Dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-Line)” trên siêu âm phổi: Một yếu tố đánh giá tình trạng ứ huyết phổi ở bệnh nhân suy tim
Sự xuất hiện nhiều B-Line (hay còn gọi là “đuôi sao chổi”) đại diện cho tình trạng ứ huyết tại phổi, đặc biệt trên nhóm bệnh nhân suy tim [1][2][3]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 53 bệnh nhân vào viện vì các triệu chứng suy tim (NYHA III và IV) nhằm mục đích ứng dụng việc khảo sát dấu hiệu B-line trong thực hành lâm sàng tại Việt Nam. Các bệnh nhân được tiến hành làm siêu âm phổi và siêu âm tim trong vòng 4h sau khi nhập viện và trước khi ra viện. Siêu âm phổi được thực hiện trên 28 cửa sổ siêu âm (12 bên trái và 16 bên phải), tính số lượng B-line ở từng cửa sổ. Chỉ số ULCs là tổng số B-line của 28 cửa sổ
Bạn đang xem tài liệu "Dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-Line)” trên siêu âm phổi: Một yếu tố đánh giá tình trạng ứ huyết phổi ở bệnh nhân suy tim", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-Line)” trên siêu âm phổi: Một yếu tố đánh giá tình trạng ứ huyết phổi ở bệnh nhân suy tim
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 23 Dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-line)” trên siêu âm phổi: Một yếu tố đánh giá tình trạng ứ huyết phổi ở bệnh nhân suy tim Nghiêm Xuân Khánh*, Nguyễn Thị Bạch Yến**, Lê Tuấn Thành** Bệnh viện Đa khoa tỉnh Yên Bái* Viện Tim mạch Việt Nam** TÓM TẮT Sự xuất hiện nhiều B-line (hay còn gọi là “đuôi sao chổi”) đại diện cho tình trạng ứ huyết tại phổi, đặc biệt trên nhóm bệnh nhân suy tim [1][2][3]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 53 bệnh nhân vào viện vì các triệu chứng suy tim (NYHA III và IV) nhằm mục đích ứng dụng việc khảo sát dấu hiệu B-line trong thực hành lâm sàng tại Việt Nam. Các bệnh nhân được tiến hành làm siêu âm phổi và siêu âm tim trong vòng 4h sau khi nhập viện và trước khi ra viện. Siêu âm phổi được thực hiện trên 28 cửa sổ siêu âm (12 bên trái và 16 bên phải), tính số lượng B-line ở từng cửa sổ. Chỉ số ULCs là tổng số B-line của 28 cửa sổ. Kết quả chính: Có 11/53 bệnh nhân tử vong trong thời gian nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân khi nhập viện đều quan sát thấy có B-line trên siêu âm phổi ở mức độ nhiều (ULCs ≥ 30 B-line). Trên nhóm bệnh nhân được ra viện, chỉ số ULCs lúc vào viện (72,9 ± 31,65) giảm rõ rệt so với lúc ra viện (26,67 ± 13) (p < 0,001). ULCs có tương quan đồng biến với mức độ suy tim theo NYHA (r= 0,61; p<0,001), với nồng độ NT-proBNP (r = 0,57; p < 0,001), tương quan nghịch biến với EF ≤ 40% (r = -0,4; p< 0,05). Nhóm bệnh nhân tử vong (n=11) có NYHA IV (100%), có thời gian phát hiện suy tim, NT-ProBNP, và số lượng B-line lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm được ra viện (P tương ứng là 0.0001, 0.047, 0.02). Kết luận và khuyến nghị: Số lượng B-line có mối tương quan đối với các chỉ số đánh giá mức độ suy tim trên lâm sàng (NYHA) và cận lâm sàng (nồng độ NT-proBNP và EF ≤ 40%. ). Sự giảm hẳn số lượng B-line sau điều trị ở các bệnh nhân suy tim gợi ý đây là một trong những yếu tố tiên lượng nhập viện cũng như đánh giá hiệu quả điều trị. Sự khác biệt số lượng B-line có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tử vong và nhóm được ra viện gợi ý đây là một yếu tố tiên lượng tử vong lúc nhập viện. Dấu hiệu này nên được ứng dụng trong thực tiễn lâm sàng trên nhóm bệnh nhân suy tim nhằm bổ sung thông tin phục vụ chẩn đoán và điều trị. