hệ Đào tạo, giới tính, số anh em 
trong gia đình, gánh nặng tài chính, gia đình là đối tượng nhận trợ cấp xã hội, tiền sử bệnh bản thân 
và tiền sử bệnh tâm thần của gia đình. Cụ thể, tỷ lệ biểu hiện trầm cảm của sinh viên khối Bác Sĩ cao 
hơn so với khối Cử Nhân (18,4% với 13,3%); ở nam cao hơn ở nữ (20,2% so với 15,4%); ở sinh 
viên gia đình có nhiều hơn ba anh chị em (27,7%) cao hơn so với sinh viên gia đình có từ ba anh 
chị em trở xuống (27,7% so với 14,8%); ở sinh viên có gánh nặng tài chính cao hơn sinh viên không 
có gánh nặng tài chính (32,1% so với 15,3%); ở sinh viên thuộc gia đình là đối tượng nhận trợ cấp 
xã hội cao hơn sinh viên không thuộc đối tượng này (26,6% so với 14,9%). 
3. Phân bố tỷ lệ có ý tưởng, hảnh vi tự sát theo đặc điểm đối tượng:
Bảng 3. Phân bố của tỷ lệ có ý tưởng, hành vi tự sát theo một số đặc điểm về học tập, nhân 
khẩu học và tiền sử bệnh.
Biến số N
Ý tưởng, hành vi tự sát
p
Số có dấu hiệu (n) %
Chung 1566 411 26,2 
Trầm cảm 
Không Trầm cảm 1249 179 14,3 
 < 
0,01Trầm cảm 263 207 78,7
Hệ Đào tạo
Bác Sĩ 1246 340 27,3 
0,06Cử Nhân 320 71 22,2
Năm học
Năm đầu 915 224 24,5 
0,06Năm cuối 651 187 28,7
Xếp loại học tập
Giỏi 84 25 29,8 
0,31
Khá 479 136 28,4
Trung bình, Yếu 91 27 29,7
Chưa xếp loại 909 223 24,5
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
168 TCNCYH 128 (4) - 2020
Biến số N
Ý tưởng, hành vi tự sát
p
Số có dấu hiệu (n) %
Dân tộc
Kinh 1469 391 26,6 
0,19Dân tộc khác 93 19 20,4
Giới tính
Nam 661 201 30,4 
 < 
0,01Nữ ... ệnh 
mạn tính
654 215 32,9
 < 
0,01
Tiền sử mắc bệnh 
tâm thần của gia 
đình
Có 37 8 21,6 
Không 1416 368 26,0 
Không biết/Không 
trả lời
113 35 31,0 0,41
Theo kết quả bảng 3, tỷ lệ sinh viên có ý tưởng hoặc hành vi tự sát là 26,2%. Tỷ lệ sinh viên có ý 
tưởng hoặc hành vi tự sát ở nhóm sinh viên có biểu hiện trầm cảm cao hơn rõ rệt so với nhóm sinh 
viên không có biểu hiện trầm cảm (78,7% so với 14,3%); ở nhóm sinh viên nam cao hơn sinh viên 
nữ (30,4% so với 23,2%); ở nhóm gia đình có nhiều hơn ba anh chị em cao hơn so với sinh viên gia 
đình có từ ba anh chị em trở xuống (36,7% so với 23,4%); ở sinh viên có gánh nặng tài chính cao 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
169TCNCYH 128 (4) - 2020
hơn sinh viên không có gánh nặng tài chính (36,1% so với 24,6%); ở nhóm sinh viên thuộc gia đình 
là đối tượng nhận trợ cấp xã hội cao hơn sinh viên không thuộc đối tượng này (36,2% so với 23,7%); 
ở nhóm sinh viên có tiền sử bệnh mạn tính cao hơn sinh viên không có (20,4% so với 15,4%).
