Đánh giá vận động xoắn của thất trái bằng siêu âm đánh dấu mô ở bệnh nhân suy tim mạn tính

Ở bệnh nhân suy tim mạn tính, chỉ số siêu âm EF được coi là quan trọng nhất trên lâm sàng. Tuy

nhiên, vận động xoắn của thất trái có ý nghĩa không kém phần quan trong trong đánh giá chức năng thất

trái. Phương pháp siêu âm đánh dấu mô (speckle tracking) là một phương pháp siêu âm mới có độ chính

xác cao gần đây được áp dụng trên lâm sàng để đánh giá vận động xoắn của thất trái. Mục tiêu: Khảo

sát và đánh giá sự biến đổi vận động xoắn của thất trái và mối liên quan giữa các chỉ số xoắn của thất trái

trên siêu âm đánh dấu mô với một số chỉ số siêu âm tim 2D của suy tim. Đối tượng và phương pháp: Có

41 người khỏe mạnh và 70 bệnh nhân suy tim mạn tính theo tiêu chuẩn Framingham điều trị tại khoa

Nội Tim mạch- Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 3/2014 đến tháng 4/2014 được đưa vào

nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân được khám lâm sàng, điện tim, xét nghiệm sinh hóa và làm siêu âm

ghi hình theo các mặt chuẩn. Hình ảnh siêu âm được phân tích và đo đạc bằng phần mềm ECHOPAC

112 (GE, Hoa Kỳ). Kết quả: Tất cả các chỉ số siêu âm tim đánh giá vận động xoắn của thất trái (AR,

ARV, BRV, T, TV) đều giảm hơn ở nhóm suy tim so với nhóm người khỏe mạnh có ý nghĩa thống kê với

p<0,05. thời="" gian="" đạt="" đỉnh="" độ="" xoắn="" của="" thất="" trái="" (="" thời="" gian="" ar,="" arv,="" br,="" brv,="" t,="" tv)="" đều="" kéo="" dài="">

ở nhóm suy tim so với nhóm người khỏe mạnh có ý nghĩa thống kê. Bệnh nhân suy tim sau nhồi máu cơ

tim có độ xoắn giảm thấp nhất (T=6,3 độ), sau đó là đái tháo đường (T=6,5 độ) và ít giảm nhất là nhóm

tăng huyết áp (T=8,1 độ). Bệnh nhân có NYHA càng nặng thì mức độ giảm góc xoắn càng nhiều. Chỉ số

T có tương quan thuận chặt với EF (r=0,83; p<0,001) và="" nghịch="" với="" dd="" (r="-0,72;"><0,001). kết="">

Vận động xoắn của thất trái là một thông số quan trọng đánh giá mức độ suy tim và có tương quan thuận

chặt với chỉ số EF, tương quan nghịch chặt với chỉ số Dd trên siêu âm 2D.

pdf 9 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá vận động xoắn của thất trái bằng siêu âm đánh dấu mô ở bệnh nhân suy tim mạn tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá vận động xoắn của thất trái bằng siêu âm đánh dấu mô ở bệnh nhân suy tim mạn tính

