Đào tạo ngành design với thực tiễn xã hội từ nhà trường đến doanh nghiệp

 Trong nhiều năm qua, việc phát triển đào tạo chuyên môn về mỹ thuật ứng

dụng ở Việt Nam đã có những bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên sự mất cân đối trong cung

cầu của ngành đào tạo design hiện vẫn đang là một trong những vấn đề cần có hướng giải

quyết cụ thể. Cùng với quá trình hội nhập và phát triển, nước ta đang và sẽ còn nhu cầu về mỹ

thuật ứng dụng có trình độ tay nghề cao, nhưng rõ ràng lượng cung hiện tại chưa đáp ứng

được nhu cầu đó. Nhiều doanh nghiệp phản ánh về thực trạng không tuyển dụng được những

nhà thiết kế design đúng yêu cầu. Thực tế hiện nay cho thấy, có một khoảng cách không nhỏ

giữa giáo dục với thực tiễn xã hội, trong đó mối liên kết với các công ty, doanh nghiệp còn rất

nhiều hạn chế. Các cơ sở giáo dục, đào tạo mất đi sự cân đối trong cơ cấu đào tạo ở cả phần

giáo dục và phần đào tạo, chưa có sự kết nối giữa nhà trường, cơ sở đào tạo design với doanh

nghiệp và xã hội. Tình trạng này gây ra sự mất cân đối trong đào tạo trong các cơ sở giáo

dục đồng thời gây tình trạng lãng phí nguồn lực của cả người học và người sử dụng lao động.

Chính vì vậy, cần có các giải pháp hữu hiệu của các cơ quan chức năng, nhà trường các cơ

sở đào tạo về design cần có hướng đi cụ thể nhằm giải quyết tình trạng mất cân đối trong đào

tạo design của nước ta hiện nay, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu nguồn nhân lực trong mỹ

thuật ứng dụng của các doanh nghiệp và xã hội trong giai đoạn hiện nay.

pdf 10 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo ngành design với thực tiễn xã hội từ nhà trường đến doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đào tạo ngành design với thực tiễn xã hội từ nhà trường đến doanh nghiệp

