Dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-Line)” trên siêu âm phổi: Một yếu tố đánh giá tình trạng ứ huyết phổi ở bệnh nhân suy tim

Sự xuất hiện nhiều B-Line (hay còn gọi là “đuôi sao chổi”) đại diện cho tình trạng ứ huyết tại phổi, đặc biệt trên nhóm bệnh nhân suy tim [1][2][3]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 53 bệnh nhân vào viện vì các triệu chứng suy tim (NYHA III và IV) nhằm mục đích ứng dụng việc khảo sát dấu hiệu B-line trong thực hành lâm sàng tại Việt Nam. Các bệnh nhân được tiến hành làm siêu âm phổi và siêu âm tim trong vòng 4h sau khi nhập viện và trước khi ra viện. Siêu âm phổi được thực hiện trên 28 cửa sổ siêu âm (12 bên trái và 16 bên phải), tính số lượng B-line ở từng cửa sổ. Chỉ số ULCs là tổng số B-line của 28 cửa sổ

pdf 10 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-Line)” trên siêu âm phổi: Một yếu tố đánh giá tình trạng ứ huyết phổi ở bệnh nhân suy tim", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-Line)” trên siêu âm phổi: Một yếu tố đánh giá tình trạng ứ huyết phổi ở bệnh nhân suy tim

Dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-Line)” trên siêu âm phổi: Một yếu tố đánh giá tình trạng ứ huyết phổi ở bệnh nhân suy tim
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 23
Dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-line)” trên siêu âm phổi: 
Một yếu tố đánh giá tình trạng ứ huyết phổi ở 
bệnh nhân suy tim
Nghiêm Xuân Khánh*, Nguyễn Thị Bạch Yến**, Lê Tuấn Thành**
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Yên Bái*
Viện Tim mạch Việt Nam** 
TÓM TẮT
Sự xuất hiện nhiều B-line (hay còn gọi là “đuôi 
sao chổi”) đại diện cho tình trạng ứ huyết tại phổi, 
đặc biệt trên nhóm bệnh nhân suy tim [1][2][3]. 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 53 bệnh nhân 
vào viện vì các triệu chứng suy tim (NYHA III và 
IV) nhằm mục đích ứng dụng việc khảo sát dấu 
hiệu B-line trong thực hành lâm sàng tại Việt Nam. 
Các bệnh nhân được tiến hành làm siêu âm phổi 
và siêu âm tim trong vòng 4h sau khi nhập viện và 
trước khi ra viện. Siêu âm phổi được thực hiện trên 
28 cửa sổ siêu âm (12 bên trái và 16 bên phải), tính 
số lượng B-line ở từng cửa sổ. Chỉ số ULCs là tổng 
số B-line của 28 cửa sổ. 
Kết quả chính: Có 11/53 bệnh nhân tử vong 
trong thời gian nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân 
khi nhập viện đều quan sát thấy có B-line trên siêu 
âm phổi ở mức độ nhiều (ULCs ≥ 30 B-line). Trên 
nhóm bệnh nhân được ra viện, chỉ số ULCs lúc vào 
viện (72,9 ± 31,65) giảm rõ rệt so với lúc ra viện 
(26,67 ± 13) (p < 0,001). ULCs có tương quan 
đồng biến với mức độ suy tim theo NYHA (r= 0,61; 
p<0,001), với nồng độ NT-proBNP (r = 0,57; p < 
0,001), tương quan nghịch biến với EF ≤ 40% (r = 
-0,4; p< 0,05). Nhóm bệnh nhân tử vong (n=11) có 
NYHA IV (100%), có thời gian phát hiện suy tim, 
NT-ProBNP, và số lượng B-line lớn hơn có ý nghĩa 
thống kê so với nhóm được ra viện (P tương ứng là 
0.0001, 0.047, 0.02). 
