Dấu ấn văn hóa qua cách xưng hô trong gia đình người Việt và người Pháp

TÓM TẮT

Gia đình là một tế bào xã hội, một môi trường đặc biệt góp phần hình thành và nuôi dưỡng nhân

cách của mỗi thành viên. Văn hóa ứng xử trong gia đình nói chung, văn hóa xưng hô trong gia

đình nói riêng thể hiện những nét đặc trưng của mỗi quốc gia, dân tộc. Nghiên cứu cách xưng hô

trong gia đình Việt Nam và Pháp dưới góc độ ngôn ngữ-văn hóa cho thấy những điểm tương đồng

và khác biệt thú vị trong quan niệm cũng như cách ứng xử của hai dân tộc; từ đó vận dụng hiệu

quả kiến thức ngôn ngữ và văn hóa trong quá trình giao tiếp với người bản xứ.

pdf 11 trang phuongnguyen 3020
Bạn đang xem tài liệu "Dấu ấn văn hóa qua cách xưng hô trong gia đình người Việt và người Pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu ấn văn hóa qua cách xưng hô trong gia đình người Việt và người Pháp

Dấu ấn văn hóa qua cách xưng hô trong gia đình người Việt và người Pháp
61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gia đình là một môi trường đặc biệt, nơi đó 
hình thành và nuôi dưỡng nên nhân cách mỗi con 
người. Dù ở bất cứ chế độ xã hội nào, điều kiện 
địa lý và hoàn cảnh kinh tế nào thì gia đình vẫn 
giữ nguyên những đặc trưng với các mối quan hệ 
huyết thống, thân thuộc, yêu thương. Tình yêu, sự 
quan tâm, kính trọng, tất cả luôn hiện diện và 
trường tồn như một sợi dây vĩnh cửu gắn kết các 
mối quan hệ gia đình giữa vợ-chồng, cha mẹ-con 
cái, anh-chị-em, ông bà-cháu chắt.
Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến 
dấu ấn văn hóa của hai quốc gia ở hai vùng khác 
biệt về cả văn hóa, lãnh thổ địa lý thể hiện trong 
cách xưng hô giữa các thành viên trong gia đình. 
Nếu Pháp là một đất nước phát triển với nền văn 
TRỊNH THỊ XOAN*
*Học viện Khoa học Quân sự, trinhminhxoan80@gmail.com
Ngày nhận bài: 08/5/2018; ngày sửa chữa: 30/5/2018; ngày duyệt đăng: 20/6/2018
DẤU ẤN VĂN HÓA QUA CÁCH XƯNG HÔ 
TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI PHÁP
TÓM TẮT
Gia đình là một tế bào xã hội, một môi trường đặc biệt góp phần hình thành và nuôi dưỡng nhân 
cách của mỗi thành viên. Văn hóa ứng xử trong gia đình nói chung, văn hóa xưng hô trong gia 
đình nói riêng thể hiện những nét đặc trưng của mỗi quốc gia, dân tộc. Nghiên cứu cách xưng hô 
trong gia đình Việt Nam và Pháp dưới góc độ ngôn ngữ-văn hóa cho thấy những điểm tương đồng 
và khác biệt thú vị trong quan niệm cũng như cách ứng xử của hai dân tộc; từ đó vận dụng hiệu 
quả kiến thức ngôn ngữ và văn hóa trong quá trình giao tiếp với người bản xứ.
Từ khóa: đại từ nhân xưng, gia đình, giao tiếp, người Việt, người Pháp, văn hóa, xưng hô
minh lâu đời của Châu Âu, với tôn giáo chính là 
đạo Thiên chúa giáo và nền dân chủ, đề cao cái tôi, 
bản ngã cá nhân trong xã hội thì Việt Nam lại điển 
hình cho một đất nước đang phát triển với nền sản 
xuất nông nghiệp lâu đời và ảnh hưởng mạnh mẽ 
bởi nền tư tưởng Nho giáo, đạo Khổng.
Xuất phát từ hai đặc trưng này mà trong phạm 
vi gia đình, mỗi quốc gia sẽ có những nét đặc trưng 
trong cách xưng hô giữa các thành viên trong gia 
đình. Hiện nay, nhiều gia đình Việt còn chung sống 
với bốn thế hệ nhưng đa số tồn tại hình thái gia 
đình ba thế hệ. Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết 
này, chúng ta sẽ đi sâu vào thói quen xưng hô trong 
gia đình ba thế hệ ông/bà-con-cháu của hai dân tộc 
Pháp-Việt. Khám phá ra những dấu ấn văn hóa và 
mang đến những giải đáp thú vị cho từng cách sử 
dụng loại ngôn ngữ trong môi trường đặc biệt này 
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về văn hóa mỗi quốc gia, 
góp phần giảm thiểu được những rào cản văn hóa 
trong giao tiếp.
2. HỆ THỐNG ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG 
VÀ CÁCH XƯNG HÔ TRONG GIA ĐÌNH 
NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI PHÁP
2.1. Khái niệm xưng hô và đại từ xưng hô
Trong quá trình giao tiếp, xưng hô là hành vi 
ngôn ngữ xuất hiện liên tục trong mỗi lời thoại của 
người tham gia giao tiếp. Ngôn ngữ xưng hô cho 
phép ta định rõ các vai, thứ bậc, mối quan hệ của 
các đối tượng tham gia vào cuộc trò chuyện, giao 
tiếp. Xoay quanh cuộc giao tiếp đó, ngôn ngữ xưng 
hô sẽ xoay quanh ba trục cơ bản: người nói-người 
nghe-người thứ ba được nhắc đến trong câu chuyện.