Đào tạo ngành design với thực tiễn xã hội từ nhà trường đến doanh nghiệp
 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 57 (07/2019) 41-51 41 
ĐÀO TẠO NGÀNH DESIGN VỚI THỰC TIỄN XÃ HỘI 
TỪ NHÀ TRƯỜNG ĐẾN DOANH NGHIỆP 
INDUSTRIAL DESIGN TRAINING WITH SOCIAL PRACTICES 
FROM UNIVERSITY TO BUSINESS 
Trần Quốc Bình *1 
Ngày tòa soạn nhận được bài báo:5/01/2019 
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/7/2019 
Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/7/2019 
Tóm tắt: Trong nhiều năm qua, việc phát triển đào tạo chuyên môn về mỹ thuật ứng 
dụng ở Việt Nam đã có những bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên sự mất cân đối trong cung 
cầu của ngành đào tạo design hiện vẫn đang là một trong những vấn đề cần có hướng giải 
quyết cụ thể. Cùng với quá trình hội nhập và phát triển, nước ta đang và sẽ còn nhu cầu về mỹ 
thuật ứng dụng có trình độ tay nghề cao, nhưng rõ ràng lượng cung hiện tại chưa đáp ứng 
được nhu cầu đó. Nhiều doanh nghiệp phản ánh về thực trạng không tuyển dụng được những 
nhà thiết kế design đúng yêu cầu. Thực tế hiện nay cho thấy, có một khoảng cách không nhỏ 
giữa giáo dục với thực tiễn xã hội, trong đó mối liên kết với các công ty, doanh nghiệp còn rất 
nhiều hạn chế. Các cơ sở giáo dục, đào tạo mất đi sự cân đối trong cơ cấu đào tạo ở cả phần 
giáo dục và phần đào tạo, chưa có sự kết nối giữa nhà trường, cơ sở đào tạo design với doanh 
nghiệp và xã hội. Tình trạng này gây ra sự mất cân đối trong đào tạo trong các cơ sở giáo 
dục đồng thời gây tình trạng lãng phí nguồn lực của cả người học và người sử dụng lao động. 
Chính vì vậy, cần có các giải pháp hữu hiệu của các cơ quan chức năng, nhà trường các cơ 
sở đào tạo về design cần có hướng đi cụ thể nhằm giải quyết tình trạng mất cân đối trong đào 
tạo design của nước ta hiện nay, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu nguồn nhân lực trong mỹ 
thuật ứng dụng của các doanh nghiệp và xã hội trong giai đoạn hiện nay. 
Từ khóa: Đào tạo, design, xã hội, nhà trường, doanh nghiệp 
Abstract: Over the years, the development of professional training in applied fine art in 
Vietnam has made significant improvements. However, the imbalance between supply and 
demand of design training industry is still one of the issues that need specific solutions. Along 
with the process of integration and development, our country is and will still be in need of 
highly skilled applied art, but it is clear that the current supply has not met that demand. 
Many businesses reflect the fact that they cannot recruit the designers. The current reality 
1* Trường Đại học Mở Hà Nội 
 42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
shows that there is a big gap between education and social practice, in which the linkage with 
companies and businesses is still very limited. Education and training units lose the balance 
in both the education and training sections, there is no connection between schools and 
training institutions with enterprises and society. This situation causes an imbalance in 
training in educational institutions while at the same time wasting resources of both learners 
and employers. Therefore, it is necessary to have effective solutions of functional agencies, 
universities and training units on industrial design, there should be specific directions to solve 
imbalance in industrial design training of our country today to better meet the requirements of 
human resources in the applied fines arts of businesses and society in the current period. 
Keywords: Training, design, society, university, businesses 
1. Thực trạng đào tạo ngành 
design và mối liên kết với doanh nghiệp 
tại Việt Nam hiện nay 
Khái niệm về Design 
Định nghĩa Design tiếng Anh hay 
Disegno tiếng Latin đều nhấn mạnh ý tưởng 
sáng tạo hình thức cho một tác phẩm hoặc 
một sản phẩm, một công trình hay một mục 
tiêu xác định dự kiến thực hiện và ý tưởng 
sáng tạo đó biểu hiện qua bản vẽ, phác 
thảo, thiết kế hay bản kế hoạch. Design có 
nhiều nghĩa khác nhau trong các lĩnh vực 
khác nhau... 
Design là giải pháp của thiết kế và 
trang trí nhằm sáng tạo một hình thức hấp 
dẫn phù hợp công năng, mục đích sử dụng 
cho một hay nhiều sản phẩm hoặc một tác 
phẩm. Ngôn ngữ của design là ngôn ngữ tạo 
hình hữu hình: bản vẽ phác thảo, bản vẽ 
thiết kế (hình ảnh 3D và cấu tạo kỹ thuật 