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201824 ĐẶT VẤN ĐỀ Suy tim mạn tính là một hội chứng lâm sàng phức tạp thường được đặc trưng bởi những đợt cấp mất bù. Suy tim là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong những nguyên nhân tử vong do tim mạch [4].Trong suy tim tình trạng xung huyết phổi do áp lực của thất trái và nhĩ trái cao đang là nguyên nhân phổ biến khiến các bệnh nhân suy tim phải nhập viện [5]. Nó được chứng minh là thường sảy ra trước các biểu hiện lâm sàng khởi phát của suy tim và trước khi bệnh nhân nhập viện. Như vậy, cần phải có một kỹ thuật với độ nhạy cao và chính xác để có thể phát hiện phù phổi trước khi nó thực sự trở nên rõ ràng trên lâm sàng [6]. Trong khoảng 15 năm nay một lĩnh vực trong chuyên ngành chẩn đoán hình ảnh đã nổi lên trong thực hành lâm sàng đó là siêu âm phổi. Ứng dụng chủ yếu của siêu âm phổi cho các chuyên gia tim mạch là đánh giá dấu hiệu “đuôi sao chổi” hay còn gọi là B-line, sự xuất hiện của nhiều B-line đại diện cho tình trạng ứ huyết tại phổi và B-line giúp phân biệt khó thở cấp do tim hay do phổi [2]. Chỉ số ULCs là tổng số B-line ở các vị trí khảo sát đã được chứng minh là có tương quan với một vài thông số đánh giá suy tim trên lâm sàng và cận lâm sàng như: NYHA, NT-proBNP và EF, và có giá trị trong chẩn đoán và tiên lượng suy tim [2]. Tại Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-line)” trên siêu âm phổi ở bệnh nhân suy tim” với mục tiêu đánh giá sự thay đổi của dấu hiệu này trước và sau điều trị, tìm hiểu mối liên quan của dấu hiệu này với một số thông số đánh giá suy tim. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Các bệnh nhân vào viện vì các triệu chứng của suy tim, được chẩn đoán suy tim theo tiêu chuẩn ESC 2016 [7], được theo dõi và điều trị tại Viện Tim mạch Việt Nam. Thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2016 đến tháng 08/2017. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân Chúng tôi loại trừ các bệnh nhân có tổn thương phổi nguyên nhân không phải do tim: Viêm phổi thuỳ, tắc mạch phổi, K phế quản, tràn dịch màng phổi không do tim, tâm phế mạn, bệnh nhân có tình trạng ứ khí tại phổi: COPD, hen phế quản, tràn khí màng phổi Bệnh nhân suy gan, suy thận giai đoạn cuối, các bệnh nhân < 18 tuổi. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi khi nhập viện và trước ra viện trên một nhóm bệnh nhân. Các bước tiến hành nghiên cứu • BN được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm cận lâm sàng, siêu âm phổi cùng lúc với siêu âm tim trong vòng 4h sau khi nhập viện và trước khi ra viện. • BN được thu thập đầy đủ biến số và chỉ số n/c theo mẫu bệnh án nghiên cứu. • Có 53 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu nhưng 11 bệnh nhân tử vong trước khi được ra viện nên được tách làm một nhóm riêng để đánh giá tiên lượng tử vong. - Siêu âm tim phổi được tiến hành hai lần tại thời điểm trong vòng 4 giờ sau khi nhập viện và trước khi ra viện. Địa điểm tiến hành: phòng siêu âm tim, Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. Phương tiện: Máy siêu âm tim với đầu dò phased array tần số 2,5 – 