Đào tạo thương mại điện tử trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Tóm tắt: Giáo dục nói chung và giáo dục đại học về thương mại điện tử (TMĐT) nói riêng là một

trong những lĩnh vực chịu sự tác động của CMCN 4.0 nhanh hơn cả bởi chính giáo dục cũng sẽ tạo ra những

phiên bản mới của các cuộc CMCN tiếp theo. Công nghiệp 4.0 hứa hẹn những bước đột phá mới trong hoạt

động đào tạo, thay đổi mục tiêu cũng như mô hình đào tạo truyền thống nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn toàn mới.

Sự phát triển công nghệ thông tin, công cụ kỹ thuật số, hệ thống mạng kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những công

cụ và phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức, quản lý của hoạt động kinh doanh thông qua TMĐT. Vì

vậy vai trò của các trường đại học cao đẳng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT trở nên càng bức

thiết

pdf 9 trang phuongnguyen 9640
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo thương mại điện tử trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đào tạo thương mại điện tử trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Đào tạo thương mại điện tử trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
76 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 53 (03/2019) 76-84 
ĐÀO TẠO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG BỐI CẢNH CÁCH 
MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 
E-COMMERCIAL TRAINING IN 4.0 INDUSTRIAL REVOLUTION 
Đặng Thị Thu Giang*††††††††† 
Nguyên Thị Kim Dung**‡‡‡‡‡‡‡‡‡ 
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 7/9/2018 
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 6/3/2019 
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/3/2019 
Tóm tắt: Giáo dục nói chung và giáo dục đại học về thương mại điện tử (TMĐT) nói riêng là một 
trong những lĩnh vực chịu sự tác động của CMCN 4.0 nhanh hơn cả bởi chính giáo dục cũng sẽ tạo ra những 
phiên bản mới của các cuộc CMCN tiếp theo. Công nghiệp 4.0 hứa hẹn những bước đột phá mới trong hoạt 
động đào tạo, thay đổi mục tiêu cũng như mô hình đào tạo truyền thống nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn toàn mới. 
Sự phát triển công nghệ thông tin, công cụ kỹ thuật số, hệ thống mạng kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những công 
cụ và phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức, quản lý của hoạt động kinh doanh thông qua TMĐT. Vì 
vậy vai trò của các trường đại học cao đẳng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT trở nên càng bức 
thiết. 
Từ khóa: nguồn nhân lực, thương mại điện tử, cách mạng 4.0 
Abstract: Education in general and higher education in e-commerce in particular is one of the areas 
affected by 4.0 industrial revolution even faster than education itself which may create new versions of the 
incoming revolution. Industry 4.0 propose to make new breakthroughs in training activities, changing goals as 
well as traditional training models to response new requirements. The development of information technology, 
digital tools, connection networks and metadata will be good tools and means to change the administration of 
business activities through e-commerce. Therefore, the role of educational institutions in human resources 
training for e-commerce becomes increasingly nessesary. 
Keywords: human resources, e-commerce, 4.0 revolution 
1. Mở đầu 
Cho tới đầu thế kỷ 20, để liên lạc với 
nhau người ta sử dụng hệ thống các ký hiệu như 
âm thanh, hình ảnh và chữ viết. Trong nửa đầu 
thế kỷ đó, kỹ thuật số trên cơ sở hệ nhị phân bắt 
*†††††††††Học viện tài chính 
**‡‡‡‡‡‡‡‡‡Khoa Kinh tế - Đại học Mở Hà Nội 
đầu phát triển và hoàn thiện dần, hình ảnh (kể 
cả chữ viết con số, các ký hiệu khác và cả âm 
thanh đều được số hóa thành các nhóm bít điện 
tử, để ghi lại, lưu giữ trong môi trường từ, 
truyền đi và đọc bằng điện tử, tất cả đều có tốc 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 77 
độ ánh sáng (300.000km/s). Kỹ thuật số trước 
hết được áp dụng vào máy tính điện tử, tiếp đó 
sang các lĩnh vực khác (cho tới điện thoại di 
động, thẻ tín dụng). Việc áp dụng kỹ thuật số 
có thể coi là một cuộc cách mạng vĩ đại trong 
lịch sử nhân loại, gọi là cuộc cách mạng số hóa, 
mở ra kỷ nguyên số hóa. 