Kết luận và khuyến nghị: Số lượng B-line có 
mối tương quan đối với các chỉ số đánh giá mức 
độ suy tim trên lâm sàng (NYHA) và cận lâm sàng 
(nồng độ NT-proBNP và EF ≤ 40%. ). Sự giảm 
hẳn số lượng B-line sau điều trị ở các bệnh nhân suy 
tim gợi ý đây là một trong những yếu tố tiên lượng 
nhập viện cũng như đánh giá hiệu quả điều trị. Sự 
khác biệt số lượng B-line có ý nghĩa thống kê giữa 
nhóm tử vong và nhóm được ra viện gợi ý đây là 
một yếu tố tiên lượng tử vong lúc nhập viện. Dấu 
hiệu này nên được ứng dụng trong thực tiễn lâm 
sàng trên nhóm bệnh nhân suy tim nhằm bổ sung 
thông tin phục vụ chẩn đoán và điều trị. 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201824
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy tim mạn tính là một hội chứng lâm sàng 
phức tạp thường được đặc trưng bởi những đợt cấp 
mất bù. Suy tim là nguyên nhân tử vong hàng đầu 
trong những nguyên nhân tử vong do tim mạch 
[4].Trong suy tim tình trạng xung huyết phổi do 
áp lực của thất trái và nhĩ trái cao đang là nguyên 
nhân phổ biến khiến các bệnh nhân suy tim phải 
nhập viện [5]. Nó được chứng minh là thường sảy 
ra trước các biểu hiện lâm sàng khởi phát của suy 
tim và trước khi bệnh nhân nhập viện. Như vậy, 
cần phải có một kỹ thuật với độ nhạy cao và chính 
xác để có thể phát hiện phù phổi trước khi nó thực 
sự trở nên rõ ràng trên lâm sàng [6]. Trong khoảng 
15 năm nay một lĩnh vực trong chuyên ngành chẩn 
đoán hình ảnh đã nổi lên trong thực hành lâm sàng 
đó là siêu âm phổi. Ứng dụng chủ yếu của siêu 
âm phổi cho các chuyên gia tim mạch là đánh giá 
dấu hiệu “đuôi sao chổi” hay còn gọi là B-line, sự 
xuất hiện của nhiều B-line đại diện cho tình trạng 
ứ huyết tại phổi và B-line giúp phân biệt khó thở 
cấp do tim hay do phổi [2]. Chỉ số ULCs là tổng 
số B-line ở các vị trí khảo sát đã được chứng minh 
là có tương quan với một vài thông số đánh giá suy 
tim trên lâm sàng và cận lâm sàng như: NYHA, 
NT-proBNP và EF, và có giá trị trong chẩn đoán và 
tiên lượng suy tim [2].
Tại Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào về vấn 
đề này. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
dấu hiệu “đuôi sao chổi (B-line)” trên siêu âm phổi 
ở bệnh nhân suy tim” với mục tiêu đánh giá sự thay 
đổi của dấu hiệu này trước và sau điều trị, tìm hiểu 
mối liên quan của dấu hiệu này với một số thông số 
đánh giá suy tim. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân vào viện vì các triệu chứng của 
suy tim, được chẩn đoán suy tim theo tiêu chuẩn 
ESC 2016 [7], được theo dõi và điều trị tại Viện 
Tim mạch Việt Nam. Thời gian nghiên cứu từ tháng 
10/2016 đến tháng 08/2017.
Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
Chúng tôi loại trừ các bệnh nhân có tổn thương 
phổi nguyên nhân không phải do tim: Viêm phổi 
thuỳ, tắc mạch phổi, K phế quản, tràn dịch màng 
phổi không do tim, tâm phế mạn, bệnh nhân có 
tình trạng ứ khí tại phổi: COPD, hen phế quản, tràn 
khí màng phổi Bệnh nhân suy gan, suy thận giai 
đoạn cuối, các bệnh nhân < 18 tuổi.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi khi nhập 
viện và trước ra viện trên một nhóm bệnh nhân. 
Các bước tiến hành nghiên cứu
• BN được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm 
cận lâm sàng, siêu âm phổi cùng lúc với siêu âm tim 
trong vòng 4h sau khi nhập viện và trước khi ra viện. 
• BN được thu thập đầy đủ biến số và chỉ số n/c 
theo mẫu bệnh án nghiên cứu.
• Có 53 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu 
nhưng 11 bệnh nhân tử vong trước khi được ra viện 
nên được tách làm một nhóm riêng để đánh giá tiên 
lượng tử vong. 
- Siêu âm tim phổi được tiến hành hai lần tại thời 
điểm trong vòng 4 giờ sau khi nhập viện và trước 
khi ra viện.
Địa điểm tiến hành: phòng siêu âm tim, Viện 
Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. 
Phương tiện: Máy siêu âm tim với đầu dò phased 
array tần số 2,5 – 3,5 MHz. 
Quy trình tiến hành siêu âm phổi
■ Kỹ thuật thực hiện: 
Thời gian thực hiện có thể trong vòng 5-10 phút.