Đánh giá vận động xoắn của thất trái bằng siêu âm đánh dấu mô ở bệnh nhân suy tim mạn tính
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014144
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy tim là một hội chứng bệnh lý thường gặp 
trong lâm sàng và là giai đoạn cuối cùng của các 
bệnh lý tim mạch, đây là hậu quả của nhiều bệnh 
lý tim mạch khác nhau như van tim, cơ tim, màng 
ngoài tim, loạn nhịp tim, tăng huyết áp bệnh động 
mạch vành Suy tim làm giảm hoặc mất hẳn sức 
lao động của bệnh nhân và là một trong những 
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong. [4]
Trong thực hành lâm sàng chỉ số tống máu 
thất trái (EF) được xem là quan trọng nhất trong 
đánh giá chức năng tim. Người ta đã biến rằng các 
sợi cơ tim dày lên theo chiều ngang và co ngắn lại 
theo chiều dọc là những yếu tố cơ bản quyết định 
sức co bóp của cơ tim. Tuy nhiên cơ tim lại có một 
cấu trúc xoắn đặc biệt và các lực co không đồng 
hướng. Một số tác giả thấy rằng nếu cơ tim chỉ dày 
lên và co ngắn lại thì EF chỉ đạt được tối đa 45% và 
15% còn lại là do lực xoắn tạo nên.[7]
Từ những năm 1990 người ta bắt đầu áp dụng 
Đánh giá vận động xoắn của thất trái bằng siêu 
âm đánh dấu mô ở bệnh nhân suy tim mạn tính
Đỗ Văn Chiến*, Phạm Thế Thọ* 
Nguyễn Công Thành**, ** Phạm Nguyên Sơn
*Viện Tim mạch Quân đội
 **Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
TÓM TẮT
Ở bệnh nhân suy tim mạn tính, chỉ số siêu âm EF được coi là quan trọng nhất trên lâm sàng. Tuy 
nhiên, vận động xoắn của thất trái có ý nghĩa không kém phần quan trong trong đánh giá chức năng thất 
trái. Phương pháp siêu âm đánh dấu mô (speckle tracking) là một phương pháp siêu âm mới có độ chính 
xác cao gần đây được áp dụng trên lâm sàng để đánh giá vận động xoắn của thất trái. Mục tiêu: Khảo 
sát và đánh giá sự biến đổi vận động xoắn của thất trái và mối liên quan giữa các chỉ số xoắn của thất trái 
trên siêu âm đánh dấu mô với một số chỉ số siêu âm tim 2D của suy tim. Đối tượng và phương pháp: Có 
41 người khỏe mạnh và 70 bệnh nhân suy tim mạn tính theo tiêu chuẩn Framingham điều trị tại khoa 
Nội Tim mạch- Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 3/2014 đến tháng 4/2014 được đưa vào 
nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân được khám lâm sàng, điện tim, xét nghiệm sinh hóa và làm siêu âm 
ghi hình theo các mặt chuẩn. Hình ảnh siêu âm được phân tích và đo đạc bằng phần mềm ECHOPAC 
112 (GE, Hoa Kỳ). Kết quả: Tất cả các chỉ số siêu âm tim đánh giá vận động xoắn của thất trái (AR, 
ARV, BRV, T, TV) đều giảm hơn ở nhóm suy tim so với nhóm người khỏe mạnh có ý nghĩa thống kê với 
p<0,05. Thời gian đạt đỉnh độ xoắn của thất trái ( thời gian AR, ARV, BR, BRV, T, TV) đều kéo dài hơn 
ở nhóm suy tim so với nhóm người khỏe mạnh có ý nghĩa thống kê. Bệnh nhân suy tim sau nhồi máu cơ 
tim có độ xoắn giảm thấp nhất (T=6,3 độ), sau đó là đái tháo đường (T=6,5 độ) và ít giảm nhất là nhóm 
tăng huyết áp (T=8,1 độ). Bệnh nhân có NYHA càng nặng thì mức độ giảm góc xoắn càng nhiều. Chỉ số 
T có tương quan thuận chặt với EF (r=0,83; p<0,001) và nghịch với Dd (r=-0,72; p<0,001). Kết luận: 
Vận động xoắn của thất trái là một thông số quan trọng đánh giá mức độ suy tim và có tương quan thuận 
chặt với chỉ số EF, tương quan nghịch chặt với chỉ số Dd trên siêu âm 2D.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 145
phương pháp cộng hưởng từ tim (MRI) để đánh 
giá vận động vặn xoắn của thất trái. Tuy nhiên sử 
dụng cộng hưởng từ thường có giá thành cao, tốn 
nhiều thời gian và khó phân tích hình ảnh. Nhờ 
những tiến bộ về kĩ thuật siêu âm đặc biệt là kĩ 