Cuộc cách mạng này diễn ra với tốc độ 
nhanh. Chiếc máy tính điện tử đầu tiên có thể 
chương trình hóa ra đời năm 1946, có kích 
thước bằng bốn đến năm gian phòng, trị giá 
nhiều triệu USD và chỉ thực hiện được 5 nghìn 
lệnh trong một giây. Năm mươi năm sau, máy 
tính điện tử cá nhân thông dụng, chỉ có kích 
thước để bàn, giá trị chỉ khoảng một nghìn 
USD và thực hiện được trên 400 triệu lệnh 
trong một giây nhờ sử dụng chip vi mạch cho 
phép đóng- mở nhiều triệu lần một giây. Các 
phương tiện truyền thông hiện đại cũng song 
song cùng phát triển, ngày nay một sợi cáp 
quang mảnh bằng sợi tóc có thể truyền một 
lượng thông tin chứa đựng trong 90 nghìn cuốn 
từ điển bách khoa trong một giây, hệ thống liên 
lạc viễn thông và định vị toàn cầu thông qua 
các vệ tinh đã bao phủ toàn thế giới, ngành 
công nghệ thông tin và truyền thông ngày càng 
chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế. Nhân loại 
đang sống trong thời kỳ máy tính hóa xã hội, 
khác biệt hoàn toàn về chất so với thời kỳ 
trước. Quá trình máy tính hóa xã hội bắt đầu 
bùng nổ, rồi nhanh chóng chuyển sang mang 
tính chất toàn cầu sau khi Internet ra đời, trong 
bối cảnh ấy hoạt động kinh tế nói chung và 
thương mại nói riêng, kể cả khâu quản lý cũng 
chuyển sang dạng số hóa, điện tử hóa, khái 
niệm TMĐT, dần dần hình thành và ứng dụng 
TMĐT ngày càng mở rộng. 
Ngày nay, cách mạng công nghiệp lần 
thứ 4 (CMCN 4.0) được xây dựng dựa trên 
cuộc cách mạng số, đặc trưng bởi Internet ngày 
càng phổ biến và di động, bởi các cảm biến nhỏ 
và mạnh mẽ hơn với giá thành rẻ hơn, bởi trí 
tuệ nhân tạo và học máy (machine learning). 
Các công nghệ số với phần cứng máy tính, 
phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên ngày 
càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và 
vì vậy đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế 
toàn cầu. Cùng với xu hướng CMCN 4.0, kinh 
tế số là yếu tố quan trọng tác động ảnh hưởng 
lớn đến đời sống, xã hội và cơ cấu của nền kinh 
tế. Thương mại dần được toàn cầu hóa; công 
nghệ cao và các mô hình kinh doanh mới ngày 
càng phát triển. Thị trường TMĐT vì thế cũng 
được mở rộng, mô hình TMĐT ngày càng đổi 
mới, các chuỗi cung ứng truyền thống với sự 
hỗ trợ của sức mạnh lan tỏa của số hóa và công 
nghệ thông tin trở thành chuỗi cung ứng thông 
minh, đem lại hiệu quả cho nền kinh tế số nói 
chung cũng như TMĐT nói riêng. 
 TMĐT Việt Nam mặc dù đã bắt nhịp 
xu hướng TMĐT mới của thế giới, phục vụ 
hiệu quả cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, 
tạo thói quen mua sắm hiện đại của người tiêu 
dùng trên môi trường mạng. Tuy nhiên, các hạ 
tầng cho kinh tế số, như hạ tầng thanh toán điện 
tử, hạ tầng phân phối điện tử, hạ tầng nhân lực 
TMĐT và CNTT, hạ tầng an toàn an ninh thông 
tin còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt nguồn 
nhân lực phục vụ cho phát triển TMĐT ở Việt 
Nam còn rất mỏng và yếu. Điều này đòi hỏi vai 
trò của các trường đại học, cao đẳng trong việc 
quan tâm, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn 
nhân lực phục vụ cho TMĐT ngày càng trở nên 
bức thiết. Bài viết góp phần đưa ra cái nhìn 
tổng quan về thực trạng đào tạo TMĐT ở Việt 
Nam và qua đó gợi ý một số hướng phát triển 
TMĐT trong tương lai với vai trò của các 
trường đại học cao đẳng. 
78 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
2. Nội dung 
2.1 Bối cảnh ra đời và phát triển 
ngành học Thương mại Điện tử tại Việt Nam 
và chính sách phát triển của Nhà nước 
TMĐT là hình thức mua bán hàng hóa 
và dịch vụ thông qua mạng máy tính tòan cầu. 
TMĐT chỉ gồm các hoạt động thương mại 
được tiến hành trên mạng máy tính mở như 
Internet. Trên thực tế, chính các hoạt động 
thương mại thông qua mạng Internet đã làm 
phát sinh thuật ngữ TMĐT. 
