Đánh giá vai trò nội soi ổ bụng trong chẩn đoán và điều trị vết thương tạng rỗng
Mục tiêu: Xác định giá trị của nội soi ổ bụng chẩn đoán các tổn thương tạng rỗng trong vết thương thấu bụng.Đánh giá kết quả sớm điều trị các tổn thương tạng rỗng bằng phẫu thuật nội soi trong vết thương thấu bụng.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả trên tất cả bệnh nhân có vết thương thấu bụng nghi thủng tạng rỗng có sử dụng phẫu thuật nội soi ổ bụng để chẩn đoán và xử lý tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện đa khoa Sài Gòn từ 1/6/2015 đến tháng 31/5/2020. Kết quả: Tổng cộng có 76 trường hợp vết thương thấu bụng có thủng tạng rỗngđược chẩn đoán và phẫu thuật. Độ nhạy 96,3%; độ đặc hiệu 100%. 18 trường hợp tổn thương thành trước dạ dày đều được khâu qua nội soi. Một trường hợp âm tính giả là thương tổn thủng đại tràng góc lách do vết thương hông lưng kèm khối máu tụ to quanh thận khiến không quan sát được thương tổn đại tràng qua nội soi nhưng khi chuyển mổ mở thì phát hiện thương tổn này và xử trí kịp thời. Trường hợp thứ 2 là thương tổn thủng trực tràng thấp kèm thủng bàng quang. Khi mổ mở phải làm hậu môn nhân tạo đại tràng chậu hộng.
Kết luận: Nội soi ổ bụng là phương pháp chẩn đoán xâm lấn tối thiểu nhìn trực tiếp tổn thương. Nội soi ổ bụng đánh giá chính xác các tổn thương tạng nhất là các tổn thương bề mặt, tổn thương tạng rỗng, mạc treo là những loại tổn thương khó phát hiện trên lâm sàng cũng như chẩn đoán hình ảnh, là phương pháp chẩn đoán an toàn, hiệu quả. Phẫu thuật nội soi điều trị vết thương tạng rỗng là lựa chọn an toàn và kết quả tốt. Cần nghiên cứu với mẫu lớn và thời gian theo dõi dài để có đánh giá toàn diện
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá vai trò nội soi ổ bụng trong chẩn đoán và điều trị vết thương tạng rỗng
TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 496 - th¸ng 11 - sè 2 - 2020 1 ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ NỘI SOI Ổ BỤNG TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG TẠNG RỖNG Nguyễn Hoàng Linh1, Huỳnh Kim Khang2, Nguyễn Đức Vũ1, Dương Văn Hải2, Nguyễn Công Minh3 TÓM TẮT1 Mục tiêu: Xác định giá trị của nội soi ổ bụng chẩn đoán các tổn thương tạng rỗng trong vết thương thấu bụng.Đánh giá kết quả sớm điều trị các tổn thương tạng rỗng bằng phẫu thuật nội soi trong vết thương thấu bụng. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả trên tất cả bệnh nhân có vết thương thấu bụng nghi thủng tạng rỗng có sử dụng phẫu thuật nội soi ổ bụng để chẩn đoán và xử lý tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện đa khoa Sài Gòn từ 1/6/2015 đến tháng 31/5/2020. Kết quả: Tổng cộng có 76 trường hợp vết thương thấu bụng có thủng tạng rỗngđược chẩn đoán và phẫu thuật. Độ nhạy 96,3%; độ đặc hiệu 100%. 18 trường hợp tổn thương thành trước dạ dày đều được khâu qua nội soi. Một trường hợp âm tính giả là thương tổn thủng đại tràng góc lách do vết thương hông lưng kèm khối máu tụ to quanh thận khiến không quan sát được thương tổn đại tràng qua nội soi nhưng khi chuyển mổ mở thì phát hiện thương tổn này và xử trí kịp thời. Trường hợp thứ 2 là thương tổn thủng trực tràng thấp kèm thủng bàng quang. Khi mổ mở phải làm hậu môn nhân tạo đại tràng chậu hộng. Kết luận: Nội soi ổ bụng là phương pháp chẩn đoán xâm lấn tối thiểu nhìn trực tiếp tổn thương. Nội soi ổ bụng đánh giá chính xác các tổn thương tạng nhất là các tổn thương bề mặt, tổn thương tạng rỗng, mạc treo là những loại tổn thương khó phát hiện trên lâm sàng cũng như chẩn đoán hình ảnh, là phương pháp chẩn đoán an toàn, hiệu quả. Phẫu thuật nội soi điều trị vết thương tạng rỗng là lựa chọn an toàn và kết quả tốt. Cần nghiên cứu với mẫu lớn và thời gian theo dõi dài để có đánh giá toàn diện. Từ khóa: Phẫu thuật nội soi, tạng rỗng. SUMMARY EVALUATION THE ROLE OF LAPAROSCOPIC IN DIAGNOSTIC AND TREATMENT OF HOLOW VISCUS PERFORATION WOUNDS Objectives: Determine the value of laparoscopic to diagnose hollow organ lesions in abdominal wounds. Evaluate early results of treatment of hollow organ lesions with laparoscopy in abdominal wounds. Methods:Prospective study describes all patients with perforation suspected hollow viscera using abdominal laparoscopy to diagnose and treat at the General 1Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn TP.HCM 2Đại học Y Dược TP.HCM 3Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Hoàng Linh- Email: [email protected] Ngày nhận bài: 1/10/2020 Ngày phản biện khoa học: 19/10/2020 Ngày duyệt bài: 1/11/2020 Surgery Department of Saigon General Hospital from June 1, 2015 to May 31, 2020. Results: A total of 76 cases of perforated abdominal wounds with perforation were diagnosed and operated. Sensitivity 96.3%; 100% specificity. 