thuật siêu âm đánh dấu mô (speckle tracking) cho 
phép chúng ta đánh giá vận động xoắn và của thất 
trái một cách đơn giản và hiệu quả hơn.
Sự biến đổi vận động xoắn không chỉ là một 
yếu tố phát hiện suy tim sớm và nhạy hơn so với EF 
mà còn là một yếu tố làm làm suy tim nặng lên và 
có ý nghĩa quan trọng trong quản lý và tiên lượng 
bệnh nhân. Người ta thấy rằng bệnh nhân suy tim 
có thất trái càng giãn thì khả năng xoắn càng giảm 
đi. Để hiểu rõ thêm về vai trò của vận động xoắn 
của thất trái trong suy tim chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu với mục tiêu sau:
Khảo sát và đánh giá sự biến đổi vận động 
xoắn của thất trái và mối liên quan giữa các chỉ 
số xoắn của thất trái trên siêu âm đánh dấu mô 
với một số chỉ số siêu âm tim 2D của suy tim.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 2013 
đến tháng 3 năm 2014 chúng tôi thu nhân được 
70 bệnh nhân được xác định có suy tim điều trị tại 
khoa Nội Tim mạch, Bệnh viện Trung ương Quân 
đội 108 và 41 bệnh nhân là người bình thường 
đến khám bệnh tại phòng khám bệnh, Bệnh viện 
Trung ương Quân đội 108.
Tiêu chuẩn lựa chọn
 Suy tim được chuẩn đoán theo tiêu chuẩn 
Framingham[4], chẩn đoán đái tháo đường týp II 
được xác định theo ADA 2010[2], tăng huyết áp 
theo WHO 1999[1]. Bệnh nhân được coi là có 
bệnh động mạch vành nếu có một trong các tiêu 
chí sau: có tiền sử nhồi máu cơ tim, có sóng Q ở hai 
chuyển đạo liên tục trên điện tim, có hình ảnh chụp 
động mạch vành với kết quả đường kính hẹp trên 
50% hoặc đã được phẫu thuật bắc cầu chủ vành. 
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu, 
hình ảnh siêu âm tim không đủ điều kiện phân 
tích, có bệnh cấp tính kèm theo hoặc suy tim do 
bệnh van tim.
Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều được 
khám lâm sàng tỉ mỉ, điền đầy đủ thông tin theo 
mẫu hồ sơ nghiên cứu. Làm các xét nghiệm sinh 
hóa cần thiết, ghi điện tim 12 chuyển đạo và ghi 
hình siêu âm tim để phân tích. 
Phân tích hình ảnh siêu âm tim bằng phần 
mềm ECHOPAC 
Tất cả các bệnh nhân được cắt ở mặt cắt chuẩn 
với tư thế nằm nghiêng trái. Các mặt cắt chuẩn bao 
gồm cạnh ức trục dọc, trục ngang qua thất phần 
nền và phần mỏm, mặt cắt 4 và 5 buồng tại mỏm. 
Hình ảnh siêu âm được ghi lại ở ít nhất 3 chuyển 
đạo liên tục để phân tích. Đặt đầu dò Doppler 
xung tại điểm đầu van hai lá đểtính thời gian mở, 
đóng van hai lá (MVO, MVC). Đặt Doppler xung 
tại đường ra thất trái để tính thời gian đóng, mở 
van động mạch chủ (AVO, AVC). Các thông số 
MVO, MVC, AVO, AVC được dùng để căn chỉnh 
thời gian và xác định thời gian tâm thu và tâm 
trương.Chất lượng hình ảnh siêu âm 2D rất quan 
trọng trong siêu âm đánh dấu mô, máy tính sẽ chỉ 
chấp nhận những vùng cơ tim rõ ràng trên siêu âm 
và những hình ảnh không đủ điều kiện sẽ không 
được chấp nhận. 
Một số thông số trên siêu âm tim đánh dấu mô
Góc xoay cả mỏm tim (AR -độ) - là đỉnh 
dương lớn nhất trên đồ thị xoay của mỏm tim. Thời 
gian đạt đỉnh độ xoay(thời gian AR - ms) - là thời 
gian từ 0 giây cho đến đỉnh dương lớn nhất trên đồ 
thị xoay của mỏm tim. Vận tốc xoay của mỏm tim 
(ARV - độ/giây) - là đỉnh dương lớn nhất trên đồ 
thị vận tốc xoay của mỏm tim. Thời gian đạt đỉnh 
vận tốc xoay (thời gian ARV -ms) - là thời gian từ 0 
giây đến đỉnh dương lớn nhất.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014146
Hình1. Cách tính AR, thời gian AR, ARV, thời gian ARV
Góc xoay của nền tim (BR -độ)- là đỉnh âm nhỏ nhất trên đồ thị vận động xoay của nền tim. Thời 
gian đạt đỉnh độ xoay( Thời gian BR - ms)- là thời gian từ 0 giây đến đỉnh âm nhỏ nhất trên đồ thị xoay 