4. Mối liên quan giữa biểu hiện trầm cảm, ý tưởng/hành vi tự sát với một số đặc điểm:
Bảng 4. Tỉ số hiện mắc (PR) từ phân tích hồi quy Poisson về mối liên quan giữa biểu hiện 
trầm cảm, ý tưởng/ hành vi tự sát với một số đặc điểm dân số xã hội và y tế
Đặc điểm
Trầm cảm Ý tưởng hành vi tự sát
PR (95% CI) PR (95% CI)
Hệ đào tạo 
Bác sĩ TK TK
Cử nhân 0,76 (0,51 – 1,15) 0,76 (0,51 – 1,15)
Năm học 
Năm đầu TK TK
Năm cuối 1,04 (0,79 – 1,37) 1,1 (0,90 – 1,34)
Giới tính
Nam TK TK
Nữ 0,76 (0,58 – 1,01) 0,69 (0,56 – 0,84)
Số anh chị em trong gia 
đình 
≤ 3 TK TK
 > 3 1,78 (1,08 – 2,93) 1,29 (0,86 – 1,94)
Dân tộc 
Kinh TK TK
Khác 0,86 (0,46 – 1,63) 0,68 (0,39 – 1,18)
Gánh nặng tài chính
Không TK TK
Có 2,07 (1,53 – 2,81) 1,39 (1,09 – 1,78)
Tiền sử bệnh bản thân 
Không TK TK
Có 1,43 (1,09 – 1,89) 1,70 (1,39 – 2,09)
Tiền sử bệnh gia đình
Không tiền sử TK TK
Có tiền sử 0,42 (0,12 – 1,55) 0,67 (0,30 – 1,50)
Theo kết quả bảng 4, trong mô hình hồi qua 
đa biến Poisson đối với biến biểu hiện trầm 
cảm, các biến có liên quan mật thiết với tỷ lệ 
trầm cảm ở sinh viên gồm số anh chị em trong 
gia đình (PR = 1,78; 95% CI: 1,08 – 2,93), sinh 
viên có gánh nặng tài chính (PR = 2,07, 95% 
CI: 1,53 – 2,81), tiền sử bệnh bản thân (PR = 
1,44; 95% CI: 1,09 – 1,89). Trong mô hình hồi 
quy đa biến Poisson với biến Có ý tưởng hành 
vi tự sát, các yếu tố có quan hệ mật thiết là 
giới tính (PR = 0,69; 95% CI: 0,55 – 0,84), gánh 
nặng tài chính (PR = 1,39; 95% CI: 1,09 – 1,78), 
tiền sử bệnh bản thân (PR = 1,70; 95% CI: 1,39 
– 2,09). 
IV. BÀN LUẬN
Tỷ lệ có biểu hiện trầm cảm ở sinh viên 
trong nghiên cứu này là 17,4%, phù hợp với 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Huyền Anh và cộng 
sự (15.2%) cũng sử dụng cùng bộ công cụ 
PHQ - 910,11 nhưng lại thấp hơn nhiều so với hai 
nghiên cứu khác của Trần Quỳnh Anh (43,2% 
và 38,9%) sử dụng bộ công cụ CES - D.8,19 Sự 
khác biệt lớn này có lẽ đến từ tính chất của 2 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
170 TCNCYH 128 (4) - 2020
bộ công cụ và cách chọn thang điểm đánh giá 
của tác giả. Theo hai nghiên cứu về ứng dụng 
của PHQ - 9 20và CES - D.21 Bộ công cụ CES 
- D được thiết kế để sàng lọc và hỗ trợ chăm 
sóc sức khỏe ban đầu, không có nhiều ý nghĩa 
lâm sàng trong chẩn đoán trầm cảm. Đồng thời, 
tại điểm đánh giá của tác giả Trần Quỳnh Anh 
đã chọn (CES - D ≥ 16), bộ công cụ CES - D 
có độ nhạy là 87% và độ đặc hiệu là 70%, và 
bộ công cụ này có thể có sự cân bằng giữa 
độ nhạy và độ đặc hiệu tốt hơn nếu chọn điểm 
đánh giá cao hơn (CES - D ≥ 20).21 Trong khi 
đó, bộ công cụ PHQ - 9 đã được kiểm định và 
cho thấy sự linh hoạt và chính xác trên nhiều 
quốc gia và nền văn hóa khác nhau, đồng thời 
có giá trị chẩn đoán tương đối tốt khi lấy 10 là 
mốc đánh giá trầm cảm với độ nhạy là 80% và 
độ đặc hiệu là 92%.20 
Về các yếu tố liên quan đến biểu hiện trầm 
cảm, trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Huyền 
Anh năm 2015 không cho thấy sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa giới tính với tỷ lệ trầm cảm 
ở sinh viên trường Đại học Y Hà Nội.10,11 Trong 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Vân năm 2014 có 
cho thấy tỷ lệ mắc trầm cảm ở sinh viên nam 
cao hơn sinh viên nữ nhưng sự khác biệt cũng 
không có ý nghĩa thống kê.9 Mặc dù mô hình 
hồi quy đa biến Poisson của nghiên cứu này 
cũng không chỉ ra mối liên quan mật thiết giữa 
giới tính và trầm cảm, nhưng vẫn cho thấy tỷ lệ 
mắc của sinh viên nam cao hơn tỷ lệ mắc của 
sinh viên nữ, khác với kết quả nghiên cứu trước 
của tác giả Trần Quỳnh Anh, cho thấy nữ giới 
có tỷ lệ trầm cảm nhiều hơn nam.8 
Các yếu tố liên quan đến bất lợi về kinh tế xã 
hội, điển hình là gánh nặng tài chính, làm tăng 
cao nguy cơ trầm cảm (PR = 2,07; 95% CI: 1,53 
- 2,81), tương đồng với các nghiên cứu khác, 
trong và ngoài nước ví dụ như nghiên cứu của 
Phạm Thanh Tùng (PR = 1,95; 95% CI: 1,39 – 
2,73),10,11 Trần Quỳnh Anh (OR = 2,05).8 Ngoài 
ra, các yếu tố liên quan đến tiền sử bệnh mạn 
tính của bản thân cũng liên quan tới trầm cảm, 
điều này có thể là do ảnh hưởng sức khỏe của 
bệnh mạn tính gây nên nhiều bất lợi trong sinh 
hoạt, có thể là nguy cơ gây ra trầm cảm. 