TMĐT gồm các hoạt động mua bán 
hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, 
giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, 
chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, 
vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác 
thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, 
tiếp thị trực tuyến tới người tiêu dùng và các 
dịch vụ sau bán hàng. 
TMĐT được thực hiện đối với cả 
thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu 
dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương 
mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông 
tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động 
truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo 
dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị 
ảo). Sự xuất hiện của TMĐT đã tạo ra một cuộc 
cách mạng làm thay đổi cách thức kinh doanh 
của doanh nghiệp. 
TMĐT được hình thành từ năm 2003 
đến nay khi Internet bắt đầu bùng nổ, nhưng đã 
phát triển khá nhanh. Tới năm 2009 nhiều 
trường đã chủ động triển khai hoạt động đào 
tạo chính quy TMĐT, nhưng sự phát triển của 
lĩnh vực này bị ảnh hưởng đáng kể do có sự 
chênh lệch lớn giữa khả năng đào tạo về TMĐT 
của các cơ sở đào tạo với nhu cầu về nguồn 
nhân lực TMĐT của tổ chức, doanh nghiệp. 
Bên cạnh đó, Thủ tướng chính phủ phê 
duyệt kế hoạch tổng thể phát triển thương mại 
điện tử giai đoạn 2006-2010 tại quyết định số 
222/2005/QĐ-TTg năm 2005 đã nhấn mạnh tới 
phát triển nguồn nhân lực là chính sách đầu tiên 
trong số sáu chính sách và giải pháp chủ yếu 
được đề ra trong kế hoạch tổng thể phát triển 
TMĐT giai đoạn 2006-2010. Trước hết tập 
trung đào tạo nguồn nhân lực chính qui tại các 
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên 
nghiệp thuộc khối ngành kinh tế và luật, đồng 
thời đào tạo theo chương trình đại cương tại các 
trường dạy nghề thuộc các chuyên ngành 
thương mại, quản trị kinh doanh, đào tạo cho 
cán bộ quản lý nhà nước làm công tác hoạch 
định chính sách và thực thi pháp luật về TMĐT 
ở trung ương, địa phương và các tỉnh, thành 
phố, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia 
cung cấp dịch vụ đào tạo về TMĐT. 
Ngày 16/5/2013, chính phủ ra nghị định 
số 25/2013/NĐ-CP về TMĐT trong đó quy 
định về việc phát triển, ứng dụng và quản lý 
hoạt động thương mại điện tử. qua đó tạo đà 
cho sự phát triển mạnh mẽ hơn của ngành này. 
Ngày 08/08/2016, Chính phủ tiếp tục 
ban hành quyết định phê duyệt kế hoạch tổng 
thể phát triển TMĐT giai đoạn 2016-2020. 
Trong đó một lần nữa nhấn mạnh TMĐT là một 
trong những kết cấu hạ tầng quan trọng của lĩnh 
vực thương mại và của xã hội thông tin; là 
phương thức giúp doanh nghiệp Việt Nam đẩy 
mạnh phát triển thị trường trong nước và xuất 
nhập khẩu, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn 
cầu, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc 
gia trong hội nhập quốc tế; góp phần đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. TMĐT 
là lĩnh vực có hàm lượng ứng dụng công nghệ 
cao, tốc độ phát triển nhanh. Doanh nghiệp là 
lực lượng nòng cốt triển khai, nhà nước đóng 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 79 
vai trò quản lý, thiết lập hạ tầng và tạo môi 
trường cho thương mại điện tử phát triển. 
Chính sách quản lý được xây dựng trên cơ sở 
thực tiễn, nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, 
đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng 
khi ứng dụng thương mại điện tử. Đặc biệt 
quan tâm chính sách phổ biến, tuyên truyền về 
TMĐT cũng như đào tạo chính qui tại các 
trường đại học, cao đẳng. Bộ Giáo dục và đào 
tạo và Bộ Thương mại (nay là Bộ Công 
thương) là hai cơ quan quản lý nhà nước chịu 
trách nhiệm tổ chức triển khai hoạt động đào 
tạo ở tầm vĩ mô. 
TMĐT Việt Nam hiện được xem đang 
bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, đặc biệt 
trong 3 năm trở lại đây. Theo thông tin từ Cục 
Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin, 
ngành này đang có tốc độ tăng trưởng 
25%/năm, thuộc top tăng trưởng lớn nhất trên 
thế giới. Tốc độ này được dự báo sẽ tiếp tục giữ 
vững trong vài năm tới và đến năm 2020, 
TMĐT Việt Nam sẽ có thể đạt 10 tỷ USD. 