của nền tim. Vận tốc xoay của nền tim (BRV - độ/giây) - là đỉnh âm nhỏ nhất trên đồ thị vận tốc xoay 
của nền tim. Thời gian đạt đỉnh độ xoay (BRV - ms) - là thời gian từ 0 giây đến đỉnh âm nhỏ nhất trên 
đồ thị vận tốc xoay của nền tim
Hình2. Cách tính BR, thời gian BR, BRV, thời gian BRV
Độ xoắn (T) và vận tốc xoắn (TV) của thất trái 
được tính dựa trên độ xoắn và vận tốc xoay trung 
bình của nền tim và mỏm tim: Độ xoắn thất trái T 
(độ) = Góc xoay mỏm tim(AR) - góc xoay nền tim 
(BR). Vận động xoay ngược chiều kim đồng hồ có 
giá trị dương(+) và vận động cùng chiều kim đồng 
hồ có giá trị âm(-). Cách tính tương tự áp dụng 
cho vận tốc xoay của thất trái.
Phương pháp thống kê
Các số liệu nghiên cứu được xử lý theo các 
thuật toán thống kê y học bằng chương trình phần 
mềm EPIINFO 7.0 (CDC-WHO). Các biến 
được biểu diễn dưới dạng trung bình ± độ lệch 
chuẩn (Mean±SD), tính tỉ lệ phần trăm (%). So 
sánh số trung bình giữa hai nhóm bằng thuật toán 
Student T-test.So sánh hai tỷ lệ bằng thuật toán χ2, 
theo Fisher Exact test.Giá trị p < 0,05 được coi là 
có ý nghĩa thống kê.Tương quan tuyến tính giữa 
các thông số được xác định bằng phép tính phân 
tích hồi qui tuyến tính đơn biến thông qua hệ số 
tương quan Pearson.Tính hệ số tương quan r đối 
với 2 biến định lượng khi p < 0,05.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 147
Kết quả
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm Nhóm chứng (n=41) Suy tim (n=70) P
Tuổi 57,5±17,9 60,2±16,7 >0,05
Giới
Nam(%) 24(58,5%) 42(60%) >0,05
Nữ(%) 17(41,5%) 28(40%) >0,05
ĐTĐ 0 18(25,4%)
THA 0 31(44,2%)
Bệnh ĐMV 0 33(47,8%)
NYHA I 0 6(8%)
NYHA II 0 21(31%)
NYHA III 0 43(61%)
NYHA IV 0 0(0%)
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kể về tuổi, giớigiữa nhóm chứng và nhóm suy tim. Các 
nguyên nhân gây suy tim ở bệnh nhân suy tim chủ yếu là bệnh động mạch vành 47,8% , tiếp theo là 
bệnh tăng huyết áp với tỉ lệ 44,2% và đái tháo đường typ II chiếm 25,4%.Ở nhóm nghiên cứu, phần lớn 
bệnh nhân nằm ở nhóm NYHA III chiếm 61%, tiếp theo là nhóm NYHA II chiếm 31%, nhóm NYHA 
I chiếm tỉ lệ 8% và không có bệnh nhân nào ở nhóm NYHA IV.
Bảng 2. Đặc điểm siêu âm của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm Không suy tim(n=41) Suy tim(n=70) p
Dd 41,23±9,87 57,17±8,56 <0,001
Ds 28,78±6,43 48,32±9,08 <0,001
EDV 90,1±17,6 130,05±21,5 <0,05
ESV 30,1±8,3 87,06 <0,001
FS 37,19±11,2 16±8,4 <0,05
EF 65,8±9,5 34,2±5,4 <0,001
Các chỉ số về kích thước thất trái như Dd, Ds, EDV, ESV ở nhóm bệnh nhân suy tim đều tăng hơn ở 
nhóm chứng có ý nghĩa thống kê. Các chỉ số về chức năng thất trái như FS, EF ở nhóm suy tim đều giảm 
hơn so với nhóm bệnh có ý nghĩa thống kê với p<0,001 và <0,05.
Bảng 3. Đặc điểm vận động xoay của nền tim ở nhóm nghiên cứu
Đặc điểm
Không suy tim
(n=41)
Suy tim
(n=70)
P
BR (độ) -10,1±2,4 -3,8±2 <0,001
Thời gian BR (ms) 107,3±21,9 127,4±32,4 >0,05
BRV (độ/s) -41,5±8,5 -26,7±5,9 <0,05
Thời gian BRV (ms) 281,3±82,3 293,6±68,3 >0,05
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014148
Các chỉ sô vận động ở nền tim như đỉnh xoay (BR), tốc độ xoay đều giảm hơn ở nhóm suy tim so 
với nhóm không suy tim. Thời gian đạt đỉnh xoay, thời gian đạt đỉnh vận tốc xoay ở nền tim ở nhóm suy 
tim và nhóm không suy tim khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Bảng 4. Vận động xoay của mỏm tim ở nhóm nghiên cứu
Đặc điểm
Không suy tim
(n=41)
Suy tim
(n=70)
p
AR (độ) 21,8±6,4 4,1±1,5 <0,001
Thời gian AR (ms) 86,4±5,6 107,6±11,2 <0,05
ARV (độ/s) 75,5±25 46,3±19,4 <0,001
Thời gian ARV(ms) 312,4±74,3 405,3±59,3 <0,001
Đối với các chỉ số ở vận động ở mỏm như đỉnh xoay ở mỏm (AR), đỉnh vận tốc xoay ở nhóm suy 