Tỷ lệ sinh viên có ý tưởng, hành vi tự sát 
trong nghiên cứu này là 26,2% cao hơn so với 
kết quả 8,7% trong nghiên cứu của Trần Quỳnh 
Anh và cộng sự tiến hành trên 2099 sinh viên 
của 8 trường Đại học Y Dược trên cả nước vào 
năm 2013,22 và cũng cao hơn rất nhiều hơn so 
với tỷ lệ 7,7% công bố bởi tác giả Phạm Thanh 
Tùng.10,11 Trong số các sinh viên có ý tưởng, 
hành vi tự sát; có gần 53,63% bị trầm cảm và 
78,71% sinh viên bị trầm cảm có xuất hiện ý 
tưởng và hành vi tự sát. Nghiên cứu của chúng 
tôi cũng chỉ ra việc có gánh nặng về tài chính là 
một yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ sinh viên có 
ý tưởng, hành vi tự sát lên gần 1,4 lần. Kết quả 
này cũng phù hợp với nghiên cứu của nhiều 
tác giả.8,10,11 Ý tưởng và hành vi tự sát ở nhóm 
nam cao gấp khoảng 1,45 lần so với nhóm nữ, 
trái ngược so với nghiên cứu của tác giả Trần 
Quỳnh Anh.8 Tiền sử bệnh mạn tính cũng là một 
yếu tố liên quan lớn tới ý tưởng hành vi tự sát 
ở sinh viên thể hiện bằng việc tỷ lệ này gấp 1,7 
lần (PR = 1,7; 95% CI: 1,39 - 2,09) ở những 
người đã từng mắc các bệnh mạn tính.
Nghiên cứu này được thực hiện trên toàn 
bộ sinh viên năm đầu và năm cuối của trường 
Đại học Y Hà Nội với cỡ mẫu lớn (1723) và tỷ lệ 
trả lời câu hỏi cao (87,8%) nên có thể phản ánh 
chính xác thực trạng sức khỏe tinh thần của 
sinh viên. Tuy nhiên nghiên cứu vẫn còn tồn tại 
nhiều hạn chế. Trước hết, thiết kế nghiên cứu 
là mô tả cắt ngang nên sẽ không làm rõ được 
mối quan hệ giữa các đại lượng. Thêm vào 
đó, nghiên cứu lấy mẫu ngay sau khi sinh viên 
hoàn thành bài thi của mình nhằm đạt được cỡ 
mẫu nghiên cứu lớn và tỷ lệ tham gia nghiên 
cứu cao, nhưng việc lo lắng về kết quả thi của 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
171TCNCYH 128 (4) - 2020
sinh viên trong thời điểm này cũng ít nhiều gây 
sai số cho kết quả nghiên cứu. Cuối cùng, các 
câu trả lời dựa trên thông tin sinh viên cung 
cấp, khó có thể kiểm chứng lại và việc xác định 
trầm cảm ở sinh viên chỉ dựa trên bộ câu hỏi có 
sẵn mà chưa có chẩn đoán chính xác từ bác sỹ 
chuyên ngành.
V. KẾT LUẬN
Năm học 2018 – 2019 ở sinh viên trường 
Đại học Y Hà Nội có tỉ lệ trầm cảm là 17,4% và 
tỉ lệ có ý tưởng hoặc hành vi tự sát là 26,2%. 