Theo Lê Hoàng Sang (2014, tr.9), “xưng” là 
sự quy chiếu đến người nói, là cách mà người nói 
tự gọi mình khi trò chuyện với người khác. Hành 
động “xưng” được thực hiện thông qua một từ 
xưng hô ở ngôi thứ nhất số ít, hai người xưng trở 
lên với ngôi nhân xưng thứ nhất số nhiều. “Hô” là 
sự quy chiếu đến người nghe, là cách mà người nói 
gọi người đang trò chuyện với mình. Hoạt động 
“hô” được thực hiện thông qua một từ xưng hô ở 
ngôi thứ hai, một người nghe ứng với ngôi thứ hai 
số ít, từ hai người nghe trở lên ứng với ngôi thứ 
hai số nhều. Từ “xưng hô” ở ngôi thứ ba dùng để 
quy chiếu đến người thứ ba được nhắc đến trong 
cuộc hội thoại. 
Như vậy “Xưng hô” là tự xưng mình và cách 
gọi người khác bằng những danh xưng tương ứng 
khi giao tiếp nhằm biểu thị thứ bậc, mối quan hệ, 
sắc thái tình cảm, cảm xúc giữa những cá thể 
tham gia vào cuộc đối thoại.
Theo Từ điển Giáo dục Việt Nam (2001, 
tr.497): “Đại từ nhân xưng (còn gọi là đại từ xưng 
hô) là đại từ dùng để tự xưng (ngôi thứ nhất), để 
gọi người đối thoại (ngôi thứ hai) và để gọi người 
hay sự vật thứ ba (ngôi thứ ba), bao gồm số ít và 
số nhiều”. 
Từ những định nghĩa và quan điểm trên, có 
thể thấy, trong quá trình giao tiếp, các cá thể có 
thể đổi vai người nói (phát ngôn) và người nghe 
và các đại từ nhân xưng cũng được luân phiên sử 
dụng hết sức linh hoạt trong quá trình giao tiếp 
giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Riêng ngôi thứ 
ba, vì không thuộc phạm trù xưng-hô nên sẽ không 
có sự thay đổi trong quá trình giao tiếp. 
Liên quan đến cách xưng hô, chúng ta cần có 
sự phân biệt khái niệm đại từ nhân xưng và danh 
xưng. Đại từ nhân xưng thuộc phạm trù ngôn ngữ, 
là một phần không thể thiếu đối với một ngôn ngữ 
và đều có điểm chung trong mọi ngôn ngữ là gồm 
ba ngôi: thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Ở đây, chúng 
tôi sẽ tập trung nghiên cứu cách xưng hô trong 
gia đình và cách sử dụng các danh xưng trong các 
cuộc giao tiếp trực tiếp của các thành viên, tức là 
các danh xưng được sử dụng ở ngôi thứ nhất và 
ngôi thứ hai. Danh xưng hay cụ thể là các danh 
xưng thân mật trong cách xưng hô của các thành 
viên trong gia đình là những đặc trưng riêng của 
mỗi cộng đồng ngôn ngữ, mỗi gia đình, thậm chí 
là của mỗi cá thể tham gia giao tiếp. Tìm hiểu về 
cách xưng hô trong gia đình, chúng ta sẽ khám phá 
ra những nét đặc sắc, dấu ấn văn hóa hay cá tính 
của mỗi một cộng đồng hay cá thể sử dụng ngôn 
ngữ đó.
2.2. Hệ thống đại từ nhân xưng và cách xưng 
hô trong gia đình người Việt và người Pháp
2.2.1. Đại từ nhân xưng
Xét về khía cạnh ngôn ngữ, cả hai quốc gia 
đều có nguồn gốc ngôn ngữ là hệ chữ La tinh. Tuy 
nhiên, tiếng Việt lại mang âm sắc của chữ Nôm, 
một ngôn ngữ chịu ảnh hưởng của tiếng Hán 
(Trung Quốc). Trước khi đi sâu vào phân tích các 
dấu ấn văn hóa qua cách xưng hô trong gia đình, 
chúng ta cùng tìm hiểu sơ lược về hệ thống đại từ, 
phương tiện ngôn ngữ không thể thiếu trong hoạt 
động giao tiếp đặc biệt này.
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Bảng 1: Hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Pháp và 
tiếng Việt
Đại từ
nhân xưng
Tiếng 
Pháp
Tiếng Việt
Ngôi thứ nhất 
số ít
Je Tôi, em, mình, tớ, tao, 
con
Ngôi thứ hai 
số ít
Tu/Vous Cậu, bạn, em, mình, 
mày, con, cháu
Ngôi thứ ba 
số ít
Il/Elle Anh ấy, hắn, cô ấy, bà 
ấy, chị ấy, gã, y, thị
Ngôi thứ nhất 
số nhiều
Nous Chúng tôi, chúng ta, 
chúng tớ, bọn mình, 
bọn tao
Ngôi thứ hai 
số nhiều
Vous Các anh, các chị, các 
bạn, bọn mày, bọn 
bay
Ngôi thứ ba 
số nhiều
Ils/Elles Các anh ấy, các bà ấy, 
các ông ấy, bọn nó, 
chúng nó
Quan sát bảng hệ thống đại từ nhân xưng trên, 
có thể nhận thấy hệ thống đại từ của tiếng Việt 
phức tạp hơn của tiếng Pháp rất nhiều. Về cơ bản, 
trong tiếng Pháp, đại từ nhân xưng đơn giản và ổn 
định trong các tình huống giao tiếp. Trong khi đó, 
tiếng Việt lại tùy mối quan hệ giữa những người 
tham gia giao tiếp sẽ có đại từ phù hợp. Ví dụ, giữa 
bạn bè là tớ-cậu, tôi-ông, bà-tui giữa vợ chồng: 
mình-em/anh, vợ-chồng. 