tim giảm có ý nghĩa thống kê so với nhóm không suy tim. Thời gian đạt đỉnh xoay và đỉnh vận tốc xoay 
cao hơn ở nhóm suy tim tăng cao hơn ở nhóm suy tim có ý nghĩa thống kê.
Bảng 5. Vận động xoắn của thất trái ở nhóm nghiên cứu
Đặc điểm
Không suy tim
(n=41)
Suy tim
(n=70)
p
TV (độ/s) 58,3±14,3 31,5±11,7 <0,05
Thời gian TV (ms) 195,5±80,4 287±76,1 <0,001
 T (độ) 16,6±6,6 6,87±3,1 <0,001
 Thời gian T (ms) 222,5±51,1 315,8±32,7 <0,05
Đỉnh xoắn(T), thời gian đạt đỉnh xoắn (Thời gian T), vận tốc xoắn (TV) và thời gian đạt đỉnh vận 
tốc xoắn (Thời gian TV) đều giảm ở nhóm suy tim có ý nghĩa thống kê.
Bảng 6. Vận động xoắn ở bệnh nhân suy tim do ĐTĐ, THA và ĐMV
Đặc điểm
ĐTĐ(1)
(n=18)
THA(2)
(n=31)
ĐMV(3)
(n=33)
P1-2 P2-3 P1-3
 T(độ) 6,5±1,2 8,1±1,7 6,3±0,9 0,05
 Thời gian T (ms) 321,4±78,6 309±57,8 313,4±87,9 0,05 >0,05
TV(độ/s) 36,6±8,2 31,4±2,9 29,4±12,5 0,05 <0,05
Thời gian TV (ms) 276,4±48,6 269,4±65,4 289,2±74,5 >0,05 >0,05 >0,05
Vận động xoắn của thất trái ở bệnh nhân suy tim do bệnh động mạch vành và bệnh đái tháo đường 
giảm hơn so với nhóm bệnh nhân tăng huyết áp với p<0,05. Thời gian đạt định vận tốc xoắn ở nhóm suy 
tim do tăng huyết áp thấp hơn ở nhóm đái tháo đường có ý nghĩa thống kể với p<0,05. Vận tốc xoắn ở 
nhóm tăng huyết áp và có bệnh động mạch vành có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Thời gian đạt đỉnh vận 
tốc xoắn không có sự khác biệt giữa các nhóm trên.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 149
Bảng7. Vận xoắn của thất trái theo phân độ NYHA
Đặc điểm
NyHA i(1)
(n=6)
NyHA ii(2)
(n=21)
NyHA iii(3)
(n=43)
pI-II PII-III PI-III
TV(độ/s) 38,5±17,2 31,5±10,7 29,4±11,4 <0,01 <0,05 <0,05
Thời gian TV 
(ms)
267,5±81,5 278±66,4 291,3±75,9 <0,05 <0,05 <0,01
 T (độ) 7,66±2,6 4,43±1,9 3,42±1,2 0,05 <0,05
 Thời gian T 
(ms)
308,4±78,9 311,7±56,8 330,2±88,9 >0,05 <0,01 <0,05
Góc xoắn của thất trái giảm dần từ NYHA I và NYHA III, lớn nhất ở nhóm NYHA I và nhỏ nhất 
ở nhóm NYHA III, sự khác biệt giữa góc xoắn giữa nhóm NYHA II và III không có ý nghĩa thống kê 
với p>0,05. Thời gian đạt đỉnh xoắn ở nhóm NYHA III là lớn nhất và sự khác biệt này khá rõ ràng so 
với nhóm NYHA I và NYHA II. Vận tốc xoắn của nhóm NYHA III thấp nhất so với nhóm NYHA I và 
NYHA II, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05 và 0,01.
Bảng 8. Mối liên quan giữa độ xoắn của thất trái trên siêu âm với các chỉ số siêu âm tim khác
Thông số 
siêu âm
T Thời gian T TV Thời gian TV
r p r p r p r p
Dd -0,72 <0,001 -0,47 <0,001 -0,66 <0,001 -0,42 <0,01
Ds -0,21 >0,05 -0,32 0,05
EDV -0,18 >0,05 -0,25 >0,05 -0,23 >0,05 -0,01 >0,05
ESV -0,44 0,05 0,16 >0,05
SV 0,12 >0,05 0,23 >0,05 0,16 >0,05 0,08 >0,05
FS 0,32 0,05
EF 0,73 <0,001 0,48 <0,001 0,75 <0,001 0,42 <0,001
E 0,06 >0,05 0,08 >0,05 -0,12 >0,05 0,11 >0,05
Độ xoắn của thất trái có tương quan nghịch chặt với chỉ số đường kính thất trái cuối tâm trương Dd 
(r=-0,72; p<0,001), và thời gian đạt đỉnh độ xoắn có liên quan nghịch vừa với Dd (r=-0,47; p<0,001). 
Vận tốc xoắn, thời gian đạt đỉnh độ xoắn có tương quan nghịch vừa với chỉ sô Dd (r=-0,66; p<0,001 và 
r=-0,42; p<0,001). Độ xoắn, vận tốc xoắn của thất trái có tương quan thuận chặt với phân suất tống máu 
thất trái EF (r=0,73;p<0,001 và r=0,75;p<0,001). Thời gian đạt đỉnh độ xoắn và thời gian đạt đỉnh vận 
tốc xoắn có tương quan thuận vừa với chỉ số EF. Chỉ số co ngắn thất trái FS có tương quan thuận vừa với 
độ xoắn và vận tốc xoắn của thất trái. Độ xoắn và thời gian đạt đỉnh xoắn có tương quan nghịch vừa với 
thể tích thất trái cuối tâm thu với r=-0,44; p<0,01 và r=-0,34; p<0,01.
BÀN LUẬN 