Các yếu tố có tỷ lệ trầm cảm và tỷ lệ có ý tưởng 
hoặc hành vi tự sát cao hơn ở nhóm sinh viên 
nam, có gánh nặng tài chính, và có tiền sử 
mắc các bệnh mạn tính, có liên quan chặt chẽ 
với cả tỷ lệ trầm cảm và tỷ lệ có ý tưởng hoặc 
hành vi tự sát ở sinh viên. Bên cạnh đó, tỷ lệ 
trầm cảm còn cao hơn ở các sinh viên có nhiều 
hơn ba anh chị em ruột và tỷ lệ có ý tưởng hoặc 
hành vi tự sát cao hơn ở sinh viên nam. Các kết 
quả này khá tương đồng với các nghiên cứu 
khác thực hiện trên sinh viên ngành Y ở Việt 
Nam các năm trước.
Như vậy, can thiệp nhằm hỗ trợ cải thiện 
môi trường học tập và sinh hoạt, cũng như hệ 
thống tư vấn hỗ trợ tâm lý kịp thời rất cần thiết 
và đòi hỏi sự quan tâm của cơ sở đào tạo. Các 
can thiệp cần chú ý đến những đối tượng có 
khả năng có vấn đề này lớn hơn như nhóm sinh 
viên có khó khăn về tài chính hay có bệnh mãn 
tính. 
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn đến Trung tâm 
khảo thí và Đảm bảo chất lượng đã tạo điều 
kiện để chúng tôi hoàn thành thu thập số liệu. 
Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới sinh viên 
của trường năm học 2018–2019 đã cung cấp 
thông tin để chúng tôi hoàn thành nghiên cứu 
này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rehm J, Shield KD. Global Burden of 
Disease and the Impact of Mental and Addictive 
Disorders. Current Psychiatry Reports. 
21(2):10. doi:https://doi.org/10.1007/s11920 - 
019 - 0997 - 0
2. World Health Organization. Depression 
and Other Common Mental Disorders. Geneva: 
WHO Document Production Services; 2017.
3. GBD 2015 Disease and Injury Incidence 
and Prevalence Collaborators. Global, regional, 
and national incidence, prevalence, and years 
lived with disability for 310 diseases and 
injuries, 1990–2015: a systematic analysis for 
the Global Burden of Disease Study 2015. The 
Lancet. 2016;338(10053):1545 - 1602.
4. Sreeramareddy CT Shankar, PR, Binu, V 
et al. Psychological morbidity, sources of stress 
and coping strategies among undergraduate 
medical students of Nepal. BMC Med Educ. 
2007;26(7):26.
5. Rotenstein LS, Ramos MA, Torre M, 
et al. Prevalence of Depression, Depressive 
Symptoms, and Suicidal Ideation Among 
Medical Students: A Systematic Review and 
Meta - Analysis. JAMA. 2016;316(21):2214 - 
2236. doi:10.1001/jama.2016.17324
6. Myoung - Sun Roh Hong Jin Jeon Hana 
Kim Hwa Jin Cho Sung Koo Han Bong 
- Jin Hahm. Factors influencing treatment 
for depression among medical students: a 
nationwide sample in South Korea. Medical 
Education. 2009;43(2):133 - 139.
7. Yanhui Liao, Natalie P. Knoesen, Yunlong 
Deng, et al. Body dysmorphic disorder, social 
anxiety and depressive symptoms in Chinese 
medical students. Social Psychiatry and 
Psychiatric Epidemiology. 2010;45(10):963 - 
971.
8. Trần Quỳnh Anh. Factors associated with 
mental health of medical students in Vietnam: 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
172 TCNCYH 128 (4) - 2020
a national study. 2015. https://eprints.qut.edu.
au/84851/.
9. Nguyễn Thị Vân. Thực trạng sức khỏe 
tâm thần và một số yếu tố liên quan của sinh 
viên trường Đại học Y Hà Nội năm 2014. 2015.
10. Nguyễn Thị Huyền Anh, Nguyễn Phúc 
Bình, Bùi Phương Linh và cộng sự. Đánh giá 
thực trạng trầm cảm của sinh viên khối Y4, Y5, 
Y6 hệ Bác sĩ Đa khoa Trường Đại học Y Hà Nội 
và một số yếu tố liên quan. Tạp chí Y học thực 
hành. 2017;5(1043):136 - 140.
11. Pham T., Bui L., Anh N. et al. The 
prevalence of depression and associated risk 
factors among medical students: An untold story 
in Vietnam. PLOS ONE. 2019;14(8):e0221432.
12. Kroenke K, Spitzer RL, Williams 
JBW. The PHQ - 9. J Gen Intern Med. 
2001;16(9):606 - 613. doi:10.1046/j.1525 - 
1497.2001.016009606.x
13. Đặng Duy Thanh. Đánh giá sơ bộ giá trị 
của Bảng hỏi sức khoẻ bệnh nhân (PHQ - 9) 
trong sàng lọc bệnh nhân trầm cảm. Y học thực 
hành. 2010;774:173 - 176.