2.2.2. Danh xưng và cách xưng hô trong gia 
đình người Việt
Trong gia đình người Việt, do hệ thống đại từ 
không những phong phú mà còn rất tinh tế và thay 
đổi phức tạp theo mục đích giao tiếp khác nhau, 
với mỗi đối tượng khác nhau. Đối với người nước 
ngoài mới học tiếng Việt và chưa sinh sống ở Việt 
Nam thì đây là một rào cản khá lớn, vì họ chưa thể 
thấu hiểu được cái tinh túy, lễ nghĩa, tình cảm 
trong giao tiếp của người Việt.
Do ảnh hưởng của nền văn hóa phương Đông 
và nền giáo dục Nho giáo đã tồn tại và ăn sâu vào 
tiềm thức từ bao đời nay, nên trong cách xưng hô 
của người Việt thường ý nhị và sâu sắc. Do đó, các 
danh xưng thân mật không đa dạng và phong phú so 
với ngôn ngữ phương Tây và thường được sử dụng 
chủ yếu trong mối quan hệ gia đình. Trong phần 
này, với những kiến thức và trải nghiệm thực tế đã 
thu lượm được trong đời sống, chúng ta sẽ cùng 
tìm hiểu cách xưng hô trong gia đình Việt xoay 
quanh bốn mối quan hệ cơ bản của gia đình là: vợ-
chồng, cha/mẹ-con cái, anh/chị-em, ông/bà-cháu.
Cách xưng hô giữa vợ và chồng
Đây là mối quan hệ thiêng liêng, khởi điểm 
cho việc hình thành và phát triển của một gia đình. 
Cách xưng hô cũng như các danh xưng giữa vợ 
chồng của người Việt thay đổi theo từng giai đoạn 
của cuộc đời. 
Vợ chồng trẻ những năm đầu sau khi cưới, 
khi xưng hô với nhau vẫn hay sử dụng những từ 
xưng hô thân mật như lúc trước khi kết hôn. Cách 
xưng hô thân mật giữa các cặp vợ chồng rất đa 
dạng. Tuy nhiên, người Việt không có thói quen sử 
dụng danh xưng thân mật khi có mặt người thứ ba. 
Thông thường, sau kết hôn, các cặp vợ chồng sẽ 
xưng hô “anh-em”, “vợ-chồng”. 
Giới trẻ hiện nay thường có xu hướng từ 
trước khi kết hôn đã xưng hô với nhau là “vợ-
chồng”, “ông xã-bà xã”, “vợ yêu-chồng yêu”... 
Ngoài ra còn hay dùng những từ theo phương Tây 
như “honey”, “baby” 
Đến khi hết thời kỳ vợ chồng son, các cặp vợ 
chồng cũng thể hiện sự gần gũi, thân thương bằng 
tiếng “mình” (mình - anh/em).
- Mình ơi nhớ về ăn cơm sớm nhé.
- Anh chưa biết được, còn tùy công việc nữa 
mình ạ.
Vợ chồng khi bước vào tuổi làm cha mẹ lại có 
cách xưng hô thân mật khác. Lúc này vợ chồng 
gọi nhau thường hay gọi theo quan hệ với con như: 
“mẹ thằng Cún”, “bố cu Bi”, “má nó”, “ba nó” 
64 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
hay với cháu: “bà cu Bo”, “ông ngoại Sóc”.
- Má nó nhớ qua nhà bà ngoại chiều nay nhé. 
Hình như bà ốm đấy.
- Bố Cún về chưa vậy? Em đợi ở nhà nhé.
Khi đã lên ông, lên bà, tiếng “anh-em” hay 
“mình-anh/em” sẽ được thế chỗ cho cách xưng hô 
thay cho các cháu.
- Ông nội Nil ơi, tôi ra chợ mua mớ rau nhé!
Khi cùng nói chuyện với nhau, ở tuổi cao người 
Việt cũng thường xưng hô “ông/ông nó-tôi”, “bà/
bà nó-tôi”, thể hiện mình đã ở tuổi lên ông lên bà, 
cách xưng hô anh-em như thời trẻ dần được thay thế.
- Đấy, tôi nói rồi mà bà không nghe, nó lại bỏ 
đi rồi.
- Ông nó cứ bình tĩnh, việc đâu còn có đó. 
Thực tế, cách xưng hô và danh xưng trong mối 
quan hệ vợ chồng hết sức phong phú theo từng 
cung bậc cảm xúc và trong những ngữ cảnh khác 
nhau. Tuy nhiên, trong bài viết này chúng ta chỉ 
tìm hiểu cách xưng hô chuẩn mực và phổ biến nhất 
trong các gia đình Việt.