Đặc điểm lâm sàng của nhóm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có độ tuổi trung bình là 60,2 ± 16,7, nam giới chiếm 60%, nữ 
giới chiếm 40%, các nguyên nhân gây suy tim ở đây chủ yếu là bệnh động mạch vành (47,8%), tăng 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014150
huyết áp (44,2%), đái tháo đường (25,4%). Như 
vây, đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân có 
tỉ lệ suy tim cao.
Vận động xoay và xoắn của thất trái ở bệnh 
nhân suy tim
 Trong nghiên cứu của chúng tôi, các chỉ số 
xoay ở nền tim đều giảm một cách rõ rệt so với 
nhóm chứng, độ xoay của nền tim (BR) ở nhóm 
bệnh là -3,8 độ, giảm rõ rệt so với nhóm chứng, với 
p<0,001, vận tốc xoay ở nền tim (BRV) ở nhóm 
bệnh là -26,7 giảm có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm chứng với p<0,05. Theo Fuchs và cộng sự 
[5] ở bệnh nhân suy tim thì góc xoắn trong thì tâm 
thu ở nền tim giảm còn 2,9o±2 so với nhóm chứng 
và giảm còn 0,7o±2 trong thì tâm trương. Tác giả 
còn theo dõi tiếp sự biến đổi của hiện tượng xoay 
của thất trái sau 6 tháng điều trị suy tim theo phác 
đồ chuẩn và nhận ra rằng các chỉ số trên cải thiện 
đáng kể, góc xoắn tăng lên là 4,1o trong thì tâm 
thu và tăng lên 2,4o trong thì tâm trương. Tác giả 
cho rằng đánh giá hiệu quả điều trị suy tim không 
chỉ dựa vào các chỉ số siêu âm đánh giá chức năng 
tống máu thất trái EF mà còn dựa vào đánh giá vận 
động xoay của thất trái.
Về chức năng xoay của mỏm tim, kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy góc xoay (AR) 
và vận tốc xoay (ARV) của nhóm suy tim đều giảm 
hơn so với nhóm chứng, AR ở nhóm suy tim là 
4,1o, ARV ở nhóm suy tim là 43,6 o/giây so với kết 
quả của nhóm chứng là 21,8 và 75,5, sự khác biệt 
là có ý nghĩa thống kê ở cả hai nhóm với p<0,001. 
Tiếp tục đối chiếu với nghiên cứu của Fuchs và 
cộng sự [5] cho thấy cả AR và ARV ở nhóm bệnh 
nhân suy tim đều giảm.
Vận động xoắn của thất trái được đánh giá 
bằng hiệu số giữa độ xoay ở mỏm tim và nền tim 
nên chỉ số này phụ thuộc vào cả hai giá trị AR và 
BR. Trong nghiên cứu của chúng tôi, giá trị độ 
xoắn của thất trái thu được là 6,87o và vận tốc 
xoắn là 31,5o/giây. Cả hai giá trị trên đều giảm có 
ý nghĩa thống kê so với các giá trị tương đương ở 
nhóm chứng. Trong một số nghiên cứu gần đây 
được tác giả Aaron và cộng sự[8] tóm tắt lại cho 
thấy tất cả các nghiên cứu về vận động xoắn ở bệnh 
nhân suy tim bằng siêu âm đánh dấu mô và chỉ 
ra rằng các chỉ số về vận động xoay ở mỏm tim 
và nền tim, vận động xoắn của thất trái đều giảm 
ở nhóm bệnh nhân suy tim theo nghiên cứu của 
Zhang và Bertini [3]. Fuchs thì cho kết quả là vận 
động xoay ở mỏm tim và nền tim giảm nhưng độ 
xoắn không thay đổi. Trong khi đó Russel và Wang 
[7] lại chứng minh rằng độ xoắn thất trái thay đổi 
nhưng độ xoay ở nền tim và mỏm tim không có sự 
thay đổi. Kết quả của chúng tôi khá tương đồng 
với hai tác giả Zhang và Berniti. 
Một số nghiên cứu về vận động xoắn của thất trái
Nghiên cứu Vận động xoay ở mỏm Vận động xoay ở nền Vận động xoắn
Zhang và cs 2008 Giảm Giảm Giảm
Bertini và cs 2009 Gỉảm Giảm Giảm
Fuchs và cs 2004 Giảm Giảm Giảm
Russel và cs 2009 Không thay đổi Không thay đổi Giảm
Wang và cs 2008 Không thay đổi Không thay đổi Giảm
Chúng tôi, 2013 Giảm Giảm Giảm
(Nguồn: BMC cardiovascular disorders 2012, 12:46)
Mức độ suy tim và vận động xoắn 
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhóm suy tim nặng hơn NYHA II và III, chỉ số BR giảm rõ, có ý 
nghĩa thống kê so với nhóm suy tim nhẹ hơn là NYHA I. Tương tự như vậy chỉ số BRV cũng giảm rõ ở 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 151