2D). 
Ranh giới giữa Design và Nghệ thuật 
(Art) là rất mỏng manh, không rõ ràng và 
xếp chung cả hai thành khái niệm Nghệ 
thuật ứng dụng, Design ngày nay được hiểu 
một cách rộng rãi là Nghệ thuật ứng dụng 
(Applied Arts). Điều này được đưa ra theo 
quan niệm bởi Raymond Loewy, nhà thiết 
kế công nghiệp hàng đầu của nước Mỹ thế 
kỷ XX và được ứng dụng dạy trong các 
trường Bauhaus (1919-1933) và Trường Tạo 
dáng Ulm (1955-1968) của Đức trong thế kỷ 
trước. [1] 
Cụm từ design ở Việt Nam có nghĩa 
là "Mỹ thuật công nghiệp", "thiết kế tạo 
dáng công nghiệp" hay "mỹ thuật ứng 
dụng". Thuật ngữ này mới nhập vào Việt 
Nam từ thập niên 1960, bắt nguồn từ 
Industrielle Formgestaltung trong tiếng Đức, 
khi các giáo sư trường Đại học Mỹ thuật 
Công nghiệp Halle (Die Hochschule für 
Industrielle Formgestaltung – Halle) sang 
trường Trung cấp Mỹ nghệ Hà Nội trao đổi 
học thuật và đã được dịch thành "Mỹ thuật 
công nghiệp"(MTCN). Từ đó trở thành thuật 
ngữ của ngành và trở nên thông dụng, cụm 
từ MTCN - MTƯD trở nên phổ biến quen 
thuộc ở Việt Nam. [2] 
Design hay MTCN - MTƯD 
thường được xếp loại bởi một số nhóm 
ngành chính sau: 
- Design Công nghiệp (Industrial Design). 
- Design Đồ họa (Graphic Design) 
- Design Thời trang (Fashion Design) 
- Design Nội thất (Interior Design) 
- Nghệ thuật trang trí (Decorative Arts) 
Ngoài ra design được mở rộng lĩnh vực 
theo sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu 
xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt trong 
bối cảnh thế kỷ XXI khi nền văn minh bước 
vào thời kỳ mới với nhiều tiến bộ vượt bậc 
của khoa học công nghệ. 
 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 43 
1.1. Thực trạng đào tạo ngành design 
hiện nay 
Trong những thập niên gần đây, sự 
bùng nổ về công nghệ thông tin, sự phát 
triển công nghiệp hàng hóa mạnh mẽ đã tạo 
ra cho thị trường việc làm một cơn khát 
nhân lực thiết kế MTƯD. Nắm được xu thế 
phát triển, tầm ảnh hưởng trong nền công 
nghiệp hàng hóa, cũng như cơ hội việc làm 
có thu nhập cao của MTƯD trong đó có ba 
ngành Thiết kế nội thất, Thiết kế thời Trang, 
Thiết kế đồ họa, các trường đại học, cao 
đẳng, trung cấp và các trung tâm đào tạo đã 
mở thêm các khoa đào tạo hoặc liên kết đào 
tạo về MTƯD ngoài các khoa, chuyên ngành 
cơ bản hiện có, nhằm thỏa mãn nhu cầu của 
thị trường việc làm trước cơn “khát” về 
nhân lực thiết kế MTƯD hiện nay. Số lượng 
đào tạo cũng chiếm tỷ lệ cao trong các 
ngành nghề đào tạo. Năm 2017 chỉ tiêu 
tuyển sinh của trường Đại học Mỹ thuật 
Công nghiệp Hà Nội có 450 chỉ tiêu, Trường 
Đại học Mở, khoa tạo Dáng Công nghiệp có 
200 chỉ tiêu với ba ngành đào tạo: thiết kế 
đồ họa, nội thất, thời trang. Chỉ tính riêng 
các trường đại học trên cả nước có đào tạo 
thiết kế đồ họa như Đại học Mỹ thuật Việt 
Nam, Đại học Mỹ thuật TPHCM, Đại học 
Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, Trường Đại 
học Nghệ thuật – Đại học Huế, Đại học 
Quốc tế Hồng Bàng, Đại học Kinh doanh và 
Công nghệ Hà Nội, Đại học Thái Nguyên, 
Đại học Hoa Sen, Đại học Tôn Đức Thắng, 
Đại học Dân lập Văn Lang, Đại học FPT, 
Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương, 
Đại học Hòa Bình, Đại học Kiến trúc Hà 
Nội, Đại học Kiến trúc Đà Nẵng, Đại học 
Kiến trúc TPHCM, Đại học Mở Hà Nội, Đại 
học Nguyễn Tất Thành, Đại học Nguyễn 
Trãi, Đại học Kinh Bắc...chưa kể các trường 
cao đẳng, trung cấp và các trung tâm đào tạo 
trên cả nước liên tục tuyển sinh các lớp đào 
tạo ngắn hạn về MTƯD cho ta thấy nhu cầu 
xã hội lớn như thế nào. 
 Nhưng trên thực tế ngành MTƯD vẫn 
đang tồn tại vấn đề nguồn cung nhiều nhưng 
chất lượng chưa tinh, sinh viên ra trường 
chưa đáp ứng được ngay công việc của các 
nhà tuyển dụng. Nhiều doanh nghiệp phản 
ánh lại sau khi nhận sinh viên mới ra trường 
họ phải mất khoảng thời gian từ ba đến 6 
tháng (tùy từng vị trí) đào tạo thêm cho họ 
thì mới đáp ứng được công việc của công ty. 
Điều này đã được chỉ ra trong các cuộc hội 
thảo về đào tạo thiết kế MTƯD. Trong bài 
phát biểu tại Hội thảo Khoa học toàn quốc 
“Đổi mới Đào tạo Mỹ thuật ứng dụng ở Việt 
Nam từ Thực tiễn đến Giải pháp” tại Thành 
phố Hồ Chí Minh ngày 25.6.2016, Tiến sĩ 
Đỗ Lệnh Hùng Tú, Ủy viên Ban Lý luận phê 
bình thuộc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ 
thuật TP.HCM cho rằng: “Với khoảng 20 