Bệnh nhân có thể nằm hoặc ngồi. Đặt đầu dò 
theo các khoang liên sườn để khám. Khảo sát các 
vùng ngực cả 2 bên. Cắt dọc để lấy được dấu con 
dơi (“bat” sign) sau đó mới xác định các dấu khác. 
Mỗi vùng được thăm dò từ đỉnh đến đáy, theo các 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 25
Hình 1. Dấu hiệu B-line
- Tiêu chuẩn chẩn đoán đường B-line khi thỏa 
đủ 4 đặc điểm sau [9].
• Bắt đầu từ đường màng phổi đến gờ màn hình
• Di chuyển đồng bộ với dấu phổi trượt.
• Những đường tăng âm, dài, không bị mờ đi 
theo trục dọc (giống tia laser).
• Xoá đi những đường cơ bản của nhu mô phổi 
(A-line) theo trục ngang.
- Nhận định kết quả: Từ 28 cửa sổ B-line được 
đếm từ 0 - 10 ở mỗi vị trí khám. Tính là 0 (B-line) 
khi không có B-line trong vùng khám, và khi ở một 
vị trí khám với đầu dò tim trắng toàn màn hình được 
xem như tương ứng với 10 (B-line).
- Picano và cộng sự chia mức độ ứ huyết phổi 
theo chỉ số ULCs như sau: ULCs < 5: không ứ 
huyết phổi, 5≤ULCs≤15: ứ huyết phổi mức độ nhẹ, 
16 ≤ ULCs ≤ 29: ứ huyết phổi mức độ vừa, ULCs ≥ 
30: ứ huyết phổi mức độ nhiều [9].
Phân tích thống kê
Các số liệu thu được xử lý trên máy tính bằng các 
thuật toán sử dụng chương trình phần mềm SPSS 
16.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, 11 bệnh nhân tử 
vong trước khi được siêu âm tim phổi lần hai được 
chúng tôi tách thành một nhóm riêng để phân tích. 
Nhóm còn lại được ra viện.
Đặc điểm chung của nhóm được ra viện
Có 61% nam giới, tuổi trung bình là 63,83 ± 
15,65. Thời gian điều trị trung bình: 12,21± 6,1 
(ngày). Các bệnh lý gây suy tim của nhóm đối tượng 
nghiên cứu bao gồm: Bệnh van tim (50%), THA 
(45,2%), BTTMCB (31%), BCTG (23,8%).
Bảng 1. Đặc điểm của các triệu chứng lâm sàng và cận 
lâm sàng trước điều trị
Triệu chứng
Trước điều trị
(n=42)
Phù phổi cấp (%) 23,8
Ran ẩm ở phổi (%) 88,1
Phù mắt cá chân (%) 66,7
Gan to, PHGTMC (+) (%) 71,4
NYHA
II
III 59,5
IV 40,5
NT-proBNP (ng/L) 18135,55 ± 9686,24
EF(%) 32,74 ± 15,17
Nhận xét: Các bệnh nhân trong nghiên cứu 
đều vào viện trong tình trạng suy tim NYHA III và 
IV, đặc biệt có 23,8% BN vào viện trong tình trạng 
phù phổi cấp. Nồng độ NT-proBNP vào viện cao 
18135,55 ± 9686,24 ng/L. Phân suất tống máu 
trung bình là 32,74 ± 15,17 (%).
đường cạnh ức, đường giữa đòn, đường nách trước, 
đường nách giữa mỗi bên. Bên phải quét từ KLS 2 
đến 5, bên trái từ KLS 2 đến 4. Điều này cho phép 
kiểm tra 28 cửa sổ khác nhau, 16 bên phải và 12 bên 
trái [8][9].
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201826
Đặc điểm B-line và chỉ số ULCs trước điều trị
0
20
40
60
80
100
120
140
160
N
G
5
N
G
4
N
G
3
N
G
2
N
T
5
N
T
4
N
T
3
N
T
2
G
Đ
5
G
Đ
4
G
Đ
3
G
Đ
2
C
.Ư
5 
C
.Ư
4 
C
.Ư
3 
C
.Ư
2 
C
.Ư
2 
C
.Ư
3 
C
.Ư
4 
G
Đ
2
G
Đ
3
G
Đ
4
N
T
2
N
T
3
N
T
4
N
G
2
N
G
3
N
G
4
Phổi Phải Phổi Trái 
Biểu đồ 1. Đặc điểm tổng số B-line ở 28 cửa sổ siêu âm
Nhận xét: Bên phải có 16 cửa sổ, các cửa sổ 
đường cạnh ức KLS 2,3,4,5 có số lượng B-line ít hơn 
các cửa sổ còn lại. Bên trái có 12 cửa sổ, các cửa sổ 
đường cạnh ức 2,3,4 có số lượng B-line ít hơn các 
đường còn lại. Cửa sổ đường nách trước khoang 
liên sườn 3 cả 2 bên đều có số lượng B-line nhiều 
hơn các cửa sổ còn lại.