nhóm bệnh nhân có suy tim nặng hơn NYHA II 
và III. Sự khác biệt giữa nhóm NYHA II và NYHA 
III không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Các chỉ 
số khác đánh giá vận động xoay ở mỏm tim như 
AR, vận động xoắn của thất trái như T, TV đều 
cho kết quả tương tự. Chỉ duy nhất có chỉ sô vận 
tốc xoay ở mỏm tim không tương ứng với độ nặng 
của suy tim với thời gian. Kết quả nghiên cứu của 
tác giả Bertini và cộng sự [3] cũng cho kết quả 
tương đương.
Rối loạn vận động xoắn ở bệnh nhân suy tim 
do các nguyên nhân khác nhau
Kết quả của chúng tôi cho thấy góc xoắn T 
giảm nhiều nhất ở nhóm có bệnh động mạch vành 
và nhóm đái tháo đường type II với góc xoắn 6,3o 
ở nhóm có bệnh động mạch vành và 6,5o ở nhóm 
có đái tháo đường. Trong khi đó ở nhóm bệnh 
nhân tăng huyết áp và đái tháo đường thì vận tốc 
xoắn là những giá trị thấp nhất. Tuy nhiên trong 
nhóm bệnh nhân của chúng tôi có rất nhiều bệnh 
nhân có cả bệnh động mạch vành và tăng huyết áp 
hoặc đái tháo đường nên khó có thểphân biệt rõ 
ràng được bệnh nhân nào có đái tháo đường, tăng 
huyết áp hoặc bệnh động mạch vành.
Tương quan giữa chỉ số vận động xoắn trên 
siêu âm đánh dấu mô với một số chỉ số siêu âm 
tim 2D
Kết quả cho thấy chỉ số EF có tương quan chặt 
với T (r=0,73, p<0,001), Thời gian T (r=0,48, 
p<0,001), TV(r=0,75, p<0,001). Trong nghiên 
cứu của Jianwen Wang và cộng sự [7] cũng cho 
thấy độ xoắn của thất trái tương quan thuận chặt 
với EF(r=0,7, p<0,001). Ngoài ra tác giả còn đánh 
giá mối tương quan giữa độ xoắn với một số chỉ 
số khác như với EDV (r=-0,68, p<0,001) so với 
kết quả của chúng tôi là( r=-0,44, p<0,01). Chỉ số 
EF là thước đo chính đánh giá mức độ suy tim ở 
bệnh nhân suy tim mạn tính. Chỉ số này phụ thuộc 
vào nhiều yếu tố như tiền gánh, hậu gánh và khả 
năng co bóp của cơ tim.Nghiên cứu của Gibbons 
Kroeker và cộng sự [6] đánh giá tác động của các 
chỉ số tiền gánh, hậu gánh và sức co bóp của thất 
trái trên thực nghiệm ảnh hưởng như thế nào đến 
vận động xoay của mỏm tim. Tác giả chỉ đánh giá 
vận động xoay tại mỏm vì góc xoay tại mỏm tim có 
giá trị cao hơn ở nền tim rất nhiều, vì vậy góc quay 
ở mỏm tim gần như quyết định góc quay của thất 
trái. Chỉ số đường kính thất trái cuối tâm trương 
(Dd) có vai trò quan trọng trong đánh giá bệnh 
nhân suy tim. Bệnh nhân có thất trái càng giãn thì 
khả năng co bóp càng kém. Taber và cộng sự [9] 
nghiên cứu vận động xoắn ở 26 bệnh nhân suy tim 
do bệnh cơ tim thể giãn cho thấy các sợi cơ tim 
đã bị đảo lộn về trật tự giải phẫu kể cả số lượng và 
góc nên làm giảm khả năng xoắn của thất trái. Tác 
giả cho rằng khi buồng thất trái giãn thì vận động 
xoắn giảm. Hơn nữa khi thất trái giãn làm quá 
trình dẫn điện chậm trễ (QRS giãn rộng), kết quả 
là lớp cơ dưới thượng tâm mạc khử cực muộn sẽ 
làm nền tim quay theo chiều kim đồng hồ muộn 
hơn và giảm khả năng xoắn của thất trái. Kết quả 
của chúng tôi cho thấy đường kính thất trái cuối 
tâm trương Dd có tương quan nghịch chặt với 
thông số T (r=-0,75, p<0,001), với thông số TV 
(r=-0,66, p<0,001) với Thời gian T ( r=-0,47, 
p<0,001), Thời gian TV (r=-0,42, p<0,01) điều 
này hoàn toàn đồng thuận với các tác giả nói trên. 
KẾT LUẬN
 Qua nghiên cứu trên 70 bệnh nhân có suy tim 
và 41 người khỏe mạnh chúng tôi thấy vận động 
xoay ở nền tim, mỏm tim và vận động xoắn giảm ở 
nhóm bệnh nhân suy tim. Mức độ suy tim NYHA 
càng nặng thì góc xoay và xoắn càng giảm. Bệnh 
nhân có bệnh động mạch vành có độ xoắn giảm 
thấp hơn so với suy tim do bệnh đái tháo đường và 
tăng huyết áp. Chỉ số xoắn của thất trái tương quan 
thuận chặt với chỉ số EF và tương quan nghịch 
chặt với chỉ số Dd.
SuMMARy