3,5 MHz. Quy trình tiến hành siêu âm phổi ■ Kỹ thuật thực hiện: Thời gian thực hiện có thể trong vòng 5-10 phút. Bệnh nhân có thể nằm hoặc ngồi. Đặt đầu dò theo các khoang liên sườn để khám. Khảo sát các vùng ngực cả 2 bên. Cắt dọc để lấy được dấu con dơi (“bat” sign) sau đó mới xác định các dấu khác. Mỗi vùng được thăm dò từ đỉnh đến đáy, theo các NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 25 Hình 1. Dấu hiệu B-line - Tiêu chuẩn chẩn đoán đường B-line khi thỏa đủ 4 đặc điểm sau [9]. • Bắt đầu từ đường màng phổi đến gờ màn hình • Di chuyển đồng bộ với dấu phổi trượt. • Những đường tăng âm, dài, không bị mờ đi theo trục dọc (giống tia laser). • Xoá đi những đường cơ bản của nhu mô phổi (A-line) theo trục ngang. - Nhận định kết quả: Từ 28 cửa sổ B-line được đếm từ 0 - 10 ở mỗi vị trí khám. Tính là 0 (B-line) khi không có B-line trong vùng khám, và khi ở một vị trí khám với đầu dò tim trắng toàn màn hình được xem như tương ứng với 10 (B-line). - Picano và cộng sự chia mức độ ứ huyết phổi theo chỉ số ULCs như sau: ULCs < 5: không ứ huyết phổi, 5≤ULCs≤15: ứ huyết phổi mức độ nhẹ, 16 ≤ ULCs ≤ 29: ứ huyết phổi mức độ vừa, ULCs ≥ 30: ứ huyết phổi mức độ nhiều [9]. Phân tích thống kê Các số liệu thu được xử lý trên máy tính bằng các thuật toán sử dụng chương trình phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong quá trình nghiên cứu, 11 bệnh nhân tử vong trước khi được siêu âm tim phổi lần hai được chúng tôi tách thành một nhóm riêng để phân tích. Nhóm còn lại được ra viện. Đặc điểm chung của nhóm được ra viện Có 61% nam giới, tuổi trung bình là 63,83 ± 15,65. Thời gian điều trị trung bình: 12,21± 6,1 (ngày). Các bệnh lý gây suy tim của nhóm đối tượng nghiên cứu bao gồm: Bệnh van tim (50%), THA (45,2%), BTTMCB (31%), BCTG (23,8%). Bảng 1. Đặc điểm của các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng trước điều trị Triệu chứng Trước điều trị (n=42) Phù phổi cấp (%) 23,8 Ran ẩm ở phổi (%) 88,1 Phù mắt cá chân (%) 66,7 Gan to, PHGTMC (+) (%) 71,4 NYHA II III 59,5 IV 40,5 NT-proBNP (ng/L) 18135,55 ± 9686,24 EF(%) 32,74 ± 15,17 Nhận xét: Các bệnh nhân trong nghiên cứu đều vào viện trong tình trạng suy tim NYHA III và IV, đặc biệt có 23,8% BN vào viện trong tình trạng phù phổi cấp. Nồng độ NT-proBNP vào viện cao 18135,55 ± 9686,24 ng/L. Phân suất tống máu trung bình là 32,74 ± 15,17 (%). đường cạnh ức, đường giữa đòn, đường nách trước, đường nách giữa mỗi bên. Bên phải quét từ KLS 2 đến 5, bên trái từ KLS 2 đến 4. Điều này cho phép kiểm tra 28 cửa sổ khác nhau, 16 bên phải và 12 bên trái [8][9]. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201826 Đặc điểm B-line và chỉ số ULCs trước điều trị 0 20 40 60 80 100 120 140 160 N G 5 N G 4 N G 3 N G 2 N T 5 N T 4 N T 3 N T 2 G Đ 5 G Đ 4 G Đ 3 G Đ 2 C .Ư 5 C .Ư 4 C .Ư 3 C .Ư 2 C .Ư 2 C .Ư 3 C .