đơn vị đào tạo về mỹ thuật công nhiệp, mỹ 
thuật ứng dụng, thiết kế trên cả nước, sự 
đào tạo ồ ạt nguồn nhân lực thiết kế ở Việt 
Nam trong những năm qua đã tạo được 
nguồn lực đáng kể góp phần thúc đẩy sự 
phát triển thiết kế ở Việt Nam. Tuy nhiên, 
không ít sinh viên ra trường không kiếm 
được việc làm. Số khác theo nghề không bền 
lâu, chủ động bỏ nghề, chuyển nghề vì thu 
nhập thấp hoặc nhiều lý do khác...” 
Để thiết kế MTƯD tốt người học 
thiết kế phải học nhiều các bộ môn khác 
nhau, cộng với tư duy thẩm mỹ, khả năng 
sáng tạo, làm chủ được công cụ thiết kế để 
có thể biến các ý tưởng thành sản phẩm hấp 
dẫn, thu hút người tiêu dùng. Để làm được 
điều này ở Việt Nam vẫn chưa có sự thống 
nhất giữa các trường và các trung tạo đào 
tạo về design. 
Ở các cơ sở hay các trung tâm đào 
tạo MTƯD thường đi sâu vào đào tạo các kỹ 
năng sử dụng công cụ thiết kế, ít dành thời 
 44 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
gian cho việc học kiến thức cơ bản về mỹ 
thuật, mỹ học, lịch sử mỹ thuật, lịch sử các 
phong cách thiết kế...Việc đào tạo của các 
trung tâm mang tính thực dụng hơn sáng tạo 
nên sinh viên tốt nghiệp sẽ trở thành kỹ 
thuật viên hơn là nhà thiết kế. 
Ngược lại các trường đào tạo chính 
quy về MTƯD hiện nay thường vẫn còn đi 
theo các chương trình khung của Bộ giáo 
dục và đào tạo, chú trọng vào việc đào tạo 
tổng hợp các môn cả lý thuyết lẫn thực hành 
mỗi thứ biết một ít, dẫn đến tình trạng sinh 
viên ra trường có nhiều kiến thức tổng hợp 
về mỹ thuật vững, khả năng sáng tạo tốt 
nhưng lại bị hạn chế bởi các kỹ năng sử 
dụng công cụ thể hiện. Điều này khiến sinh 
viên khó thể hiện tốt ý tưởng sáng tạo của 
mình, hoặc thiếu kiến thức thực tế nên bị 
hạn chế cơ hội việc làm. 
Trở lại với thực trạng đào tạo MTƯD 
hiện nay, do nhiều trường đào tạo mạnh ai 
lấy làm nên chưa có sự thống nhất giữa các 
trường, các cơ sở, trung tâm đào tạo, mạnh 
nơi nào nơi đó đào tạo, không có sự thống 
nhất từ Bộ Giáo dục và Đào tạo cho đến các 
trường cũng như góp ý chuyên môn của các 
chuyên gia trong và ngoài nước. Đặc biệt là 
thiếu sự tham gia của các doanh nghiệp sử 
dụng lao động về thiết kế MTƯD. Chính vì 
vậy, đội ngũ sinh viên thiết kế MTƯD ở 
nước ta khi ra trường còn yếu cả về trình độ 
chuyên môn, kỹ thuật thực hành, lẫn kinh 
nghiệm thực tế. Hiện nay, đội ngũ nhiều nhà 
thiết kế MTƯD trẻ chủ yếu thực hiện cóp 
nhặt ý tưởng áp đặt kiểu cách “Design ngoại 
nhập” vào Việt Nam, trong khi không thể 
hiện được giá trị thẩm mỹ mang bản sắc văn 
hóa Việt đối với các hàng hoá xuất khẩu ra 
nước ngoài. Thực chất những nhà thiết kế 
design của chúng ta là những người gia công 
rập khuôn theo khuôn mẫu, mẫu mã có sẵn 
trong và ngoài nước, hoặc làm nhái theo 
thương hiệu design ngoại quốc mà không có 
nhiều những giá trị thiết kế mang bản sắc, 
thương hiệu của người Việt Nam. 
Các công ty, doanh nghiệp sản xuất 
thương mại lớn nhỏ trong nước nhận thức 
được vấn đề là mẫu mã Design cần phải 
mang bản sắc văn hóa Việt, nhưng trên thực 
tế họ lại không tìm thấy những người thiết 
kế có tầm. Nếu có thì những người này cũng 
đã được các công ty nước ngoài mời về làm 
việc. Vai trò, chức năng của nhà design ứng 
dụng trở nên mờ nhạt trong suốt quá trình từ 
hoạt động ý tưởng sáng tạo sản phẩm đến 
quá trình thiết kế sản phẩm, phát triển công 
nghệ và quá trình thương mại hóa như đóng 
gói bao bì, tiếp thị quảng cáoDẫn đến việc 
đóng góp của design vào giá trị sử dụng và 
giá trị thương mại của sản phẩm trong nước 
còn thấp, không đáp ứng được nhu cầu xã 
hội và doanh nghiệp. Điều này chúng ta có 
thể nhận thấy ngay qua các poster quảng 
cáo, hình ảnh quảng cáo, ca nhạc, phim ở 
các tụ điểm vui chơi giải trí, rạp chiếu phim, 
hàng hóa, kiểu dáng giường, tủ, bàn ghế,ở 
các cửa hàng trang trí nội thất. 
Thực trạng trên cho thấy cần phải có giải 
pháp kết nối giữa nhà trường với các doanh 
nghiệp, công ty thiết kế, quảng cáo Các 
bên cần ngồi lại cùng nhau bàn bạc, định 
hướng cho sự đào tạo và phát triển của 
design Việt Nam. Trong đó nhà trường là 
nơi đào tạo chính, còn các doanh nghiệp 
công ty, đặt hàng, tư vấn hỗ trợ về tài chính 
và thực tập các vấn đề về chuyên môn 
 1.2. Cần có mối liên kết giữa nhà 
trường với doanh nghiệp 
 - Mô hình đại học với doanh 
nghiệp trên thế giới 
Mô hình đại học trên thế giới đã có 
chuyển biến tích cực và thực sự đi vào 