In chronic heart failure patients, the ejection 
fraction index (EF) is clinically considered as 
the most important. However, it is believed that 
torsional parameters are not less important than 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014152
those in assessment of left ventricular function. 
Speckle tracking echocardiography is new method 
with high accuracy to assess the torsional motion 
of left ventricle which can be applied clinically.
Objective: Assessing the changes of left 
ventricular torsion and its relationship with 
the other 2D echocardiographic parameters in 
chronic systolic dysfunctionpatients.
Method: 41 healthy subjects and 70 
patients with left ventricular systolic dysfunction 
were included in the study. All patients were 
examined, surface ECG performed and online 
echocardiography recorded. After this, the 
recorded material is analyzed offline with 
ECHOPAC 112 software (GE, USA). 
Result: All the torsional parameters including 
AR, ARV,BR, BRV, T,TV decreased in heart 
failure groups in comparison with healthy group. 
Similarly, the time to peak torsional degree and 
velocity are longer in heart failure group compared 
with healthy. In the group of patients with heart 
failure due to previous MI, the decline of torsion 
degree is maximal (T=6,3 degree), and due to 
hypertension is minimal (T=8,1 degree). Patients 
with higher level of heart failure (NYHA) have 
more torsional decline. Torsion is well correlates 
with EF index (r=0,83; p<0,001) and inversely 
with Dd (r=-0,73; p<0,001).
Conclusion: Torsion is a pivotal parameter in 
assessment of left ventricle function and correlates 
well with ejection fraction index (EF) and 
inversely with left ventricular diastolic diameter 
(Dd).
TÀi Liệu THAM KHẢO
1. Phạm Tử Dương (2002), “Bệnh tăng huyết áp”, Bài giảng sau đại học, Cục quân y, tr. tr. 105-112.
2. American Diabetes Association (2010), “Diagnosis and Classification of Diabetes Mellitus”, Diabetes 
Care. 33(Supplement 1), tr. S62-S69.
3. Bertini M, Nucifora G, Marsan NA (2009), “Left ventricular rotational mechanics in acute myocardial 
infarction and in chronic heart failure patients”, J Am Coll Cardiol. 103, tr. 1506-12.
4. Clyde W. yancy, MD, MSc, FACC et al (2013), “2013 ACCF/AHA Guideline for the Management of 
Heart FailureA Report of the American College of Cardiology Foundation/American Heart Association 
Task Force on Practice Guidelines”, Circulation. 128, tr. 240-327.
5. Esther Fuchs, Markus F. Mu¨ ller, Helmut Oswald, Harriet Tho¨ny, Paul Mohacsi, Otto M. Hess 
(2004), “Cardiac rotation and relaxation in patients with chronic heart failure”, The European Journal of 
Heart Failure. 6, tr. 715-22.
6. Gibbons Kroeker CA, Tyberg JV, Beyar R (1995), “Effects of load manipulations, heart rate, and 
contractility on left ventricular apical rotation. An experimental study in anesthetized dogs.”, Circulation. 
92, tr. 130-141.
7. Jianwen Wang, Dirar S. Khoury, yong yue, Guillermo Torre-Amione, and và Nagueh, Sherif F. 
(2008), “Preserved left ventricular twist andcircumferential deformation, but depressedlongitudinal and 
radial deformation in patientswith diastolic heart failure”, European Heart Journal. 29, tr. 1283-1289.
8. Phillips, Aaron A (2012), “Heart Disease and left ventricular rotation - a systematic review and 
quantitative summary”, BMC cardiovascular disorders. 12(46).
9. Taber LA, yang M, Podszus WW (1996), “Mechanics of ventricular torsion”, J Biomech. 29, tr. 745-52.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_van_dong_xoan_cua_that_trai_bang_sieu_am_danh_dau_m.pdf