Ngoài ra tiềm năng của TMĐT tại Việt 
Nam cũng đang còn rất lớn nếu so sánh với các 
nước khác trong khu vực. Nếu xét trên tỷ lệ 
giữa doanh thu TMĐT so với tổng doanh thu 
bán lẻ trong năm 2017, Trung Quốc đang là số 
1 trên thế giới, chiếm khoảng hơn 20%, ở Nhật 
Bản là 10%, Hàn Quốc là 12% nhưng tại Việt 
Nam con số này chỉ mới dừng lại ở con số 
1,4%. 
 Thị trường bán lẻ Việt Nam được đánh 
giá về mức độ hấp dẫn đứng thứ 6 trên thế giới, 
trong khu vực chỉ sau Trung Quốc và Malaysia. 
Các chuyên gia dự đoán rằng trong vòng 5-7 
năm tới, TMĐT tăng trưởng ít nhất 10 lần, lạc 
quan sẽ là 20 lần. 
Tiềm năng lớn, hứa hẹn nhiều cơ hội 
cũng như nguồn nhân lực khan hiếm là những 
nguyên nhân khiến nhiều trường đại học cao 
đẳng mở thêm ngành liên quan để đáp ứng nhu 
cầu thị trường. Lĩnh vực này cũng hứa hẹn sẽ 
tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm thông qua nhu 
cầu tuyển dụng ngày càng lớn của các doanh 
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TMĐT. 
Tuy nhiên, một thực tế hiện nay tuy lực 
lượng sinh viên ngành TMĐT khá đông đảo 
nhưng các doanh nghiệp hiện nay vẫn đang 
thiếu trầm trọng nhân lực có trình độ chuyên 
môn tốt. Theo báo cáo của Hiệp hội Thương 
mại điện tử Việt Nam - VECOM, trong năm 
2017 có đến 31% doanh nghiệp gặp khó khăn 
trong việc tuyển dụng lao động liên quan đến 
công nghệ thông tin và TMĐT. 
2.2 Kinh nghiệm đào tạo thương mại 
điện tử của một số nước trên thế giới 
Đa số các quốc gia đều đào tạo TMĐT 
ở cả trình độ đại học và sau đại học, tuy nhiên 
mỗi quốc gia lại đào tạo ngành TMĐT tập trung 
vào một trình độ nhất định như: Canada tập 
trung đào tạo trình độ cao đẳng TMĐT. 
Australia tập trung đào tạo thạc sĩ quản trị kinh 
doanh chuyên ngành TMĐT Ngoài ra hình 
thức đào tạo thạc sĩ quản trị kinh doanh chuyên 
ngành TMĐT phổ biến ở hầu hết các quốc gia. 
Chương trình giảng dạy và nội dung 
giảng dạy có sự khác biệt khá rõ rệt tuỳ theo 
cách tiếp cận. Có ba khuynh hướng tiếp cận 
trong chương trình giảng dạy. 
- Cách tiếp cận theo khuynh hướng 
Công nghệ thông tin. 
- Cách tiếp cận theo khuynh hướng 
Quản trị kinh doanh. 
- Cách tiếp cận theo khuynh hướng 
Liên ngành. 
Cách tiếp cận theo khuynh hướng Công 
nghệ thông tin: Khác với thương mại truyền 
80 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
thống, TMĐT là phương thức thương mại “dựa 
trên công nghệ” (Technology- based 
Commerce), ở đây là dựa trên công nghệ thông 
tin-truyền thông (CNTT-TT). Chính sự phát 
triển ứng dụng của CNTT trong các ngành kinh 
tế dẫn tới sự ra đời của TMĐT TMĐT được 
tiến hành trong môi trường điện tử và dựa trên 
những nguyên tắc, yêu cầu riêng (về giao dịch 
thanh toán, về an toàn bảo mật, về hành lang 
pháp lý, về khiếu nại, tranh chấp) Vì vậy 
những người làm TMĐT cần phải nắm vững 
những vấn đề liên quan đến thương mại và cả 
công nghệ thông tin. 