thực tế công nghiệp kể từ khi đạo luật 
 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 45 
Bayh-Dole được thông vào tháng 12 năm 
1980. Đạo luật này do Thượng nghị sỹ 
Birch Bayh và Robert Dole đồng tài trợ, 
cho phép các trường đại học và các tổ 
chức phi lợi nhuận cấp bằng sáng chế và 
thương mại hóa kết quả nghiên cứu của 
họ trong các chương trình nghiên cứu 
bằng quỹ của chính phủ; cho phép các cơ 
quan liên bang cấp giấy phép cho các 
công nghệ của họ ứng dụng trong thương 
mại và đời sống sản xuất. Nó được xem 
như một cuộc cách mạng trong giáo dục. 
Đạo luật Bayh-Dole đề cập đến hai vấn 
đề quan trọng nhằm góp phần thúc đẩy 
mối quan hệ giữa đại học và doanh 
nghiệp. Với việc tạo ra một chính sách 
bản quyền đồng bộ cho tất cả các cơ quan 
liên bang mà được tài trợ nghiên cứu từ 
chính phủ và cho phép các đại học giữ 
pháp lý của các sáng chế, đạo luật đã tạo 
ra một mô hình chính sách quốc gia 
khuyến khích các trường đại học và các tổ 
chức phi lợi nhuận liên kết với giới doanh 
nghiệp - dịch vụ trong vấn đề chuyển giao 
tri thức và khoa học công nghệ. 
Đạo luật này đã góp chuyển biến 
mạnh mẽ trong các trường đại học ở Mỹ, 
thúc đẩy sự hợp tác với giới công nghiệp 
– doanh nghiệp – dịch vụ, đóng góp 40 tỷ 
USD và tạo ra trên 260.000 việc làm 
[1,2]. Ảnh hưởng của đạo luật lan rộng 
đến cả châu Âu, Úc và các nước Châu Á. 
Ở châu Á, Nhật Bản và Hàn Quốc đã ban 
hành nhiều đạo luật và thành lập nhiều tổ 
chức cơ quan thúc đẩy sự chuyển giao tri 
thức và khoa học công nghệ giữa các 
trường đại học và các tổ chức công 
nghiệp [6,7]. 
 Năm 1998, tại Nhật Bản ban hành 
luật xúc tiến chuyển giao công nghệ công 
nghiệp - đại học, cho phép thành lập các 
văn phòng cấp phép công nghệ (TLOs) 
nhận được tài chính từ chính phủ để trả 
các chi phí hành chính, khuyến khích các 
hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa các 
trường đại học và đơn vị công nghiệp. 
Bên cạnh đó, chính phủ Nhật còn có các 
chương trình thúc đẩy các chức năng 
chuyển giao công nghệ của các đại học 
trong đó có việc gửi các chuyên gia, các 
cá nhân có kinh nghiệm kinh doanh trong 
các  ... chuyên ngành đi vào chiều 
sâu của từng chuyên ngành. Điều này rất 
cần sự hợp tác giữa trường đại học với 
doanh nghiệp. Đây là những yếu tố then 
chốt ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, 
cũng như trình độ tay nghề của sinh viên. 
Tuy nhiên, sự đổi mới giáo dục dù đã 
được đưa vào chủ trương lớn của Đảng và 
Nhà nước với phương châm xã hội hóa giáo 
dục, gắn kết giáo dục với thực tế yêu cầu 
của xã hội nhưng kết quả chưa mang lại như 
kỳ vọng. Có rất nhiều nguyên nhân về mô 
hình, cơ chế chính sách và kết cấu hạ tầng 
giáo dục...Để có thể tiến đến các mô hình 
giáo dục tiên tiến như ở các nước trên thế 
giới thì còn rất nhiều việc chúng ta cần giải 
quyết dần dần. 
 2. Một số ý kiến về đào tạo 
design kết hợp với doanh nghiệp 
 2.1. Tổ chức hội thảo khoa học 
từ nhà trường đến doanh nghiệp 
 Để đáp ứng nhu cầu xã hội và 
doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay, các 
trường đào tạo về MTƯD nên tổ chức các 
cuộc hội thoại, đối thoại giữa nhà tuyển 
dụng với nhà trường. Hình thành các diễn 
đàn trao đổi, các buổi hội thảo khoa học có 
sự tham gia của giảng viên, các nhà khoa 
học nghiên cứu độc lập, doanh nghiệp và 
 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 47 
cựu sinh viên là một trong các phương 
pháp rất hiệu quả để liên kết giữa đại học 
và Doanh nghiệp. Các trường, khoa dạy 
design thường xuyên tổ chức các buổi đối 
thoại giữa nhà trường với doanh nghiệp, 
cựu sinh viên thành đạt về các vấn đề kinh 
tế xã hội, trào lưu xu hướng thiết kế mới 
nổi trội gần đây. Nhà trường, khoa nên có 
định hướng đưa mối quan hệ, hợp tác với 
các doanh nghiệp lên tầm đối tác chiến 
lược. Doanh nghiệp hỗ trợ tài chính, tiếp 
nhận và hỗ trợ sinh viên đồ họa, nội thất, 
thời trang của nhà trường, khoa đến thực 
tập tại công ty, tài trợ nhà trường trong 
việc tổ chức các sự kiện thường niên cho 
sinh viên ngành MTƯD như: mở các cuộc 
triển lãm thiết kế ứng dụng trên địa bàn 
thành phố hoặc triển lãm các trường 
MTƯD toàn quốc. Qua đó các doanh 
nghiệp, công ty thiết kế biết được khả năng 
sáng tạo của sinh viên đồng thời cũng tìm 
được những nhà thiết kế phù hợp cho công 
ty cũng như doanh nghiệp của mình. Đổi 