Cách xưng hô giữa cha mẹ và con cái
Thông thường, danh xưng phổ biến nhất trong 
mối quan hệ này của người Việt là: “bố/mẹ-con” 
(miền Bắc); “ba/má-con” (miền Nam).
Tuy nhiên, xét về lịch sử, trong gia đình Việt 
xưa cũng có nhiều cách xưng hô khác nhau. 
Trong các gia đình giàu có, người Việt xưa xưng 
hô là:“cậu/mợ - con”, hay là “cậu/mợ-anh/chị”. 
Còn trong các gia đình bình dân thì có những danh 
xưng như: “thầy/bu-con” hay “thầy/u-con, “thầy/
đẻ-con”
Xét về vùng miền địa lý, trong gia đình Việt 
cũng có những điểm khác biệt nhất định. Người 
Việt ở các gia đình vùng cao thường hay xưng 
hô:“bố/mế-con. Ở miền Trung là: “ba/má-con” 
còn ở các tỉnh miền Tây Nam bộ là “tía/má-con”. 
Có thể nói, các danh xưng giữa cha mẹ và con cái 
trong gia đình Việt hết sức phong phú. Trên đây 
chỉ là những danh xưng mang tính phổ biến nhất.
Các danh xưng mà bố mẹ dành cho con cái 
cũng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của 
đứa con. Khi mới sinh ra, nhiều em bé đã có cả tên 
khai sinh và tên thân mật dùng để gọi khi ở nhà. 
Thế hệ trước có thói quen gọi là Cu, Cò, Tũn với 
con trai và Hĩm, Gái, Đĩ với con gái. Ngày nay, 
các em bé có nhiều hơn những danh xưng thân mật 
như: Honey, Coca, Bon, Bánh bao, Cà phê, Bào 
Ngư tùy vào sở thích của bố mẹ.
Cách xưng hô giữa anh/chị và em
Xưng hô trong mối quan hệ này vẫn chủ yếu 
là dùng cặp đại từ “anh-em”. Thực tế, ở nhiều gia 
đình anh chị còn gọi em là “mày” xưng “tao”, 
tuy nhiên cách nói này không được khuyến khích 
và không phải là chuẩn mực của danh xưng trong 
gia đình, trừ trong gia đình của các dân tộc thiểu 
số, nơi mà người dân sử dụng tiếng nói của cộng 
đồng mình.
Danh xưng thân mật giữa anh/chị-em là rất ít. 
Ở miền Nam, đặc biệt là ở những vùng sông nước 
thì gọi anh, chị, em ruột thịt theo thứ tự trong gia 
đình cùng với tên của người đó ví dụ như: “Út 
Nga”, “Tư Thọ” hoặc ngắn gọn hơn thì chỉ gọi 
theo thứ tự trong gia đình: “Chị Hai”, “Anh Ba”.
Khi đã trưởng thành và có con cái, cách xưng 
hô giữa anh-chị-em lại có sự thay đổi, đó là cách 
sử dụng đại từ xưng hô thay cho con. 
- Cô thấy chị nhà anh/tôi đợt này thay đổi 
nhiều không? (Anh nói với em gái).
Cách xưng hô này cho ta thấy rõ sự hiện diện 
của thế hệ thứ ba, các con, cháu với cha mẹ, ông 
bà, cô dì, chú bác cứ mặc định trong các cuộc giao 
tiếp giữa các thành viên một cách tự nhiên, làm 
phong phú thêm các danh xưng trong gia đình.
Cách xưng hô giữa ông bà và cháu
65KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Ở miền Bắc và theo tiếng phổ thông, cách 
xưng hô “ông/bà-cháu” phổ biến nhất trong các 
gia đình. Ở miền Nam, cháu gọi ông bà nội hay 
ông bà ngoại thường rút gọn lại còn tiếng “nội”, 
“ngoại” (chung cho cả ông và bà) để nói chuyện 
với nhau. Rất nhiều ông bà dùng tiếng“con” để 
gọi cháu. Ngược lại cũng rất nhiều cháu dùng 
tiếng “con” để xưng với ông bà.
- Con chào nội, con về ạ.
- Nội chào con, đi cẩn thận nghe con.
Có thể thấy rằng, các danh xưng và cách 
xưng hô của các thành viên gia đình Việt vô cùng 
phong phú và không ngừng thay đổi theo sự phát 
triển, lớn mạnh về số lượng các thành viên trong 
gia đình. Từ thời điểm chỉ có “hai vợ chồng son” 
đến khi nên ông nên bà, cách xưng hô có một quá 
trình phát triển hết sức tự nhiên, thú vị nhưng cũng 
mang đậm nét văn hóa, sự gắn kết của tình cảm 
ruột thịt đầy yêu thương, trìu mến.
2.2.3. Danh xưng và cách xưng hô trong gia 
đình người Pháp
Đối với người Pháp, đại từ nhân xưng được sử 
dụng gần như duy nhất trong mối quan hệ giữa các 
thành viên trong gia đình là ngôi “je-tu” hay “moi-
toi” (tutoyer). Trong văn chương cổ và trong các 
gia đình quý tộc xưa, người Pháp cũng có sử dụng 
cặp đại từ “je-vous” hay “moi-vous” (vouvoyer). 
Tuy nhiên, thói quen này hiện không còn trong gia 
đình hiện đại.