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
Đường 
nách 
giữa 
Đường 
nách 
trước 
Đường 
giữa 
đòn 
Đường 
cạnh 
ức 
Đường 
cạnh 
ức 
Đường 
giữa 
đòn 
Đường 
nách 
trước 
Đường 
nách 
giữa 
Phổi Phải Phổi Trái 
Biểu đồ 2. Đặc điểm tổng số B-line theo các đường khảo 
sát theo trục dọc
Nhận xét: - Đường cạnh ức có số lượng B-line ít 
hơn các đường còn lại cùng bên (p<0,05 so sánh với 
các đường còn lại cùng bên). Đường nách trước 2 
bên có số lượng B-line nhiều hơn các đường còn lại.
Bảng 2. Đặc điểm tổng số B-line theo các vùng khảo sát
Bên phải Bên Trái
Vùng trước 18,17 ± 8,92 16,09 ± 8,8
Vùng bên 19,86 ± 1,08 18,5 ± 7,89
P < 0,01 <0,01
Nhận xét: Chia ngực mỗi bên ra làm 2 vùng, 
vùng trước gồm các cửa sổ khảo sát theo các đường 
cạnh ức và đường giữa đòn, vùng bên gồm các cửa 
sổ khảo sát theo các đường nách trước và nách giữa. 
Vùng bên có số lượng B-line nhiều hơn vùng trước 
mỗi bên.
Bảng 3. Mức độ ứ huyết phổi theo chỉ số ULCs trước và 
sau điều trị (Picano và cộng sự)
Mức độ ứ huyết phổi ULCs Vào việnN(%) TB ± ĐLC
Không (ULCs <5) 0
Nhẹ (5 ≤ ULCs ≤ 15) 0
Vừa (16 ≤ ULCs ≤ 29) 0
Nhiều ( ULCs ≥ 30) 42(100%) 72,9 ± 31,65
Nhận xét: Tại thời điểm vào viện 100% bệnh 
nhân ứ huyết phổi mức độ nhiều. ULCs trung bình 
là 72,9 ± 31,65.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 27
Đặc điểm sự thay đổi của B-line và chỉ số ULCs sau điều trị
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
Đường 
nách giữa 
phải 
Đường 
nách 
trước 
phải 
Đường 
giữa đòn 
phải 
Đường 
cạnh ức 
phải 
Đường 
cạnh ức 
trái 
Đường 
giữa đòn 
trái 
Đường 
nách 
trước trái 
Đường 
nách giữa 
trái 
Trước điều trị Sau điều trị 
Phổi TráiPhổi Phải 
Biểu đồ 3. Sự thay đổi tổng số B-line sau điều trị
Nhận xét: Sau điều trị có số lượng B-line ở các đường và vùng khảo sát giảm đi rõ rệt.
Bảng 4. Sự thay đổi mức độ ứ huyết phổi theo chỉ số ULCs sau điều trị
Mức độ
 ứ huyết phổi
ULCs trước điều trị ULCs sau điều trị
p
N(%) TB ± ĐLC N(%) TB ± ĐLC
Không 
(ULCs <5)
0 0
Nhẹ 
(5 ≤ ULCs ≤ 15)
0 6 (14,2%) 12,67 ± 1,63
Vừa 
(16 ≤ ULCs ≤ 29)
0 21 (50%) 20,76 ± 3,65
Nhiều 
(ULCs ≥ 30)
42(100%) 72,9 ± 31,65 15 (35,7%) 40,53 ± 11,5
Tổng 42 (100%) 72,9 ± 31,65 42(100%) 26,67 ± 13 < 0,01
Nhận xét: Sau điều trị mức độ ứ huyết phổi của các bệnh nhân giảm đi rõ rệt, chỉ còn 35,7% ứ huyết 
phổi mức độ nhiều (ULCs trung bình của nhóm này: 40,53 ± 11,5), 50% ứ huyết phổi mức độ vừa, 14,2% 
ứ huyết phổi mức độ nhẹ.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201828
Mối tương quan của chỉ số ULCs và một vài thông số trên lâm sàng và cận lâm sàng
Biểu đồ 4. Tương quan tuyến tính của ULCs và NYHA
Nhận xét: Chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính chặt chẽ với NYHA trước và sau điều trị. 