lại nhà trường, khoa và các giảng viên, 
phải cam kết hoàn thành các báo cáo khoa 
học phục vụ cho các đề tài nghiên cứu của 
doanh nghiệp cũng như nguồn nhân lực 
theo đơn đặt của doanh nghiệp và các công 
ty thiết kế ngay cả khi các doanh nghiệp, 
công ty thiết kế, muốn được góp một phần 
vào đào tạo sinh viên nếu doanh nghiệp 
yêu cầu. 
 Qua các cuộc hội thảo giữa nhà 
trường, khoa và doanh nghiệp, đại diện 
lãnh đạo các trường và doanh nghiệp cùng 
nhau thảo luận, góp ý về nội dung chương 
trình đào tạo design, tùy theo từng ngành 
cụ thể, phối hợp với trường, khoa xây dựng 
và phát triển chương trình đào tạo về 
nguồn nhân lực cao mà các công ty thiết 
kế, các doanh nghiệp cần góp ý trong giảng 
dạy các kỹ năng thực hành, thực tập để đáp 
ứng nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội. 
 Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng 
sẽ cử chuyên gia, những người giàu kinh 
nghiệm về thiết kế, marketing,cùng phối 
hợp với khoa và giảng viên trong khoa 
tham gia giảng dạy các môn học tự chọn 
cùng các giảng viên hướng dẫn đề tài đồ án 
tốt nghiệp nhằm hỗ trợ cho sinh viên các 
kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu 
thực tiễn của sự phát triển nguồn nhân lực 
ngành MTƯD, nâng cao chất lượng đào 
tạo của các trường đào tạo design trong 
giai đoạn hiện nay. 
2.2. Liên kết đào tạo ngành design 
với các doanh nghiệp liên quan 
 Trong các trường đạo tạo về MTƯD 
thường có nhiều khoa, ngành, ví dụ như 
khoa nội thất, đồ họa, thời trangvì vậy nhà 
trường cần cho từng khoa chủ động thiết lập 
trung tâm hợp tác doanh nghiệp và trung 
tâm phát triển nghề nghiệp cho sinh viên, 
xây dựng mạng lưới các doanh nghiệp có 
các thành tố là cựu sinh viên, mối quan hệ 
lãnh đạo, doanh nghiệp để tranh thủ sự hỗ 
trợ của doanh nghiệp hoặc hình thành nên 
các trung tâm phát triển hợp tác doanh 
nghiệp. Các bộ phận này có thể là một 
phòng/ban độc lập, cũng có thể là một bộ 
phận trong một phòng/ban hoặc trung tâm. 
Có thể đưa ra ví dụ về tên của các bộ phận 
này như: Trung tâm hợp tác doanh nghiệp 
và hỗ trợ sinh viên. Trung tâm kết nối doanh 
nghiệp với sinh viên, Trung tâm đào tạo 
(khác với phòng đào tạo). Các tuyên bố 
về chức năng và nhiệm vụ của các trung 
tâm. Trung tâm này đều có các nhiệm vụ 
chính, như: 
 - Tiếp nhận, tư vấn và hỗ trợ giới thiệu 
việc làm thêm cho sinh viên để sinh viên 
vừa có cơ hội làm việc cũng như thực tập 
nâng cao tay nghề và có thêm thu nhập. 
 48 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
Trung tâm này còn là nơi giới thiệu việc làm 
cho sinh viên khi tốt nghiệp. 
tác và tổ chức đào tạo. Hợp tác đào tạo theo 
nhu cầu doanh nghiệp. 
 - Tổ chức triển khai các hoạt động đào 
tạo cho sinh viên. Xây dựng và phát triển 
mối quan hệ với cựu sinh viên và doanh 
nghiệp. Hỗ trợ giới thiệu cho sinh viên đến 
các công ty thiết kế để sinh viên thực tập. 
 - Tư vấn hướng nghiệp, tiếp nhận tài 
trợ học bổng của các doanh nghiệp trong 
và ngoài nước, trang thiết bị học tập cho 
sinh viên. 
 - Tổ chức khảo sát tình trạng việc làm 
của sinh viên sau khi tốt nghiệp, đánh giá 
thông tin phản hồi của các doanh nghiệp và 
tổ chức sử dụng lao động về chất lượng sinh 
viên sau tốt nghiệp. Tổ chức cho sinh viên 
tham quan doanh nghiệp. Tổ chức một 
lần/một học kỳ. Thời gian của các đợt tham 
quan doanh nghiệp cũng khác nhau, từ một 
ngày đến vài ngày. 
Trường, khoa kết nối với nhà tuyển 
dụng, doanh nghiệp, các công ty thiết kế, 
đưa ra các chương trình thực hành, thực 
tập cho sinh viên. Chương trình thực tập 
rất quan trọng đối với sinh viên ngành 
MTƯD, không chỉ giúp sinh viên củng cố, 
ứng dụng kiến thức đã học để năng cao tay 
nghề mà còn phát triển kỹ năng thao tác 
các kỹ năng thực hành máy, tiếp cận với 
công nghệ hiện đại, những xu hướng thiết 
kế mới đang được thịnh hành trên thế giới 
cũng như trong nước, làm quen với môi 
trường doanh nghiệp. Từ đó sinh viên có 
tay nghề cao đáp ứng nhu cầu của các 
doanh nghiệp. 
Ngoài ra các trường đại học đào tạo về 
design nên mời các chuyên gia, cựu sinh 
viên thành đạt, doanh nhân đang công tác ở 
các doanh nghiệp tư vấn thiết kế đồ họa, 
nội thất, thời trang tham gia vào quá trình 
đào tạo tại khoa, mời các nhà nghiên cứu 
doanh nhân nói chuyện thực tiễn hay giảng 
dạy một số chương thực hành, tổ chức hội 
thảo và giao lưu giữa cựu sinh viên, doanh 