Cách tiếp cận theo khuynh hướng Quản 
trị kinh doanh: Tiếp cận theo khuynh hướng 
quản trị kinh doanh nhấn mạnh trọng tâm trang 
bị các kỹ năng và kiến thức thuộc lĩnh vực kinh 
tế-kinh doanh, khoa học xã hội- hành vi cho 
người học, và hình thành trên nền chương trình 
đào tạo quản trị kinh doanh, điều chỉnh, sửa đổi 
cho thích hợp với TMĐT, Ngoài ra người học 
còn được trang bị các kỹ năng, kiến thức cần 
thiết về CNTT-TT, trong đó chú trọng trang bị 
các kỹ năng, kiến thức về khai thác, sử dụng 
các thiết bị phần cứng, phần mềm trong CNTT 
để phục vụ cho TMĐT chứ không trang bị các 
kiến thức nền tảng sâu về CNTT-TT 
Cách tiếp cận theo khuynh hướng Liên 
ngành: Theo khuynh hướng này các chương 
trình đào tạo chủ trương đảm bảo sự hài hoà 
kiến thức và kỹ năng thuộc cả ba lĩnh vực kinh 
tế -kinh doanh, khoa học xã hội-hành vi, và 
CNTT-TT. Để xây dựng đội ngũ đào tạo 
TMĐT theo cách tiếp cận liên ngành, các cơ sở 
đào tạo thành lập đội ngũ giảng dạy liên bộ 
môn, liên khoa gồm các giảng viên thuộc các 
lĩnh vực quản trị kinh doanh, marketing và 
CNTT. 
+Tình hình đào tạo TMĐT tại Hoa kỳ: 
Chương trình cử nhân Hệ thống thông tin, 
chuyên ngành TMĐT của trường Đại học 
Fullerton thuộc California State University. 
Nội dung chương trình phần bắt buộc gồm 10 
môn học mỗi môn gồm 3 tín chỉ. Số môn học 
về thương mại, quản trị kinh doanh chiếm 50% 
thời lượng, số môn học về kỹ thuật, công nghệ 
thông tin chiếm khoảng 50% thời lượng. Tại 
Hoa Kỳ, các trường kinh tế và quản trị kinh 
doanh đang giảng dạy hai ngành có liên quan 
đến TMĐT là Hệ thống Thông tin Quản lý 
(HTTTQL, MIS) và TMĐT. 
+Tình hình đào tạo TMĐT tại Canada: 
Về tiêu dùng trực tuyến, Canada đã vượt Hoa 
Kỳ và là quốc gia có lượng mua sắm trực tuyến 
cao nhất thế giới. Theo thống kê, trong hệ 
thống các trường đại học và cao đẳng Canada, 
khoảng 50 trường cao đẳng và học viện kỹ 
thuật của Canada cung cấp các khoá học đào 
tạo TMĐT. Có khoảng 20% trường cao đẳng 
đào tạo cử nhân chuyên ngành TMĐT. Các 
trường đại học đào tạo thạc sĩ quản trị kinh 
doanh chuyên ngành TMĐT như: Athbasca, 
Ottawa, McMaster, Concordia, McGill 
+ Tình hình đào tạo TMĐT tại Hàn 
quốc: Doanh số TMĐT của Hàn Quốc năm 
2004 đạt 314 tỷ USD chiếm 20% tổng giao 
dịch thương mại. TMĐT phát triển khá đồng 
đều trên các loại hình B2B, B2C, B2G. Khảo 
sát 50 trường đại học lớn của Hàn Quốc cho 
thấy 100% trường kinh tế và quản trị kinh 
doanh thành lập khoa MIS đào tạo trình độ đại 
học và sau đại học. Khoa MIS chịu trách nhiệm 
giảng dạy một số môn học chuyên ngành 
TMĐT Ngoài khoa MIS, một số trường còn 
thành lập khoa Kinh doanh trên Internet hoặc 
đào tạo riêng ngành TMĐT. 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 81 
2.3 Tình hình đào tạo Thương mại 
điện tử tại Việt Nam cũng như khả năng đáp 
ứng đối với thị trường 
Theo số liệu của Cục Thương mại điện 
tử và Công nghệ thông tin, Bộ Công thương, 
điều tra tình hình đào tạo TMĐT tại 250 trường 
đại học và cao đẳng trên phạm vi toàn quốc vào 
tháng 7 năm 2010 và nhận được trả lời của 125 
trường, chủ yếu tập trung vào các trường đào 
tạo các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế và CNTT, 
có 77 trường đã triển khai hoạt động đào tạo 
thương mại điện tử, trong đó có 49 trường đại 
học và 28 trường cao đẳng. Về tổ chức giảng 
dạy Trong số 49 trường đại học đã giảng dạy 
TMĐT, có 01 trường thành lập khoa TMĐT, 
10 trường thành lập bộ môn TMĐT Trình độ 
đào tạo Trong số các trường đã đào tạo TMĐT 
có 03 trường ( chiếm 4%) đào tạo TMĐT cho 
bậc cao đẳng nghề, 52 trường đào tạo TMĐT 
cho bậc cao đẳng (chiếm 68%), 47 trường đào 
tạo TMĐT cho bậc đại học (chiếm 61%) và 08 
trường đào tạo TMĐT cho bậc sau đại học 
(chiếm 10%). 