Thế hệ ông bà (grands-parents) gồm có ông 
bà nội (grands-parents paternels) và ông bà ngoại 
(grands-parents maternels). Sau đó đến bố (père) 
và mẹ (mère) và các con gồm: anh/em trai (frère) 
và chị/em gái (sœur). Trong tiếng Pháp, trường 
hợp là anh/chị sẽ thêm từ grand(e) (lớn) ở trước 
mỗi danh xưng thành grand-frère và grande-sœur, 
nếu là em trai/gái sẽ thêm tiền tố petit(e) (nhỏ) và 
chuyển thành petit-frère và petite-sœur. Đi sâu vào 
tìm hiểu các danh xưng thân mật qua các mối quan 
hệ: vợ-chồng, cha mẹ-con cái, anh/chị-em và ông/
bà-cháu chúng ta sẽ phát hiện ra những nét tinh tế 
và sự đa dạng của từ loại này.
Cách xưng hô giữa vợ và chồng
Trong ... ác con, cháu là 
nhằm dễ nuôi, dễ gọi thì ngày nay xu hướng “Âu 
hóa” rất rõ qua các danh xưng. Những cái tên thân 
mật như Tom, Nicky, Nil xuất hiện khá nhiều. 
Bên cạnh đó, cũng giống như tên yêu trong tiếng 
Pháp, những cái tên mang tên các con vật yêu, 
nhân vật hoạt hình như Mickey, Miu, Cún, Ben
cũng rất quen thuộc. Bên cạnh đó, còn có những 
tên độc đáo gắn liền với câu chuyện riêng từ thuở 
trong bào thai cho đến khi ra đời của mỗi đứa trẻ 
như: Bánh Bao, Cô Ca, Hạt Xoài, Cà Phê  cũng 
rất riêng và thú vị. Có một điểm chung nằm trong 
điều cấm kỵ trong gia đình người Pháp cũng như 
người Việt, đó là gọi tên tục của cha mẹ để xưng 
hô. Tuy nhiên, nếu với người Pháp là một nguyên 
tắc theo suốt cuộc đời thì với người Việt có sự thay 
đổi theo giai đoạn. Khi còn nhỏ, các em bé vẫn nói:
- Mẹ Linh ơi, Ken yêu mẹ nhất trên đời!
Nhưng trong gia đình Pháp, đối với ngôi thứ 
hai mà là ông bà, cha mẹ thì con cháu không gọi 
tên mà chỉ dùng danh xưng thân mật: “papa/
68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
maman” hay “mémé/papi”. Với người Việt, khi 
trưởng thành, con cũng tránh gọi tên của bố mẹ, 
ông bà mà chỉ đơn giản gọi là “bố/mẹ”, “ông/bà”.
Nếu cách xưng hô bằng danh xưng tên yêu đối 
với con, cháu trong các gia đình là một thói quen 
phổ biến thì cách xưng hô giữa vợ và chồng của 
người Việt và người Pháp có nhiều điểm khác biệt. 
Đối với người Pháp, do ảnh hưởng nền văn minh 
phương Tây đề cao cách thể hiện tình cảm tự nhiên, 
cái tôi cá nhân và đời sống tình cảm luôn được 
thể hiện tự nhiên, công khai, nên cách xưng hô 
giữa vợ chồng và cách thể hiện tình cảm cũng hết 
sức cởi mở. Để thể hiện tình cảm, sự yêu thương, 
người Pháp xưng hô không ngại ngần bằng những 
danh xưng thân mật (surnoms intimes). Từ lúc còn 
yêu nhau cho đến lúc kết hôn và khi đã lớn tuổi 
thì người Pháp vẫn giữ thói quen xưng hô bằng 
những danh xưng thân mật như “chéri(e)”, “mon 
amour”, “ma puce”
Người Việt, với sự ảnh hưởng của đạo Nho, 
đạo Khổng, cái tôi bản ngã luôn ẩn dấu sau những 
mối quan hệ lớn hơn như đạo vua-tôi, thầy-trò 
và đời sống tình cảm riêng tư là những điều mà 
trong truyền thống không được thể hiện ồn ào, 
công khai, phải ý nhị, tinh tế. Trong ngôn ngữ xưa, 
những danh xưng thường được sử dụng là “chúa 
công-thiếp”, “nàng-ta” là những chuẩn mực trong 
giao tiếp. Xu hướng hiện đại thì những danh xưng 
thường được sử dụng là “anh-em”, thân mật hơn 
là “mình-em/anh”. Khi đã có con, người Việt xưng 
hô theo cách xưng hô “hộ con”. Con cái chính là 
sợi dây gắn kết tình vợ chồng, là kết tinh của hạnh 
phúc vợ chồng. Thói quen này thể hiện tình cảm vợ 
chồng của người Việt được ẩn đằng sau niềm vui có 
con cái đề huề, có người nối dõi, đó là quan điểm 
ăn sâu vào tiềm thức người Việt từ xưa đến nay. 
Đối với người Việt, tình yêu vợ chồng và niềm 
tự hào ấy thể hiện qua danh xưng “mình-em”, “anh-
em” rồi đến “bố nó-mẹ nó” và khi về già thì gọi 
nhau là “ông nội-bà nội/ông ngoại-bà ngoại” (cu 
Tý). Cứ như vậy, hình ảnh con cháu len lỏi vào trong 
các danh xưng của người Việt lúc nào không hay. 