nghiệp với sinh viên nhằm tạo điều kiện 
cho sinh viên tìm hiểu về thực tiễn hoạt 
động kinh doanh. Qua các buổi trao đổi 
này, sinh viên có thể tìm hiểu thêm hoặc 
phát triển những nghiên cứu sau này, đồng 
thời doanh nghiệp cũng có cơ hội quảng 
bá, giới thiệu và cũng có thể tuyển chọn 
được ứng viên tiềm năng, tâm huyết. 
2.3. Nhà trường, cơ sở đào tạo thiết 
kế chương trình dựa trên nhu cầu xã hội 
và doanh nghiệp 
 Qua sự hợp tác giao lưu trao đổi nói 
trên, nhà trường, khoa, cơ sở đào tạo có thể 
kết hợp với các doanh nghiệp thiết kế các 
chương trình đào tạo dựa trên nhu cầu thực 
tế của từng doanh nghiệp. Phương pháp này 
rất cần được áp dụng vào các chương trình 
đào tạo ngành MTƯD ở Việt Nam vốn dĩ xa 
rời thực tế công nghiệp. Phương pháp này 
rất phù hợp với kinh tế thị trường vì thường 
chỉ giải quyết một vấn đề liên quan đến công 
ty theo xu hướng biến đổi kinh tế xã hội. 
Chương trình đào tạo có thể được chia ra 
làm hai phần: 
- Kiến thức nền tảng và kiến thức mô 
hình thực tế. Kiến thức nền tảng mang tính 
học thuật cao nhằm tạo cơ sở khoa học nền 
tảng để giải quyết vấn đề đặt ra. 
- Kiến thức mô hình thực tế là giới 
thiệu các mô hình lý thuyết dùng để giải 
quyết các vấn đề sẽ được giải quyết trong 
dự án. 
Với chương trình đào tạo này sinh 
viên sẽ biết học để làm gì và làm để hiểu 
hơn những gì được học. Ngoài ra, nhà 
trường còn lập ra hội đồng đánh giá khóa 
học trong đó có các giảng viên trong trường, 
các giảng viên ngoài trường và các thành 
 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 49 
viên khách mời từ các công ty, doanh nghiệp 
về đánh giá kết quả của sinh viên. Sinh viên 
khi được các chuyên gia đánh giá sẽ tiếp thu 
được nhiều kiến thức quí báu từ các chuyên 
gia. Ưu điểm của phương pháp này là tạo 
mối liên kết hữu cơ, doanh nghiệp cùng 
tham gia kiểm tra đánh giá kết quả học tập 
của sinh viên đồng thời có tác động thay đổi 
kết cấu chương trình đào tạo, trong khi nhà 
trường sẽ cân bằng được chương trình đào 
tạo có kịp thời đáp ứng được nhu cầu 
của các doanh nghiệp và sự phát triển 
của xã hội. 
2.4. Thành lập doanh nghiệp 
thuộc Khoa 
Trường cho phép các khoa thành lập 
các doanh nghiệp, trung tâm nghiên cứu 
thiết kế mỹ thuật, xưởng đồ họa, nội thất, 
thời trang dưới sự quản lý của khoa. Đây là 
một trong những yếu tố đặc trưng của từng 
khoa. Việc này giúp cho trường, khoa xây 
dựng được cơ sở hạ tầng phục vụ cho nghiên 
cứu học tập đồng thời cũng khai thác được 
lợi ích kinh doanh từ đó. Ngoài ra các doanh 
nghiệp, trung tâm trực thuộc khoa sẽ đóng 
góp một phần kinh phí xây dựng hệ thống 
phòng thí nghiệm tiên tiến là hình thức liên 
doanh với các doanh nghiệp để xây dựng 
các phòng, xưởng thực tế cho các sinh viên 
thực hành và đào tạo nâng cao tay nghề cho 
kỹ thiết kế tương lai. Đây cũng là một cách 
tăng nguồn kinh phí cho các trường, khoa 
đang đào tạo mỹ thuật ứng dụng có thêm 
kinh phí đầu tư trang thiết bị dạy học hiện 
đại phục vụ cho sự phát triển của trường. 
Hình thức thành lập doanh nghiệp trung tâm 
thuộc khoa thành công khi cả hai bên dựa 
trên mục tiêu chuyển giao kiến thức công 
nghệ chứ không phải đơn thuần là tiết kiệm 
tiền trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho 
nghiên cứu và học tập. 
2.5. Chương trình thực tập nghề tại 
công ty, doanh nghiệp thiết kế 
 Nhà trường, khoa xây dựng một 
chương trình huấn luyện nghề nghiệp (thực 
tập hoặc kiến tập) cho sinh viên ngành 
design ngay từ năm thứ 3. Sinh viên năm 
thứ 3 sẽ được khoa gửi đi đến các doanh 
nghiệp theo đúng chuyên môn đang theo 
học. Ví dụ sinh viên ngành nội thất gửi về 
các doanh nghiệp, công ty thiết kế thi công 
nội thất. Sinh viên ngành đồ họa gửi về các 
công ty in ấn, công ty quảng cáo, công ty 
truyền thông. Sinh viên ngành thời trang gửi 
về các công ty may, các nhà chuyên thiết kế 
thời trang để thực tập. Từ đó giúp cho sinh 
viên được trải nghiệm thực tế, từ thực hành 
đến lý thuyết, nắm vững các công đoạn 
trước, trong và sau thiết kế, từng bước hiểu 
được công việc mà mình đã, đang và sẽ làm 
sau này và có cơ hội tạo dựng các mối quan 
hệ nghề nghiệp. 
 Chương trình thực tập này được tính 
như một tín chỉ phải hoàn thành trước khi 
bước vào năm cuối. Nhà trường, khoa, kết 
hợp với các công ty doanh nghiệp thiết kế 
tạo ra một mạng lưới các trợ giảng cấp cao 