Nhận xét: Chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính chặt chẽ với nồng độ NT-proBNP trước và sau 
điều trị.
Nhận xét: Khi xét riêng nhóm suy tim EF giảm (EF ≤ 40%) thấy có sự tương quan yếu giữa EF và ULCs 
(r= -0,4; p<0,05).
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 29
Bảng 5. ULCs có sự khác biệt giữa nhóm tử vong và nhóm được ra viện
Triệu chứng lâm sàng
Nhóm ra viện
(n=42)
Nhóm tử vong
(n=11) P
n % n %
NYHA I
II
III 25 59,5
IV 17 40,5 11 100 0,000
Thời gian suy tim (năm) 2,64 ± 2,11 6,36 ± 2,25 0,000
NT-ProBNP (ng/l) 18135,55 ± 9686,24 24601,31 ± 7973,49 0,047
ULCs (B-line) 72,9 ± 31,65 100,45 ± 42,16 0,02
So sánh các yếu tố liên quan tới tình trạng suy 
tim cũng như lâm sàng của hai nhóm bệnh nhân tử 
vong (n=11) và được ra viện (n=42) cho thấy thời 
gian suy tim có sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm này, 
toàn bộ nhóm tử vong có mức NYHA IV, ULCs của 
nhóm tử vong lớn hơn có ý nghĩa so với nhóm ra 
viện, còn NT-ProBNP có sự khác biệt nhẹ (bảng 5). 
BÀN LUẬN
Đối với nhóm được ra viện, khi nghiên cứu đặc 
điểm số lượng B-line theo 28 cửa sổ và các đường 
khảo sát theo trục dọc ta thấy: các cửa sổ ở đường 
cạnh ức 2 bên có số lượng B-line ít hơn hẳn so 
với các cửa sổ còn lại cùng bên, sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả này có thể được 
giải thích do ở các bệnh nhân suy tim, tình trạng ứ 
dịch làm cho tim to che lấp vùng cạnh ức 2 bên, làm 
hạn chế quan sát B-line dẫn tới kết quả số B-line ở 
hai vùng này thấp hơn các vùng còn lại. Cửa sổ ở 
khoang liên sườn 3 đường nách trước 2 bên có số 
lượng B-line nhiều hơn các cửa sổ còn lại (p<0,05). 
Kết quả này tương tự nghiên cứu của Frassi [11] và 
Jambrik [12]. Hai tác giả này còn đưa ra một đề xuất 
là trong trường hợp cấp cứu chúng ta chỉ cần khảo 
sát ở hai vị trí duy nhất là khoang liên sườn 3 nách 
trước mỗi bên. 
Chia vùng ngực mỗi bên ra thành 2 vùng: vùng 
trước gồm các đường cạnh ức và đường giữa đòn, 
vùng bên gồm đường nách trước và nách giữa. So 
sánh số lượng B-line giữa các vùng cùng bên, ta thấy: 
bên phải mỗi vùng tương ứng có 8 cửa sổ, số lượng 
B-line vùng trước (18,17 ± 8,92) ít hơn số B-line ở 
vùng bên (19,86 ± 1,08), p<0,05. Bên trái mỗi vùng 
tương ứng có 6 cửa sổ, số lượng B-line ở vùng trước 
(16,09 ± 8,8) ít hơn vùng bên (18,5 ± 7,89), p< 0,01. 
Kết quả này của chúng tôi cũng tương tự kết quả 
trong nghiên cứu của tác giả Donadio C. và cộng sự 
kết quả cho thấy đường cạnh ức 2 bên có số lượng 
ít hơn các đường còn lại cùng bên và phân bố B-line 
không đồng đều giữa các vùng phổi khác nhau, 
một lượng lớn B-line được tìm thấy ở các vùng bên 
[13]. Nghiên cứu của Prosen và nghiên cứu của 
Lichtenstein, thấy số lượng B-line ở các vùng bên 
nhiều hơn ở các vùng trước [14] [15].