3.3. Đặc tính lịch sự, lễ phép và tôn ti, trật 
tự trong xưng hô
Thái độ lễ phép, kính trọng trong xưng hô của 
người Việt được thể hiện rõ nét trong mối quan hệ 
gia đình. Đầu tiên phải kể đến tính thứ bậc rõ ràng 
và tuyệt đối trong xưng hô. Tiếp đó là các từ bổ 
sung trong các phát ngôn như “thưa” hay từ “ạ” 
ở đầu và cuối các câu thoại.
- Thưa bố, thưa mẹ, con xin phép được trình 
bày một việc ạ.
- Bà ơi, bà đã ăn cơm chưa ạ?
Như vậy, trong cách xưng hô với người trên 
nói chung và đặc biệt giữa các thành viên trong gia 
đình ẩn chứa những dấu ấn của lễ giáo, lễ nghĩa hết 
sức truyền thống từ xa xưa để lại. Những yếu tố 
ngôn ngữ dù rất nhỏ đi kèm với các danh xưng này 
giúp người nghe xác định ngay được mối quan hệ 
và thứ bậc của các cá thể tham gia giao tiếp đồng 
thời đánh giá được nhân cách, đạo đức của các cá 
thể đó. Chuẩn mực này trong giao tiếp luôn được 
duy trì và phát triển qua các thế hệ gia đình Việt. 
Những sắc thái này thực sự không tìm thấy trong 
cách xưng hô của người Pháp. Thật đơn giản, chỉ 
có cặp đại từ “je” - “tu” là đủ cho một mối quan 
hệ thân thuộc trong gia đình. Có lẽ sắc thái biểu 
cảm qua ngôn ngữ chỉ được nhận biết qua ngữ 
điệu, cách nhấn nhá trong phát ngôn mà thôi. 
Một nét nổi bật trong xưng hô của người Việt 
là thể hiện rõ tính tôn ti, thứ bậc của các thành 
viên trong gia đình. Trong mối quan hệ giữa vợ 
và chồng, dù có từ “mình” thể hiện sự bình đẳng 
trong xưng hô nhưng sau từ mình đó thì người 
“xưng” nếu là vợ vẫn phải nói là “em”, và dù vợ 
có hơn tuổi chồng thì danh xưng “anh” vẫn là bắt 
buộc khi nói với chồng. 
Trong mối quan hệ anh/chị và em trong gia 
đình Việt, đặc điểm này được thể hiện rõ rệt nhất, 
do ảnh hưởng của Nho giáo, quan hệ anh/chị-em 
cũng là một chuẩn mực: phải có trật tự, tôn ti. 
Trong gia đình Việt, do tư tưởng trọng nam khinh 
69KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
nữ từ xưa để lại và cũng do đặc điểm người con 
gái khi đi lấy chồng “là con, là ma nhà người ta” 
nên chỉ người con trai trưởng mới có quyền lực 
cao nhất trong đại gia đình. Khi còn nhỏ được gọi 
là anh Cả, anh Hai, khi trưởng thành luôn gọi là 
Bác Trưởng, người có quyền thay cha mẹ quyết 
định những việc lớn trong gia đình. Khi người anh 
Cả không đảm đương nổi vai trò của mình thì có 
thể người em thứ thay anh gánh vác nhưng dù sao 
vẫn phải hỏi ý kiến vì người Việt quan niệm “Anh 
Cả giả cha”. Những lý giải ở trên cho ta hiểu tại 
sao trong anh chị em người Việt luôn yêu cầu phải 
xưng hô anh ra anh, em ra em, không được “cá mè 
một lứa”.
So sánh với cách xưng hô của gia đình Pháp 
ta có thể thấy dấu hiệu của tôn ti trật tự thể hiện 
qua các danh xưng là hoàn toàn không mang đặc 
trưng riêng như người Việt. Với người Pháp, chỉ 
đơn giản là gọi tên và xưng hô ngôi “tu” là đủ. 
Tuy nhiên, khác với quan hệ cha mẹ-con cái, anh/
chị-em dâu/rể trong gia đình sử dụng đại từ “tu” 
để xưng hô với nhau, giữa họ không phân biệt thứ 
bậc và trật tự rõ ràng cũng như quan hệ ruột thịt 
hay không. Có lẽ đây là quan niệm mang tính cộng 
đồng giữa những người trẻ được duy trì trong đại 
gia đình. Trong thực tế, giữa anh/chị-em, ngay từ 
nhỏ, một đứa trẻ đã ý thức mình là một cá thể trong 
xã hội, mối liên hệ anh/chị-em là khá lỏng lẻo, từ 
việc ở phòng riêng biệt, sử dụng đồ đạc, đồ dùng, 
sở thích khác nhau cho đến khi lập gia đình và 
sống riêng. Mỗi cá thể đó độc lập với cả bố mẹ 
của mình. Người Pháp không quan niệm phải quá 
quan tâm đến những vấn đề riêng của anh em, trừ 
khi người đó sẵn sàng chia sẻ và cần được sẻ chia. 
Có vẻ như mối quan hệ này giống mối quan hệ bạn 
bè-đồng nghiệp hơn trừ sợi dây liên kết giữa họ là 
những cuộc họp mặt gia đình trong những sự kiện 
lớn (ngày lễ, đám cưới, đám tang)
Như vậy, một lần nữa, ngoài điểm giống nhau 
duy nhất là lối xưng hô thân mật (tutoyer) trong 
mối quan hệ anh/chị-em thì giữa hai hình thái gia 
đình đã có sự khác biệt rất rõ nét. Điều này xuất 
phát chính từ ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền 
thống, văn hóa, lối sống của mỗi dân tộc.