Ư 4 G Đ 2 G Đ 3 G Đ 4 N T 2 N T 3 N T 4 N G 2 N G 3 N G 4 Phổi Phải Phổi Trái Biểu đồ 1. Đặc điểm tổng số B-line ở 28 cửa sổ siêu âm Nhận xét: Bên phải có 16 cửa sổ, các cửa sổ đường cạnh ức KLS 2,3,4,5 có số lượng B-line ít hơn các cửa sổ còn lại. Bên trái có 12 cửa sổ, các cửa sổ đường cạnh ức 2,3,4 có số lượng B-line ít hơn các đường còn lại. Cửa sổ đường nách trước khoang liên sườn 3 cả 2 bên đều có số lượng B-line nhiều hơn các cửa sổ còn lại. 0 50 100 150 200 250 300 350 400 450 500 Đường nách giữa Đường nách trước Đường giữa đòn Đường cạnh ức Đường cạnh ức Đường giữa đòn Đường nách trước Đường nách giữa Phổi Phải Phổi Trái Biểu đồ 2. Đặc điểm tổng số B-line theo các đường khảo sát theo trục dọc Nhận xét: - Đường cạnh ức có số lượng B-line ít hơn các đường còn lại cùng bên (p<0,05 so sánh với các đường còn lại cùng bên). Đường nách trước 2 bên có số lượng B-line nhiều hơn các đường còn lại. Bảng 2. Đặc điểm tổng số B-line theo các vùng khảo sát Bên phải Bên Trái Vùng trước 18,17 ± 8,92 16,09 ± 8,8 Vùng bên 19,86 ± 1,08 18,5 ± 7,89 P < 0,01 <0,01 Nhận xét: Chia ngực mỗi bên ra làm 2 vùng, vùng trước gồm các cửa sổ khảo sát theo các đường cạnh ức và đường giữa đòn, vùng bên gồm các cửa sổ khảo sát theo các đường nách trước và nách giữa. Vùng bên có số lượng B-line nhiều hơn vùng trước mỗi bên. Bảng 3. Mức độ ứ huyết phổi theo chỉ số ULCs trước và sau điều trị (Picano và cộng sự) Mức độ ứ huyết phổi ULCs Vào việnN(%) TB ± ĐLC Không (ULCs <5) 0 Nhẹ (5 ≤ ULCs ≤ 15) 0 Vừa (16 ≤ ULCs ≤ 29) 0 Nhiều ( ULCs ≥ 30) 42(100%) 72,9 ± 31,65 Nhận xét: Tại thời điểm vào viện 100% bệnh nhân ứ huyết phổi mức độ nhiều. ULCs trung bình là 72,9 ± 31,65. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 27 Đặc điểm sự thay đổi của B-line và chỉ số ULCs sau điều trị 0 50 100 150 200 250 300 350 400 450 500 Đường nách giữa phải Đường nách trước phải Đường giữa đòn phải Đường cạnh ức phải Đường cạnh ức trái Đường giữa đòn trái Đường nách trước trái Đường nách giữa trái Trước điều trị Sau điều trị Phổi TráiPhổi Phải Biểu đồ 3. Sự thay đổi tổng số B-line sau điều trị Nhận xét: Sau điều trị có số lượng B-line ở các đường và vùng khảo sát giảm đi rõ rệt. Bảng 4. Sự thay đổi mức độ ứ huyết phổi theo chỉ số ULCs sau điều trị Mức độ ứ huyết phổi ULCs trước điều trị ULCs sau điều trị p N(%) TB ± ĐLC N(%) TB ± ĐLC Không (ULCs <5) 0 0 Nhẹ (5 ≤ ULCs ≤ 15) 0 6 (14,2%) 12,67 ± 1,63 Vừa (16 ≤ ULCs ≤ 29) 0 21 (50%) 20,76 ± 3,65 Nhiều (ULCs ≥ 30) 42(100%) 72,9 ± 31,65 15 (35,7%) 40,53 ± 11,5 Tổng 42 (100%) 72,9 ± 31,65 42(100%) 26,67 ± 13 < 0,01 Nhận xét: Sau điều trị mức độ ứ huyết phổi của các bệnh nhân giảm đi rõ rệt, chỉ còn 35,7% ứ huyết phổi mức độ nhiều (ULCs trung bình của nhóm này: 40,53 ± 11,5), 50% ứ huyết phổi mức độ vừa, 14,2% ứ huyết phổi mức độ nhẹ. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201828 Mối tương quan của chỉ số ULCs và một vài thông số trên lâm sàng và cận lâm sàng Biểu đồ 4. Tương quan tuyến tính của ULCs và NYHA Nhận xét: Chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính chặt chẽ với NYHA trước và sau điều trị. Nhận xét: Chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính chặt chẽ với nồng độ NT-proBNP trước và sau điều trị. Nhận xét: Khi xét riêng nhóm suy tim EF giảm (EF ≤ 40%) thấy có sự tương quan yếu giữa EF và ULCs (r= -0,4; p<0,05). NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 29 Bảng 5. ULCs có sự khác biệt giữa nhóm tử vong và nhóm được ra viện Triệu chứng lâm sàng Nhóm ra viện (n=42) Nhóm tử vong (n=11) P n % n % NYHA I II III 25 59,5 IV 17 40,5 11 100 0,000 Thời gian suy tim (năm) 2,64 ± 2,11 6,36 ± 2,25 0,000 NT-ProBNP (ng/l) 18135,55 ± 9686,24 24601,31 ± 7973,49 0,047 ULCs (B-line) 72,9 ± 31,65 100,45 ± 42,16 