Tổng số điểm sao chổi phổi hay còn gọi là chỉ số 
ULCs là tổng số B-line thu được từ 28 cửa sổ siêu 
âm. Đây được coi là chỉ số đặc hiệu cho các nghiên 
cứu về siêu âm phổi ở bệnh nhân suy tim. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi kết quả thu được chỉ số 
ULCs tại thời điểm nhập viện của 42 bệnh nhân 
trung bình: 72,9 ± 31,65 cho thấy tình trạng ứ huyết 
phổi lúc vào viện của các bệnh nhân nghiên cứu đều 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201830
ở mức độ nhiều. Do bệnh nhân của chúng tôi đều 
nhập viện trong tình trạng suy tim mức độ từ trung 
bình đến nặng (NYHA III và IV). Chỉ số ULCs tại 
thời điểm nhập viện trong nghiên cứu của chúng tôi 
cao hơn trong nghiên cứu của Frassi F [11] ULCs 
trung bình là 50 ± 37. Do nghiên cứu này đối tượng 
là 340 bệnh nhân nhập viện tại khoa tim mạch nói 
chung, trong đó chỉ có 37 bệnh nhân suy tim cấp.
 Sau điều trị, cùng với sự thay đổi tích cực của 
các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, số lượng 
B-line cũng giảm đi rất nhiều, mức độ ứ huyết phổi 
cũng cải thiện nhiều. Nghiên cứu của chúng tôi cũng 
cho kết quả tương tự về sự thay đổi tích cực của số 
B-line sau điều trị, tương tự như trong nghiên cứu 
của Volpicelli [14], Noble [17], Mallamaci [18]. 
Mối tương quan của ULCs với NYHA, 
NT-proBNP, EF
Chỉ số ULCs có tương quan chặt chẽ đồng 
biến với NYHA tại thời điểm trước điều trị và 
sau điều trị với hệ số tương quan r lần lượt là 0,61 
và 0,57, p<0,01. Kết quả này cũng tương tự như 
trong nghiên cứu của Frassi F. [11] thấy ULCs có 
tương quan với NYHA tại thời điểm nhập viện. 
Chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính chặt chẽ 
với NT-proBNP tại thời điểm vào viện (r = 0,57; 
p<0,001), ra viện (r=0,71; p<0,001). Sở dĩ hệ số 
tương quan tại thời điểm nhập viện thấp hơn do siêu 
âm phổi và xét nghiệm NT-proBNP không được làm 
cùng một lúc như thời điểm ra viện. Tăng áp lực thất 
trái là cơ chế kích hoạt chung cho cả NT-proBNP và 
sự xuất hiện của B-line trên siêu âm phổi. Như vậy 
sự phù hợp tổng thể và mối tương quan của chỉ số 
ULCs và nồng độ NT-proBNP là điều không đáng 
ngạc nhiên. Nghiên cứu của Miglioranza [19], cho 
thấy chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính chặt chẽ 
với NT-proBNP (r = 0,72; p<0,0001). Nghiên cứu 
của Gargani L và cộng sự, chỉ số ULCs có tương quan 
khá chặt chẽ với NT-proBNP (r = 0,69; p< 0,0001). 
Cả hai nghiên cứu này đều được tiến hành ở khoa 
cấp cứu, siêu âm phổi và xét nghiệm NT-proBNP 
được làm cùng thời điểm nên hệ số tương quan lúc 
vào viện lớn hơn trong nghiên cứu của chúng tôi.
Khi nghiên cứu riêng nhóm bệnh nhân có phân 
suất tống máu thất trái giảm (EF ≤ 40%) chúng ta 
thấy có mối tương quan trung bình giữa chỉ số ULCs 
và EF với r = - 0,4; p<0,05. Ở nhóm bệnh nhân suy 
tim tâm thu nặng, tình trạng ứ dịch tại thất trái và nhĩ 
trái nặng nề hơn, đây là yếu tố tạo thuận cho sự xuất 
hiện và gia tăng của các B-line trên siêu âm phổi. Kết 
quả này cũng tương tự như nghiên cứu của nghiên 
cứu của Agricola E. [20], trong số các bệnh nhân suy 
tim tâm thu EF giảm (EF ≤ 40%), kết quả cho thấy 
chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính trung với EF 
(r = -0,37; p<0,01), nghiên cứu của Frassi F [11], ở 
các bệnh nhân suy chức năng tâm thu mức độ trung 
bình đến nặng (EF ≤ 45%), EF có mối tương quan 
trung bình với chỉ số ULCs (r = -0,354; p< 0,0001). 