3.4. Mối quan hệ giữa bố mẹ chồng/vợ với 
con dâu/rể
Trong gia đình người Pháp cũng có một mối 
quan hệ mà cách xưng hô thể hiện khoảng cách, 
thứ bậc mặc dù màu sắc biểu cảm ấy không giống 
cách xưng hô của người Việt, đó là mối quan hệ 
giữa bố mẹ chồng/vợ với con dâu, rể.
Qua cách xưng hô, ta thấy rõ quan niệm con 
đẻ-con dâu/rể và bố mẹ chồng/vợ được phân biệt 
rất rạch ròi. Trong mối quan hệ đặc biệt này ngôi 
“vous” sẽ được con dâu/con rể sử dụng để xưng 
hô với bố mẹ chồng/vợ, con bố mẹ chồng/vợ với 
con dâu rể thì vẫn xưng ngôi “tu” đúng theo thứ tự 
tuổi tác như ngoài xã hội. Đối với cha mẹ chồng/
vợ cũng vậy, cách xưng hô này trở thành hiển 
nhiên bởi chính bố mẹ cũng quan niệm đó không 
phải là con trai hay con gái đẻ (fils hay fille) của 
họ mà trong tiếng Pháp, người Pháp có thêm một 
tính từ “beau/belle” (đẹp) để chỉ gia đình thông 
gia (belle famille, beaux - parents, beau - fils, belle 
- fille). Nếu con dâu/rể xưng ngôi “tu với bố mẹ 
chồng/vợ thì được coi là một sự vô lễ. Ngược lại, 
con dâu/rể cũng không bao giờ sử dụng danh xưng 
thân mật “Papa”/“Maman” với bố mẹ chồng mà 
sẽ gọi tên hoặc thậm chí dùng từ trang trọng như 
xưng hô ngoài mội trường xã hội là “Monsieur”/ 
“Madame” (Ông/Bà).
Trong khi đó, đối với người Việt, thường đôi 
trẻ khi yêu nhau gặp cha mẹ chồng/vợ tương lai 
thì xưng là “bác-cháu” (vous-tu). Tuy nhiên, sau 
khi kết hôn, danh xưng sẽ thay đổi ngay là “bố/
mẹ-con”, hai danh xưng này không khác gì với bố 
mẹ đẻ. 
Sự thay đổi trong cách xưng hô này vẫn nằm 
trong trường tư tưởng có thêm con là có thêm 
phúc. Hơn nữa, cho đến nay, có thể vì lý do kinh 
tế một phần, nhưng phần lớn là vì sợi dây tình cảm 
mà người Việt vẫn có xu hướng ở cùng cha mẹ sau 
khi kết hôn. Những đại gia đình tứ đại, tam đại 
đồng đường vẫn là niềm tự hào của người Việt. 
Người Việt có quan niệm “dâu con, rể khách” có 
70 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
nghĩa là con dâu mới là con nhà mình vì sau hôn 
nhân theo lẽ tự nhiên người con gái thường theo 
chồng về ở cùng gia đình chồng, tuân theo nền 
nếp, thói quen sinh hoạt và đảm trách mọi công 
việc nhà chồng như một người con trong gia đình 
đồng thời được yêu thương, chăm sóc như người 
con gái trong gia đình chồng. Với con rể, họ luôn 
được đón tiếp trọng vọng, chu đáo mỗi khi về nhà 
bố mẹ vợ giống như nhà “có khách” vậy. Đó là vì 
với mỗi bậc cha mẹ Việt, trách nhiệm với con rồi 
với cháu là trọng trách đi suốt cuộc đời, quan niệm 
mình có tốt với con rể thì con rể sẽ yêu thương, đối 
tốt với con gái mình. Còn với con dâu, mình có coi 
như con gái thì con mới hòa nhập, yêu thương và 
gắn bó với gia đình nhà chồng.
3.5. Sự gắn kết thế hệ qua cách xưng hô
Có lẽ chỉ trong xã hội của những đất nước Á 
Đông mới phổ biến cách sống tứ đại, tam đại đồng 
đường. Người Việt có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy 
con”, vì vậy khi còn nhỏ, cha mẹ là chỗ dựa chính, 
duy nhất, lúc về già, không còn sức khỏe để lao 
động và đối mặt với bệnh tật, tuổi già thì con cái là 
chỗ dựa duy nhất. Sau khi kết hôn, khi có đứa con 
đầu tiên, cả đại gia đình hai bên nội/ngoại luôn sẵn 
sàng giúp đỡ, chăm sóc con, cháu. Và sự gắn kết 
giữa ông bà và cháu lại một lần nữa được thắt chặt. 
Cách sống gần gũi, đầy tình thương nhưng cũng 
đầy trách nhiệm giữa các thế hệ người Việt được 
thể hiện rõ trong mối quan hệ này.
Đặc trưng của sự gắn kết này được thể hiện 
qua cách xưng hô có sự phân biệt rõ ông/bà nội/
ngoại thể hiện sự gần gũi giữa hai thế hệ đồng thời 
thể hiện sự khu biệt rõ ràng với những người họ 
hàng hay hàng xóm ở tuổi ông/bà mà trẻ gặp gỡ, 
xưng hô. Những tiếng gọi thân thương này trong 
ngôn ngữ Việt thể hiện rất rõ sự gắn bó và vai trò 
của người ông, người bà trong cả tuổi thơ và kể cả 
khi trưởng thành của người Việt.