+ Phương thức đào tạo: Phương thức 
đào tạo TMĐT chủ yếu hiện nay vẫn là phương 
thức giảng dạy và học tập tập trung trên lớp. 
Tuy nhiên, có một số trường bắt đầu áp dụng 
phương thức đào tạo trực tuyến vào công tác 
giảng dạy và học tập TMĐT. So với năm 2008, 
số lượng giảng viên tăng từ 368 lên 553 người. 
Phần lớn giảng viên giảng dạy các môn liên 
quan đến TMĐT đều là các giảng viên chuyên 
ngành khác như Công nghệ thông tin hay Quản 
trị kinh doanh được bồi dưỡng thêm về TMĐT 
hoặc tự nghiên cứu để giảng dạy TMĐT. 
Chương trình đào tạo chhủ yếu theo hai cách 
tiếp cận cơ bản trong đào tạo TMĐT của các 
nước là nhóm kinh tế và nhóm công nghệ. 
+ Giáo trình: Hiện nay giáo trình 
TMĐT do các cơ sở đào tạo tự quyết định, các 
giảng viên dạy môn học TMĐT tự biên soạn, 
thường sử dụng giáo trình có sẵn của nước 
ngoài hoặc sử dụng lại giáo trình của các đại 
học khác biên soạn. Trong đó sách, tài liệu 
TMĐT của nước ngoài về Việt Nam từ nhiều 
nguồn khác nhau như: Giảng viên học nước 
ngoài cầm tay về, mua qua mạng, các đại học 
nước ngoài tặng. 
Khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực 
TMĐT so với nhu cầu của thị trường theo báo 
cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2018 của Hiệp hội 
thương mại điện tử Việt Nam cho thấy: 
Lĩnh vực công nghệ thông tin truyền 
thông, tài chính và bất động sản có tỷ lệ lao 
động chuyên trách về TMĐT cao nhất (đều 
chiếm 49% trong tổng số doanh nghiệp tham 
gia khảo sát), tiếp theo là lĩnh vực giải trí 
(47%). Lĩnh vực xây dựng chỉ có 23% doanh 
nghiệp có lao động chuyên trách TMĐT. Khảo 
sát qua các năm cũng cho thấy tỷ lệ doanh 
nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao 
động có kỹ năng về công nghệ thông tin và 
TMĐT có xu hướng tăng lên, điển hình năm 
2015 có 24% doanh nghiệp gặp khó khăn, năm 
2016 có 29% và năm 2017 có tới 31% doanh 
nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề tuyển dụng. 
Kỹ năng về quản trị website và sàn giao dịch 
TMĐT đang là nhu cầu lớn nhất đối với các 
doanh nghiệp, 46% doanh nghiệp gặp khó khăn 
khi tuyển dụng lao động có kỹ năng này. Với 
các kỹ năng khác tình hình như sau: 
Kỹ năng khai thác, sử dụng các ứng 
dụng TMĐT: 45% 
Kỹ năng cài đặt chế độ, ứng dụng, khắc 
phục sự cố thông thường của máy vi tính: 42% 
Kỹ năng xây dựng kế hoạch, triển khai 
dự án TMĐT: 42% 
82 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
Kỹ năng quản trị cơ sở dữ liệu: 42% 
Kỹ năng tiếp thị trực tuyến: 35% 
Kỹ năng triển khai thanh toán trực 
tuyến: 30% 
3. Các đề xuất 
Nền tảng của CMCN 4.0 là sự kết nối 
giữa thật và ảo thông qua phần mềm công nghệ 
thông tin, kỹ thuật số và kết nối mạng, do vậy 
kiến thức và kỹ năng về TMĐT và kỹ thuật số 
có vai trò rất quan trọng đối phương thức kinh 
doanh hiện đại trên thế giới. Nhiệm vụ của các 
trường đại học trong giai đoạn tới phải đào tạo 
đủ chuyên gia công nghệ thông tin; chuyên gia 
về kinh doanh tích cực trang bị cho các em sinh 
viên các kiến thức và kỹ năng có liên quan về 
TMĐT để đáp ứng nhu cầu xã hội trong nền 
công nghiệp 4.0. Trang bị trình độ ngoại ngữ 
đủ để có thể làm việc ở mọi nơi trong tư cách 
của công dân toàn cầu. Với việc tổ chức hội thảo 
này đã thực sự cho thấy sự nhận thức rất rõ ràng 
vai trò, tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới việc 
đào tạo TMĐT ở các trường đại học cao đẳng. 