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trên 53 
bệnh nhân vào viện vì suy tim NYHA III và IV. Phân 
loại suy tim theo NYHA đã trở nên kinh điển trong 
thực hành lâm sàng. Tuy nhóm tử vong (n=11) có 
100% là NYHA IV, nhưng trong số bệnh nhân được 
ra viện (n=42) thì cũng có tới 40,5% bệnh nhân 
(n=17) suy tim NYHA IV. Ở nhóm bệnh nhân này, 
sau điều trị các triệu chứng suy tim đều cải thiện rõ 
rệt chỉ còn 16,67% NYHA III; 83,33% NYHA II. 
Điều đó gợi ý rằng phân loại suy tim theo NYHA 
chỉ có tính chất tham khảo trong tiên lượng tử vong. 
Trong khi đó, ULCs ở nhóm tử vong (100,45 
± 42,16) lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm 
được ra viện (72,9 ± 31,65), mặc dù đều ở mức 
nhiều theo phân loại ứ huyết phổi của Picano và 
cộng sự (≥ 30). Điều này gợi ý cần nghiên cứu một 
mức ứ huyết phổi cao hơn (VD ≥ 60) để tiên lượng 
tử vong cho bệnh nhân. 
KẾT LUẬN
Ở nhóm bệnh nhân được ra viện sau điều trị, 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 31
ULCs giảm rõ rệt cùng với các thông số đánh giá suy 
tim. Chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính với mức 
độ suy tim theo NYHA, nồng độ NT-proBNP và EF 
≤ 40%, gợi ý UlCs cũng có thể là một trong những 
thông số đánh giá tình trạng suy tim. Sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê của chỉ số ULCs ở nhóm tử vong so 
với nhóm được ra viện gợi ý đây có thể là một yếu tố 
tiên lượng tử vong trên bệnh nhân suy tim mạn tính 
có đợt cấp mất bù. Chúng tôi khuyến nghị tiếp tục 
nghiên cứu lớn hơn về ứng dụng của chỉ số ULCs 
trong thực hành lâm sàng. Trong thực hành lâm sàng, 
chúng tôi đề xuất ứng dụng đánh giá ULCs ở các cửa 
sổ bên (đường nách trước và giữa) tốt hơn so với 
các cửa sổ trước ngực (đường cạnh ức và giữa đòn). 
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô 
tại Viện Tim mạch Việt Nam, Phòng Siêu âm Tim 
Mạch, các đồng nghiệp và các bệnh nhân tham gia 
nghiên cứu này.
ABSTRACT
Ultrasound lung comets: a clinical index of pulmonary congestion
Multiple B-lines (also called lung comets) representatives to a congested lung, particularly in heart 
failure patients [1][2][3]. In order to validate the lung ultrasound technique on Vietnamese patients, a 
group of 53 heart failure subjects (NYHA III, IV), at the time of the first 4 hours since admission, was 
observed by clinical symptoms and determined cardiac failure indexes along with lung ultrasound. In 28 
views (including 12 on the left and 16 on the right chest), we counted the number of B-line (Ultrasound 
lung comets_ULCs index) at baseline and right before patients’ recovery. 
Result: during study time, there were 11/53 patient died. All of observed patients had high ULCs 
index (≥ 30 B-line) at baseline. In the recovered group (n=42), ULCs-I was decreased significantly after 
the period of treatment (from 72,9 ± 31,65 to 26,67 ± 13 (P < 0,001). ULCs-I was found a covariate 
correlation with NYHA, NT-proBNP, and an inverted correlation with EF. In the died group (n=11), 
all of them had classified at NYHA IV, with sighnificant higher of “time to have heart failure diagnosis”, 
NT-proBNP, and ULCs-I (with P was 0.0001, 0.047, 0.02 respectively). 
Conclusion and recommendation: There is a correlation between ULCs-I and heart failure indexes 
(NYHA, NT-proBNP concentration, and EF). Significant reduction of B-line number after treatment in 
heart failure patients suggests that ULCs might be one of predictor of re-admission and suitable index for 
follow up the patients. Significant difference between death and recovery group suggest the ULCs-I might 
be a predictor of death. The index should be widely applied to heart failure patients in clinical practice. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gargani L. và Volpicelli G. (2014). How I do it: Lung ultrasound. Cardiovasc Ultrasound, 12, 25.
2. Ang S.-H. và Andrus P. (2012). Lung Ultrasound in the Management of Acute Decompensated Heart 
Failure. Curr Cardiol Rev, 8(2), 123–136.