0,02 So sánh các yếu tố liên quan tới tình trạng suy tim cũng như lâm sàng của hai nhóm bệnh nhân tử vong (n=11) và được ra viện (n=42) cho thấy thời gian suy tim có sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm này, toàn bộ nhóm tử vong có mức NYHA IV, ULCs của nhóm tử vong lớn hơn có ý nghĩa so với nhóm ra viện, còn NT-ProBNP có sự khác biệt nhẹ (bảng 5). BÀN LUẬN Đối với nhóm được ra viện, khi nghiên cứu đặc điểm số lượng B-line theo 28 cửa sổ và các đường khảo sát theo trục dọc ta thấy: các cửa sổ ở đường cạnh ức 2 bên có số lượng B-line ít hơn hẳn so với các cửa sổ còn lại cùng bên, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả này có thể được giải thích do ở các bệnh nhân suy tim, tình trạng ứ dịch làm cho tim to che lấp vùng cạnh ức 2 bên, làm hạn chế quan sát B-line dẫn tới kết quả số B-line ở hai vùng này thấp hơn các vùng còn lại. Cửa sổ ở khoang liên sườn 3 đường nách trước 2 bên có số lượng B-line nhiều hơn các cửa sổ còn lại (p<0,05). Kết quả này tương tự nghiên cứu của Frassi [11] và Jambrik [12]. Hai tác giả này còn đưa ra một đề xuất là trong trường hợp cấp cứu chúng ta chỉ cần khảo sát ở hai vị trí duy nhất là khoang liên sườn 3 nách trước mỗi bên. Chia vùng ngực mỗi bên ra thành 2 vùng: vùng trước gồm các đường cạnh ức và đường giữa đòn, vùng bên gồm đường nách trước và nách giữa. So sánh số lượng B-line giữa các vùng cùng bên, ta thấy: bên phải mỗi vùng tương ứng có 8 cửa sổ, số lượng B-line vùng trước (18,17 ± 8,92) ít hơn số B-line ở vùng bên (19,86 ± 1,08), p<0,05. Bên trái mỗi vùng tương ứng có 6 cửa sổ, số lượng B-line ở vùng trước (16,09 ± 8,8) ít hơn vùng bên (18,5 ± 7,89), p< 0,01. Kết quả này của chúng tôi cũng tương tự kết quả trong nghiên cứu của tác giả Donadio C. và cộng sự kết quả cho thấy đường cạnh ức 2 bên có số lượng ít hơn các đường còn lại cùng bên và phân bố B-line không đồng đều giữa các vùng phổi khác nhau, một lượng lớn B-line được tìm thấy ở các vùng bên [13]. Nghiên cứu của Prosen và nghiên cứu của Lichtenstein, thấy số lượng B-line ở các vùng bên nhiều hơn ở các vùng trước [14] [15]. Tổng số điểm sao chổi phổi hay còn gọi là chỉ số ULCs là tổng số B-line thu được từ 28 cửa sổ siêu âm. Đây được coi là chỉ số đặc hiệu cho các nghiên cứu về siêu âm phổi ở bệnh nhân suy tim. Trong nghiên cứu của chúng tôi kết quả thu được chỉ số ULCs tại thời điểm nhập viện của 42 bệnh nhân trung bình: 72,9 ± 31,65 cho thấy tình trạng ứ huyết phổi lúc vào viện của các bệnh nhân nghiên cứu đều NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201830 ở mức độ nhiều. Do bệnh nhân của chúng tôi đều nhập viện trong tình trạng suy tim mức độ từ trung bình đến nặng (NYHA III và IV). Chỉ số ULCs tại thời điểm nhập viện trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn trong nghiên cứu của Frassi F [11] ULCs trung bình là 50 ± 37. Do nghiên cứu này đối tượng là 340 bệnh nhân nhập viện tại khoa tim mạch nói chung, trong đó chỉ có 37 bệnh nhân suy tim cấp. Sau điều trị, cùng với sự thay đổi tích cực của các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, số lượng B-line cũng giảm đi rất nhiều, mức độ ứ huyết phổi cũng cải thiện nhiều. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả tương tự về sự thay đổi tích cực của số B-line sau điều trị, tương tự như trong nghiên cứu của Volpicelli [14], Noble [17], Mallamaci [18]. Mối tương quan của ULCs với NYHA, NT-proBNP, EF Chỉ số ULCs có tương quan chặt chẽ đồng biến với NYHA tại thời điểm trước điều trị và sau điều trị với hệ số tương quan r lần lượt là 0,61 và 0,57, p<0,01. Kết quả này cũng tương tự như trong nghiên cứu của Frassi F. [11] thấy ULCs có tương quan với NYHA tại thời điểm nhập viện. Chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính chặt chẽ với NT-proBNP tại thời điểm vào viện (r = 0,57; p<0,001), ra viện (r=0,71; p<0,001). Sở dĩ hệ số tương quan tại thời điểm nhập viện thấp hơn do siêu âm phổi và xét nghiệm NT-proBNP không được làm cùng một lúc như thời điểm ra viện. Tăng áp lực thất trái là cơ chế kích hoạt chung cho cả NT-proBNP và sự xuất hiện của B-line trên siêu âm phổi. Như vậy sự phù hợp tổng thể và mối tương quan của chỉ số ULCs và nồng độ NT-proBNP là điều không đáng ngạc nhiên. Nghiên cứu của Miglioranza [19], cho thấy chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính chặt chẽ với NT-proBNP (r = 0,72; p<0,0001). Nghiên cứu của Gargani L và cộng sự, chỉ số ULCs có tương quan khá chặt chẽ với NT-proBNP (r = 0,69; p< 0,0001). Cả hai nghiên cứu này đều được tiến hành ở khoa cấp cứu, siêu âm phổi và xét nghiệm NT-proBNP được làm cùng thời điểm nên hệ số tương quan lúc vào viện lớn hơn trong nghiên cứu của chúng tôi. Khi nghiên cứu riêng nhóm bệnh nhân có phân suất tống máu thất trái giảm (EF ≤ 40%) chúng ta thấy có mối tương quan trung bình giữa chỉ số ULCs và EF với r = - 0,4; p<0,05. Ở nhóm bệnh nhân suy tim tâm thu nặng, tình trạng ứ dịch tại thất trái và nhĩ trái nặng nề hơn, đây là yếu tố tạo thuận cho sự xuất hiện và gia tăng của các B-line trên siêu âm phổi. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của nghiên cứu của Agricola E. [20], trong số các bệnh nhân suy tim tâm thu EF giảm (EF ≤ 40%), kết quả cho thấy chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính trung với EF (r = -0,37; p<0,01), nghiên cứu của Frassi F [11], ở các bệnh nhân suy chức năng tâm thu mức độ trung bình đến nặng (EF ≤ 45%), EF có mối tương quan trung bình với chỉ số ULCs (r = -0,354; p< 0,0001). Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trên 53 bệnh nhân vào viện vì suy tim NYHA III và IV. Phân loại suy tim theo NYHA đã trở nên kinh điển trong thực hành lâm sàng. Tuy nhóm tử vong (n=11) có 100% là NYHA IV, nhưng trong số bệnh nhân được ra viện (n=42) thì cũng có tới 40,5% bệnh nhân (n=17) suy tim NYHA IV. Ở nhóm bệnh nhân này, sau điều trị các triệu chứng suy tim đều cải thiện rõ rệt chỉ còn 16,67% NYHA III; 83,33% NYHA II. Điều đó gợi ý rằng phân loại suy tim theo NYHA chỉ có tính chất tham khảo trong tiên lượng tử vong. Trong khi đó, ULCs ở nhóm tử vong (100,45 ± 42,16) lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm được ra viện (72,9 ± 31,65), mặc dù đều ở mức nhiều theo phân loại ứ huyết phổi của Picano và cộng sự (≥ 30). Điều này gợi ý cần nghiên cứu một mức ứ huyết phổi cao hơn (VD ≥ 60) để tiên lượng tử vong cho bệnh nhân. KẾT LUẬN Ở nhóm bệnh nhân được ra viện sau điều trị, NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 31 ULCs giảm rõ rệt cùng với các thông số đánh giá suy tim. Chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính với mức độ suy tim theo NYHA, nồng độ NT-proBNP và EF ≤ 40%, gợi ý UlCs cũng có thể là một trong những thông số đánh giá tình trạng suy tim. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của chỉ số ULCs ở nhóm tử vong so với nhóm được ra viện gợi ý đây có thể là một yếu tố tiên lượng tử vong trên bệnh nhân suy tim mạn tính có đợt cấp mất bù. Chúng tôi khuyến nghị tiếp tục nghiên cứu lớn hơn về ứng dụng của chỉ số ULCs trong thực hành lâm sàng. Trong thực hành lâm sàng, chúng tôi đề xuất ứng dụng đánh giá ULCs ở các cửa sổ bên (đường nách trước và giữa) tốt hơn so với các cửa sổ trước ngực (đường cạnh ức và giữa đòn). LỜI CẢM ƠN Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô tại Viện Tim mạch Việt Nam, Phòng Siêu âm Tim Mạch, các đồng nghiệp và các bệnh nhân tham gia nghiên cứu này. ABSTRACT Ultrasound lung comets: a clinical index of pulmonary congestion Multiple B-lines (also called lung comets) representatives to a congested lung, particularly in heart failure patients [1][2][3]. In order to validate the lung ultrasound technique on Vietnamese patients, a group of 53 heart failure subjects (NYHA III, IV), at the time of the first 4 hours since admission, was observed by clinical symptoms and determined cardiac failure indexes along with lung ultrasound. In 28 views (including 12 on the left and 16 on the right chest), we counted the number of B-line (Ultrasound lung comets_ULCs index) at baseline and right before patients’ recovery. Result: during study time, there were 11/53 patient died. All of observed patients had high ULCs index (≥ 30 B-line) at baseline. In the recovered group (n=42), ULCs-I was decreased significantly after the period of treatment (from 72,9 ± 31,65 to 26,67 ± 13 (P < 0,001). ULCs-I was found a covariate correlation with NYHA, NT-proBNP, and an inverted correlation with EF. In the died group (n=11), all of them had classified at NYHA IV, with sighnificant higher of “time to have heart failure diagnosis”, NT-proBNP, and ULCs-I (with P was 0.0001, 0.047, 0.02 respectively). Conclusion and recommendation: There is a correlation between ULCs-I and heart failure indexes (NYHA, NT-proBNP concentration, and EF). Significant reduction of B-line number after treatment in heart failure patients suggests that ULCs might be one of predictor of re-admission and suitable index for follow up the patients. Significant difference between death and recovery group suggest the ULCs-I might be a predictor of death. The index should be widely applied to heart failure patients in clinical practice. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gargani L. và Volpicelli G. (2014). How I do it: Lung ultrasound. Cardiovasc Ultrasound, 12, 25. 2. Ang S.-H. và Andrus P. (2012). Lung Ultrasound in the Management of Acute Decompensated Heart Failure. Curr Cardiol Rev, 8(2), 123–136. 3. M Tsverava, D Tsverava (2010). Comet tail artefact in diagnosis of pulmonary congestion in patients with diastolic heart failure. 187 28 35. 4. Mosterd A. và Hoes A.W. (2007). Clinical epidemiology of heart failure. Heart, 93(9), 1137-1146. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201832 5. Gheorghiade M. và Zannad F. (2005). Modern management of acute heart failure syndromes. Eur Heart J Suppl, 7(suppl_B), B3–B7. 