Thứ nhất, Về chương trình đào tạo: 
Trường thành lập Hội đồng khoa học tại các 
Khoa, Viện, trong đó mời một số chuyên gia, nhà 
khoa học và đại diện doanh nghiệp lớn tham gia 
hội đồng để tư vấn, góp ý xây dựng chương trình 
đào tạo tiên tiến, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, 
nhu cầu của doanh nghiệp; Nhà trường cũng tăng 
cường đổi mới chương trình đào tạo theo hướng 
tích hợp, giảm tải kiến thức hàn lâm, tăng cường 
học ngoại khóa, thực hành, thực tập tạo sự hứng 
thú và rèn luyện các kỹ năng đối với người học. 
Chương trình đào tạo hiện nay vẫn chưa được 
linh hoạt, nội dung chưa phù hợp với nhu cầu 
và xu thế thị trường lao động CMCN 4.0. Giáo 
dục và huấn luyện là một trong các lĩnh vực có 
nhiều thay đổi, hệ thống giáo dục nghề nghiệp 
sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục 
nghề đào tạo và chương trình đào tạo sẽ phải 
điều chỉnh, cập nhật liên tục vì ranh giới giữa 
các lĩnh vực rất mỏng manh. Các trường đại 
học thực hiện hoạt động đào tạo theo hai 
hướng: một mặt phải đáp ứng tính định hướng 
xã hội, mặt khác đào tạo cung cấp nguồn nhân 
lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. 
Tuy nhiên, áp lực đối với các trường đại học 
càng lớn khi chương trình đào tạo vừa đáp ứng 
tính chuyên môn cao trong lĩnh vực nhất định, 
vừa đáp ứng tính liên ngành (công nghệ thông 
tin, kỹ thuật số, mạng, kiến thức chuyên ngành) 
và các kỹ năng khác không thể thiếu, như: khả 
năng suy nghĩ có hệ thống, khả năng tổng hợp, 
khả năng liên kết giữa thế giới thực và ảo, khả 
năng sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm, khả 
năng hợp tác liên ngành Trong bối cảnh kiến 
thức về công nghệ thay đổi rất nhanh, việc 
trang bị cách thức tự học và ý thức học tập suốt 
đời càng quan trọng hơn kiến thức của chương 
trình đào tạo. Như vậy, CMCN 4.0 đã tạo áp 
lực lớn trong hoạt động đào tạo đối với các 
trường đại học, từ xây dựng chương trình đào 
tạo, cập nhật nội dung chương trình cho đến 
đào tạo kỹ năng cho người học để đáp ứng yêu 
cầu công nghiệp. Cụ thể: 
+ Trong chiến lược đào tạo, nhà trường 
cần chú ý việc nâng cao năng lực tiếng Anh cho 
sinh viên bằng cách đưa học phần Tiếng Anh 
chuyên ngành là học phần bắt buộc. Khuyến 
khích giảng viên đăng ký giảng dạy một số học 
phần bằng Tiếng Anh. 
+ Nhà trường cần xây dựng kế hoạch E-
learning, mời các chuyên gia nước ngoài phổ 
biến kiến thức, cũng như tổ chức nhiều đợt tập 
huấn cho cán bộ giảng dạy trong toàn trường. 
+ Nhà trường cần có cơ chế thu hút nhân 
tài về công tác tại trường, cũng như tạo điều kiện 
học tập nâng cao trình độ cho giảng viên trẻ. 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 83 
Thứ hai, một vấn đề khác đặt ra cho 
các cơ sở đào tạo là cách thức tổ chức để 
chuyển tải nội dung chương trình đào tạo đến 
người học. Cách mạng 4.0 đòi hỏi phương thức 
và phương pháp đào tạo thay đổi với sự ứng 
dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin, công 
nghệ kỹ thuật số và hệ thống mạng. Các hình 
thức đào tạo online, đào tạo ảo, mô phỏng, số 
hóa bài giảng sẽ là xu hướng đào tạo nghề 
nghiệp trong tương lai. Điều này đòi hỏi các cơ 
sở đào tạo phải có sự chuẩn bị tốt nguồn lực tổ 
chức giảng dạy, đặc biệt là đội ngũ giảng viên, 
xây dựng không gian học tập, trang thiết bị 
phục vụ cho việc dạy và học. 