Khác biệt với gia đình Việt, hầu hết những 
người Pháp trưởng thành đều sống khá độc lập với 
cha mẹ sau khi đã trưởng thành. Cha mẹ không 
can thiệp nhiều vào đời sống cá nhân của các con. 
Giữa họ có một sự “dân chủ”, bình đẳng và độc lập 
đã được mặc định. Vả lại, với một đất nước phát 
triển thì gánh nặng kinh tế không phải là quá lớn 
với mỗi gia đình, đặc biệt là với trẻ em và người 
già, hai đối tượng được phúc lợi xã hội ưu ái về 
mọi mặt: giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe. Vì 
vậy, quan niệm “trẻ cậy cha, già cậy con” gần như 
không tồn tại. Các cháu một năm có thể chỉ gặp 
ông, bà một hai lần vào những ngày lễ hay sự kiện 
trọng đại của gia đình, còn lại họ sẽ thể hiện sự 
quan tâm bằng cách điện thoại hỏi thăm hay những 
hình thức liên lạc tương tự mà không nhất thiết 
phải sống cùng nhau. Có lẽ vì vậy mà người Pháp 
không nhất thiết phải phân biệt rõ vì đại từ “tu” là 
đủ cho mối quan hệ thân thiết, ruột thịt.
4. KẾT LUẬN
Ngôn ngữ luôn chứa đựng trong nó những dấu 
ấn văn hóa, lối tư duy và nếp sống của cộng đồng 
sử dụng ngôn ngữ đó. Trong mọi cuộc giao tiếp, 
dù là bằng ngôn ngữ nào thì với lần đầu tiên gặp 
mặt, việc giới thiệu, tự giới thiệu của các cá thể 
tham gia giao tiếp là hết sức quan trọng để từ đó 
mỗi người xác định được cách xưng hô hợp lý, 
tránh rơi vào tình trạng lúng túng, gẫy nhịp và hiện 
tượng ”sốc văn hóa” trong giao tiếp. Tiếng Việt là 
ngôn ngữ khá phức tạp, đặc biệt là sắc thái biểu 
cảm qua ngôn ngữ, mỗi người Việt tự tìm hiểu và 
sử dụng hợp lý, hiệu quả các danh xưng và tuân thủ 
những chuẩn mực trong giao tiếp là hết sức quan 
trọng. Hiểu biết một ngôn ngữ, chúng ta cần tìm 
hiểu những yếu tố văn hóa ẩn sau mỗi cách dùng 
từ, diễn ngôn của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. 
So với tiếng Việt, tiếng Pháp đơn giản hơn trong 
trường từ liên quan đến cách xưng hô. Ngược lại, 
cách biểu đạt tình cảm bằng các danh xưng thân 
mật giữa vợ chồng và cha mẹ con cái lại được diễn 
ra hết sức tự nhiên, thường xuyên. Xưng hô và các 
danh xưng trong gia đình Việt và gia đình Pháp sẽ 
còn nhiều nữa những điều thú vị mà trong khuôn 
khổ bài viết này chưa thể trình bày và phân tích 
sâu. Xuất phát từ những kiến thức ngôn ngữ, trải 
nghiệm thực tế, hy vọng bài viết sẽ bước đầu gợi 
mở được những nghiên cứu, trao đổi tiếp theo về 
mảng ngôn ngữ đặc biệt này./.
71KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Tài liệu tham khảo:
Bùi Hiền, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Văn Gia, Nguyễn 
Hữu Quỳnh (2001), Từ điển Giáo dục học, 
NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
Nguyễn Văn Khang (2013), Ngôn ngữ học xã hội, 
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 
Lê Hoàng Sang (2014), Đặc điểm ngôn ngữ văn 
hóa từ xưng hô trong gia đình của Tiếng Việt 
và tiếng Trung, Đại học Ngoại ngữ - Đại học 
Huế.
Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, 
NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. 
Nguyễn Lân Trung (2006), Một số vấn đề về Ngôn 
ngữ học đối chiếu Việt-Pháp, NXB Đại học 
Quốc gia, Hà Nội.
 Guilbert, L. (1976), Grand Larousse de la langue 
française , Tome 5, Larousse, Paris.
CULTURAL IMPRINTS IN INTER-FAMILY ADDRESSING IN VIETNAMESE
 AND FRENCH FAMILIES
TRINH THI XOAN
Abstract: A family is an original cell of a social life, a primary environment that contributes to 
the formation and nurturing character of each family member. Culture behavior in the family in 
general and the manner of addressing each other among the family members essentially express 
the characteristics of each country and nation. Studying the way family members addressing each 
other in Vietnamese and French culture from a linguistic perspective shows interesting similarities 
and differences in the conception and behavior of the two nations; thus it help learner to apply 
effectively knowledge of language and culture in communicating with the native speakers.
Keywords: intimate name, personal pronouns, family, communication, culture, vocabulary, 
system
Received: 08/5/2018; Revised: 30/5/2018; Accepted for publication: 20/6/2018

File đính kèm:

  • pdfdau_an_van_hoa_qua_cach_xung_ho_trong_gia_dinh_nguoi_viet_va.pdf