6. Lange N.R. và Schuster D.P. (1999). The measurement of lung water. Crit Care, 3(2), R19–R24. 7. Ponikowski P., Voors A.A., Anker S.D. và cộng sự. (2016). 2016 ESC Guidelines for the diagnosis and treatment of acute and chronic heart failure: The Task Force for the diagnosis and treatment of acute and chronic heart failure of the European Society of Cardiology (ESC)Developed with the special contribution of the Heart Failure Association (HFA) of the ESC. Eur Heart J, 37(27), 2129–2200. 8. Gargani L. (2011). Lung ultrasound: a new tool for the cardiologist. Cardiovasc Ultrasound, 9, 6. 9. Summerfield D.T. và Johnson B.D. (2013). Lung Ultrasound Comet Tails - Technique and Clinical Significance. . 10. Summerfield D.T. và Johnson B.D. (2013). Lung Ultrasound Comet Tails -Technique and Clinical Significance. . 11. Frassi F., Gargani L., Gligorova S. và cộng sự. (2007). Clinical and echocardiographic determinants of ultrasound lung comets. Eur J Echocardiogr, 8(6), 474–479. 12. Jambrik Z., Monti S., Coppola V. và cộng sự. (2004). Usefulness of ultrasound lung comets as a nonradiologic sign of extravascular lung water. Am J Cardiol, 93(10), 1265–1270. 13. Effective and Timely Evaluation of Pulmonary Congestion: Qualitative Comparison Between Lung Ultrasound and Thoracic Bioelectrical Impedance in Maintenance Hemodialysis Patients - Semantic Scholar. </paper/Effective - and - Timely - Evaluation - of - Pulmonary - Conge - Donadio - Bozzoli/ caa20cd11dfa55ff250ffde97d1fed1e2ce05884>, accessed: 19/09/2017. 14. Prosen G., Klemen P., Strnad M. và cộng sự. (2011). Combination of lung ultrasound (a comet-tail sign) and N-terminal pro-brain natriuretic peptide in differentiating acute heart failure from chronic obstructive pulmonary disease and asthma as cause of acute dyspnea in prehospital emergency setting. Crit Care, 15(2), R114. 15. Lichtenstein D. và Mezière G. (1998). A lung ultrasound sign allowing bedside distinction between pulmonary edema and COPD: the comet-tail artifact. Intensive Care Med, 24(12), 1331–1334. 16. Volpicelli G., Caramello V., Cardinale L. và cộng sự. (2008). Bedside ultrasound of the lung for the monitoring of acute decompensated heart failure. Am J Emerg Med, 26(5), 585–591. 17. Noble V.E., Murray A.F., Capp R. và cộng sự. (2009). Ultrasound assessment for extravascular lung water in patients undergoing hemodialysis. Time course for resolution. Chest, 135(6), 1433–1439. 18. Mallamaci F., Benedetto F.A., Tripepi R. và cộng sự. (2010). Detection of pulmonary congestion by chest ultrasound in dialysis patients. JACC Cardiovasc Imaging, 3(6), 586–594. 19. Miglioranza M.H., Gargani L., Sant’Anna R.T. và cộng sự. (2013). Lung ultrasound for the evaluation of pulmonary congestion in outpatients: a comparison with clinical assessment, natriuretic peptides, and echocardiography. JACC Cardiovasc Imaging, 6(11), 1141–1151. 20. Agricola E., Picano E., Oppizzi M. và cộng sự. (2006). Assessment of stress-induced pulmonary interstitial edema by chest ultrasound during exercise echocardiography and its correlation with left ventricular function. J Am Soc Echocardiogr Off Publ Am Soc Echocardiogr, 19(4), 457–463.
File đính kèm:
dau_hieu_duoi_sao_choi_b_line_tren_sieu_am_phoi_mot_yeu_to_d.pdf