3. M Tsverava, D Tsverava (2010). Comet tail artefact in diagnosis of pulmonary congestion in patients 
with diastolic heart failure. 187 28 35.
4. Mosterd A. và Hoes A.W. (2007). Clinical epidemiology of heart failure. Heart, 93(9), 1137-1146.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201832
5. Gheorghiade M. và Zannad F. (2005). Modern management of acute heart failure syndromes. Eur 
Heart J Suppl, 7(suppl_B), B3–B7.
6. Lange N.R. và Schuster D.P. (1999). The measurement of lung water. Crit Care, 3(2), R19–R24.
7. Ponikowski P., Voors A.A., Anker S.D. và cộng sự. (2016). 2016 ESC Guidelines for the diagnosis 
and treatment of acute and chronic heart failure: The Task Force for the diagnosis and treatment of acute 
and chronic heart failure of the European Society of Cardiology (ESC)Developed with the special 
contribution of the Heart Failure Association (HFA) of the ESC. Eur Heart J, 37(27), 2129–2200.
8. Gargani L. (2011). Lung ultrasound: a new tool for the cardiologist. Cardiovasc Ultrasound, 9, 6.
9. Summerfield D.T. và Johnson B.D. (2013). Lung Ultrasound Comet Tails - Technique and Clinical 
Significance. .
10. Summerfield D.T. và Johnson B.D. (2013). Lung Ultrasound Comet Tails -Technique and Clinical 
Significance. .
11. Frassi F., Gargani L., Gligorova S. và cộng sự. (2007). Clinical and echocardiographic determinants 
of ultrasound lung comets. Eur J Echocardiogr, 8(6), 474–479.
12. Jambrik Z., Monti S., Coppola V. và cộng sự. (2004). Usefulness of ultrasound lung comets as a 
nonradiologic sign of extravascular lung water. Am J Cardiol, 93(10), 1265–1270.
13. Effective and Timely Evaluation of Pulmonary Congestion: Qualitative Comparison Between Lung 
Ultrasound and Thoracic Bioelectrical Impedance in Maintenance Hemodialysis Patients - Semantic 
Scholar. </paper/Effective - and - Timely - Evaluation - of - Pulmonary - Conge - Donadio - Bozzoli/
caa20cd11dfa55ff250ffde97d1fed1e2ce05884>, accessed: 19/09/2017.
14. Prosen G., Klemen P., Strnad M. và cộng sự. (2011). Combination of lung ultrasound (a comet-tail 
sign) and N-terminal pro-brain natriuretic peptide in differentiating acute heart failure from chronic 
obstructive pulmonary disease and asthma as cause of acute dyspnea in prehospital emergency setting. Crit 
Care, 15(2), R114.
15. Lichtenstein D. và Mezière G. (1998). A lung ultrasound sign allowing bedside distinction between 
pulmonary edema and COPD: the comet-tail artifact. Intensive Care Med, 24(12), 1331–1334.
16. Volpicelli G., Caramello V., Cardinale L. và cộng sự. (2008). Bedside ultrasound of the lung for the 
monitoring of acute decompensated heart failure. Am J Emerg Med, 26(5), 585–591.
17. Noble V.E., Murray A.F., Capp R. và cộng sự. (2009). Ultrasound assessment for extravascular lung 
water in patients undergoing hemodialysis. Time course for resolution. Chest, 135(6), 1433–1439.
18. Mallamaci F., Benedetto F.A., Tripepi R. và cộng sự. (2010). Detection of pulmonary congestion 
by chest ultrasound in dialysis patients. JACC Cardiovasc Imaging, 3(6), 586–594.
19. Miglioranza M.H., Gargani L., Sant’Anna R.T. và cộng sự. (2013). Lung ultrasound for the evaluation 
of pulmonary congestion in outpatients: a comparison with clinical assessment, natriuretic peptides, and 
echocardiography. JACC Cardiovasc Imaging, 6(11), 1141–1151.
20. Agricola E., Picano E., Oppizzi M. và cộng sự. (2006). Assessment of stress-induced pulmonary 
interstitial edema by chest ultrasound during exercise echocardiography and its correlation with left 
ventricular function. J Am Soc Echocardiogr Off Publ Am Soc Echocardiogr, 19(4), 457–463.

File đính kèm:

  • pdfdau_hieu_duoi_sao_choi_b_line_tren_sieu_am_phoi_mot_yeu_to_d.pdf