Thứ ba, Về tổ chức giảng dạy: việc 
thành lập bộ môn chuyên về TMĐT ở các 
trường đại học cao đẳng thay vì chỉ coi đó là 
một học phần cũng là một hướng đi mới cần 
được nghiên cứu, xem xét. Bởi vì việc thành 
lập riêng bộ môn TMĐT trước hết sẽ giúp hình 
thành đội ngũ giảng viên chuyên trách giảng 
dạy. Bên cạnh đó cũng tạo thuận tiện cho việc 
xây dựng nội dung chương trình đào tạo. Trình 
độ đào tạo và vai trò của các trường Đại học 
đào tạo ngành TMĐT cần có kiến thức rất rộng 
trong nhiều lĩnh vực như Kinh tế, CNTT, Quản 
trị và ngoại ngữ, nên đòi hỏi thời gian đào tạo 
dài, các lớp ngắn hạn và dạy nghề chỉ giải quyết 
tạm thời trong thời gian còn thiếu nhân lực, 
không thể đem lại cho người học những kiến 
thức và kỹ năng đầy đủ để tổ chức hoạt động 
TMĐT hiệu quả tại doanh nghiệp, vì vậy đào 
tạo chính quy dài hạn tại các trường đại học 
mới là cứu cánh cho nhân lực của TMĐT 
Thứ tư, về thực hành trong giảng dạy 
TMĐT: cơ sở vật chất cho đào tạo TMĐT và 
cho nghiên cứu về TMĐT của giảng viên còn 
rất thiếu, chủ yếu cần xây dựng thêm các phòng 
thực hành chuyên cho thương mại điện tử, và 
phát triển các phần mềm sàn giao dịch ảo để 
tránh dạy chay. Giảng viên Đội ngũ giảng viên 
TMĐT còn đang rất thiếu ngay cả ở các trường 
lớn như Đại học Quốc gia. 
Thứ năm, để việc đào tạo ngành 
TMĐT tại các trường đại học đáp ứng được xu 
hướng kinh doanh hiện đại cũng như gia tăng 
tính thực tiễn. Việc liên kết giữa nhà trường và 
các doanh nghiệp TMĐT là rất cần thiết. Từ đó 
phát huy năng lực và thế mạnh của mỗi bên. 
Khai thác và tận dụng hiệu quả các tiềm năng 
về cơ sở vật chất, con người, chuyên môn trong 
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về 
thương mại điện tử. 
4. Kết luận 
Chúng ta có thể thấy được một số vấn 
đề nổi bật trong đào tạo TMĐT thời gian qua 
như sau: Vấn đề nổi bật đầu tiên là vấn đề giảng 
viên đội ngũ giảng viên vừa thiếu về số lượng, 
vừa chưa đáp ứng được yêu cầu về chuyên 
môn. Tình hình này còn có thể kéo dài nhiều 
năm nửa nếu các cơ quan quản lý nhà nước 
không có giải pháp tích cực tháo gỡ. Hai vấn 
đề tiếp theo là chương trình khung và giáo 
trình. Hai vấn đề này liên hệ chặt chẽ với nhau. 
Bộ cần xây dựng gấp chương trình khung, phải 
nắm vai trò tiên phong trong việc phân khúc 
giữa các cấp độ để bảo đảm tính thống nhất và 
không chồng chéo trong đào tạo. Vấn đề thứ tư 
là nhận thức về tỉ lệ kiến thức CNTT và kiến 
thức kinh tế, thương mại giữa hai trường phái 
là lấy CNTT làm nền và lấy quản trị, thương 
mại làm nền. Vấn đề thứ năm là phải có sự liên 
kết chặt chẽ giữa việc học lý thuyết tại trường 
với các doanh nghiệp cung cấp công nghệ, giải 
pháp cho TMĐT, để tránh tình trạng học một 
đàng, ra làm việc một nẻo. 
84 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
Tài liệu tham khảo: 
1. Zorayda Ruth Andam (2003), Kinh doanh điện 
tử và thương mại điện tử, www.eprimer-ecom-
vietnamese-version.pdf 
2. Tạ Minh Châu (2013), “Đào tạo nguồn nhân lực 
thương mại điện tử Việt Nam”, Phát triển và hội 
nhập số 9(19) Tháng 3-4 (2013). 
3. Ao Thu Hoài, Nguyền Viết Khôi (2017), Thương 
mại điện tử, NXB Thông tin truyền thông, Hà 
Nội 2017. 
4. Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam, Báo cáo 
chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2018. 
Địa chỉ tác giả: Học viện tài chính 
Email: Thugiang.hvtc@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfdao_tao_thuong_mai_dien_tu_trong_boi_canh_cach_mang_cong_ngh.pdf