14. Kim Bảo Giang. Đánh giá giá trị của 
bộ câu hỏi PHQ - 9 và PHQ - 9 sửa đổi trong 
chẩn đoán phát hiện trầm cảm tại cộng đồng 
và cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu. Báo cáo 
nghiên cứu. 2011.
15. Zou G. A modified poisson regression 
approach to prospective studies with binary 
data. American Journal of Epidemiology. 
2004;Volume 159(7):702–706.
16. Aluísio JD Barros, Vânia N Hirakata. 
Alternatives for logistic regression in cross - 
sectional studies: an empirical comparison of 
models that directly estimate the prevalence 
ratio. BMC Medical Research Methodology. 
2003;3(21):1 - 13.
17. Williamson T, Eliasziw M, Fick GH. Log - 
binomial models: exploring failed convergence. 
Emerg Themes Epidemiol. 2013;10(14):1 - 10.
18. Chen W, Qian L, Shi J, Franklin 
M. Comparing performance between log 
- binomial and robust Poisson regression 
models for estimating risk ratios under model 
misspecification. BMC Med Res Methodol. 
2018;18(63):1 - 12.
19. Trần Quỳnh Anh. Dấu hiệu trầm cảm ở 
sinh viên hệ y học dự phòng trường Đại Học 
Y Hà Nội và một số yếu tố liên quan. Tạp chí 
Nghiên cứu Y học. 2016;104(6):9 - 16.
20. Gilbody S., Richards D., Brealey S. et al, 
Richards D, Brealey S, Hewitt C. Screening for 
Depression in Medical Settings with the Patient 
Health Questionnaire (PHQ): A Diagnostic Meta 
- Analysis. J Gen Intern Med. 2007;22(11):1596 
- 1602. doi:10.1007/s11606 - 007 - 0333 - y
21. Vilagut G., Forero C.G., Barbaglia G. et 
al, Forero CG, Barbaglia G, Alonso J. Screening 
for Depression in the General Population with the 
Center for Epidemiologic Studies Depression 
(CES - D): A Systematic Review with Meta - 
Analysis. PLOS ONE. 2016;11(5):e0155431. 
doi:10.1371/journal.pone.0155431
22. Anh T.Q., Dunne M.P., Hoat L.N. Well 
- being, depression and suicidal ideation 
among medical students throughout vietnam. 
Vietnam Journal of Medicine and Pharmacy. 
2014;6(3):23 - 30.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
173TCNCYH 128 (4) - 2020
Summary
SIGNS OF DEPRESSION AND SUICIDE IDEATION AMONG 
STUDENTS AT HANOI MEDICAL UNIVERSITY AND ASSOCIATED 
FACTORS IN 2018 - 2019
Background: Mental health disorders, particularly depression, are becoming one of the health 
problems that cause noticeable burden worldwide as well as in Vietnam. It greatly affects people live, 
especially health science student. Objectives: to determine the rate of depression disorders, the rate 
of suicidal ideation or behavior and related factors among freshmen and seniors of Hanoi Medical 
University in the academic year 2018 - 2019. Methods: cross - sectional descriptive studies were 
conducted on 1723 students using the Patient Health Questionaire 9. Results: the rate of depressive 
disorder was 17.4% (95% CI: 15.6% - 19.4%), the rate of suicidal ideation was 26.2% (95% CI: 24,12% 
- 28.48%). Factors associated with depression include having more than 3 siblings in the family (PR = 
1.78; 95% CI: 1.08 - 2.93), perceived financial burden (PR = 2.07, 95% CI: 1.53 - 2.81), having a history 
of chronic illness (PR = 1.44; 95% CI: 1.09 - 1.89). Factors related to the idea of suicidal behavior are 
being women (PR = 0.69, 95% CI: 0.55 - 0.84), perceived financial burden (PR = 1.39; 95% CI: 1.09 
- 1.78), having a history of chronic disease (PR = 1.70; 95% CI: 1.39 - 2.09). Conclusion: The rate of 
depression and the rate of suicidal ideation or behavior of subjects in this study is higher than other 
studies at home and abroad using the PHQ - 9 toolkit. Prominent factors include: financial burden, 
personal medical history, gender, number of siblings in the student’s family, indicating a clear need for 
environmental improvement and psychological support systems for students at training institutions.
Keywords: Health science student, depression, suicide ideation, related factors.

File đính kèm:

  • pdfdau_hieu_tram_cam_y_tuong_hanh_vi_tu_sat_cua_sinh_vien_dai_h.pdf