từ trường đến doanh nghiệp (người của 
doanh nghiệp) có hiểu biết và kiến thức về 
lĩnh vực nghề nghiệp chuyên môn. Nhà 
trường, khoa kết hợp với các công ty, doanh 
nghiệp để hỗ trợ sinh viên trong suốt thời 
gian thực tập. Trong quá trình thực tập sinh 
viên sẽ có cơ hội cọ xát và thể hiện mình 
trước yêu cầu và môi trường làm việc tại 
doanh nghiệp. Các trợ giảng sẽ giao nhiệm 
vụ và giám sát sinh viên trong suốt quá trình 
thực tập. Như vậy cho thấy sự liên quan gắn 
bó mật thiết của nhà trường với doanh 
nghiệp thông qua chương trình thực tập của 
sinh viên, mối quan hệ liên kết giữa sinh 
viên - trợ giảng - doanh nghiệp – các công ty 
sẽ được thiết lập. Lưu ý, đây không phải là 
 50 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
đợt thực tập tốt nghiệp như ở các trường 
không phải chuyên MTƯD đang thực hiện 
mà là đợt thực tập huấn luyện nghề nghiệp 
để chuẩn bị kinh nghiệm, kỹ năng thiết kế 
cho sinh viên trước khi nhận đề tài/đồ án 
nghiên cứu tốt nghiệp của mình. Như vậy, 
đề tài/đồ án tốt nghiệp của sinh viên sẽ phù 
hợp với như cầu doanh nghiệp và sinh viên 
có thời gian trải nghiệm thực tế để có định 
hướng nghiên cứu tốt hơn trong đồ án tốt 
nghiệp của mình. 
3.Kết luận 
Theo tôi, các doanh nghiệp trong 
nước chưa có cơ hội và điều kiện tiếp cận 
với mô hình, từ nhà trường đến doanh 
nghiệp. Vì vậy trong quá trình đào tạo cần 
có sự tham gia của doanh nghiệp, như đề 
xuất danh mục nghề, tham gia giảng dạy và 
đánh giá kết quả học tập, tổ chức cho học 
sinh thực tập tại doanh nghiệp... Sinh viên 
khi ra trường họ đã được thực tập và làm 
việc tại doanh nghiệp, công ty và ở mức độ 
nhất định đã đáp ứng được yêu cầu của 
doanh nghiệp cả về kiến thức và kỹ năng 
chuyên môn. 
Các doanh nghiệp tư nhân, doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công 
ty tư vấn thiết kế có quy mô nên chủ động 
kết hợp với nhà trường, cơ sở đào tạo về 
design tổ chức các buổi hội thảo trao đổi về 
các xu hướng thiết kế, những yêu cầu của 
các doanh nghiệp, hỗ trợ bồi dưỡng kỹ năng, 
thực hành thực tập cho sinh viên tại các địa 
điểm của công ty, doanh nghiệp mình. Thực 
tập tại các cơ sở đào tạo của doanh nghiệp 
có ưu điểm là hình thức đào tạo phù hợp với 
đặc điểm sản xuất cũng như công nghệ của 
doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp và 
công ty vừa tiết kiệm được thời gian đào tạo 
và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, vừa 
tìm được nhân lực làm việc theo yêu cầu của 
doanh nghiệp. 
Đây là một mô hình cần được nhà 
trường, các doanh nghiệp bắt tay nhau hợp 
tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. 
Một sự hợp tác mang lại ba lợi ích. Một là 
lợi ích cho nhà trường, tạo sự uy tín cho cơ 
sở đào tạo. Hai là các công ty, doanh 
nghiệp không mất công, mất thời gian tiền 
bạc đào tạo lại người lao động cho phù 
hợp với doanh nghiệp của mình. Ba là 
tránh lãng phí tiền của đầu tư của chính 
phủ trong tình hình kinh phí chi cho giáo 
dục nước ta còn eo hẹp. 
Tài liệu tham khảo: 
Tài liệu tham khảo trong nước: 
1. Vũ Thị Phương Anh. (2013). Gắn kết giữa 
nhà trường và doanh nghiệp: Phải chăng còn 
thiếu một mắt xích? Truy cập ngày 27/02/2018 
tại http:/ncgd vn. Blogspot.com/2013/10/gan-
ket-giua-nha-truong-va-doanh nghiep.html 
2. Nguyễn Ngọc Dũng (2012), “Bàn về thuật 
ngữ Design”, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, số 
3,4/12, tr.12-15. 
3. Nguyễn Ngọc Dũng, “Bàn về thuật ngữ 
Design”, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, số 
3,4/12, 2012, tr.12-15. 
4. Vũ Tiến Dũng. (2016). “Một số giải pháp 
tăng cường liên kết đào tạo giữa trường đại 
học và doanh nghiệp”, Tạp Chí Lí Luận 
Chính Trị, số 5. 
5. Trần Khánh Đức. Giáo Dục Đại Học Việt 
Nam Và Thế Giới, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
2012. 
6. Trần Khánh Đức. “Đặc trưng và mô hình 
quản lý giáo dục ở một số nước trên thế giới”. 
TTKHGD, Số 102 Tr.42-43, 45. 
7. Nguyễn Đình Luận. (2015). Sự gắn kết 
giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào 
tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh 
tế xã hội ở Việt nam: Thực trạng và khuyến 
nghị. Tạp Chí Phát Triển và Hội Nhập, 22 
(32). 
8. Phạm Thi Ly. (2016). Về quan hệ hợp tác 
giữa nhà trường và doanh nghiệp. Truy cập 

File đính kèm:

  • pdfdao_tao_nganh_design_voi_thuc_tien_xa_hoi_tu_nha_truong_den.pdf