18 cases of damage to the anterior stomach wall were all stitched through endoscopy. A false negative case is a perforation of the splenic colon due to a hip injury with a large hematoma around the kidney that makes colon damage not visible through the endoscopy, but when the surgery is open, this damage is found and timely treatment. The second case is low rectal perforation with bladder perforation. When opening surgery, it is necessary to do an artificial rectal pelvic cavity. Conclusion: Laparoscopy is the Minimally invasive method of direct examination of the lesion. The laparoscopy accurately evaluates visceral lesions, especially surface lesions, hollow viscera, mesenteric lesions are difficult to detect clinically as well as diagnostic images and is a safe and effective diagnostic method. Laparoscopic surgery for empty organ wounds is a safe option with good results. Study with large samples and long follow-up period is needed for a comprehensive evaluation. Key words: Laparoscopic, holow viscus. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Vết thương thấu bụng (VTTB) là cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Tỷ lệ tử vong cao nếu các thương tổn không được chẩn đoán và xử trí kịp thời. Điều trị VTTB tuy có nhiều phương pháp nhưng không phải tất cả trường hợp tổn thương tạng đặc do chấn thương hay vết thương thủng phúc mạc đều cần phẫu thuật. Trong khi nếu chậm trễ ở những trường hợp tổn thương tạng rỗng có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân [3]. Trong chấn thương và vết thương bụng, mặc dù có nhiều phương pháp chẩn đoán khác nhau được sử dụng như chọc rửa ổ bụng, siêu âm bụng, Xquang bụng-ngực, chụp điện toán cắt lớp; việc đánh giá sự hiện diện và độ nặng của các sang thương trong ổ bụng vẫn khó khăn [4]. Mở bụng thám sát là phương pháp an toàn và rõ ràng để xác định, đánh giá. Tuy nhiên, tỉ lệ tai biến, biến chứng có thể cao đến 40%, bao gồm 20% biến chứng sớm do phẫu thuật, 0 - 5% tử vong và 3% nguy cơ tắc ruột non sau này. Trước đây, theo Ponsky JL, Marks GM nghiên cứu khả năng phát hiện tổn thương ruột bằng nội soi ổ bụng (NSOB), kết quả hơn 20% tổn thương bị bỏ sót. Nghiên cứu này đã chứng minh phẫu thuật nội soi ổ bụng có hiệu quả để đánh giá thương tổn tạng rỗng của vết thương và chấn thương bụng hay không. Thành công của phẫu thuật nội soi ổ bụng giúp giảm vietnam medical journal n02 - NOVEMBER - 2020 2 tỉ lệ mở bụng trắng từ 23 – 54% số bệnh nhân. Ivatury và cs khảo sát khả năng phẫu thuật nội soi ổ bụng để điều trị các vết thương bụng có quỹ đạo không rõ ràng, chỉ 30 – 40% các vết thương bụng cần phẫu thuật điều trị. Phẫu thuật nội soi (PTNS) giúp can thiệp sớm và giảm tỉ lệ bỏ sót thương tổn trong ổ bụng [2]. Những thập niên gần đây, NSOB và PTNS ứng dụng chẩn đoán và điều trị VTTB, nhất là trong trường hợp nghi ngờ thương tổn tạng rỗng đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước khác nhau trên thế giới và đã chứng minh là phương pháp có nhiều tính ưu việt. NSOB hoặc PTNS giúp chẩn đoán chính xác thương tổn các tạng trong ổ bụng và thực hiện xử trí tổn thương tương đối dễ dàng, nhất là những vị trí chật hẹp nằm sâu trong ổ bụng, làm tăng tính an toàn cho cuộc mổ, giảm mất máu, giảm đau, giúp người bệnh sớm phục hồi chức năng của ống tiêu hóa sau mổ, hạn chế các biến chứng hô hấp, tiết niệu do nằm lâu, tiết kiệm được kháng sinh và thuốc giảm đau sau mổ, hạ thấp thời gian nằm viện [7]. Ở nước ta, việc ứng dụng NSOB và PTNS vào chẩn đoán và điều trị VTTB đã được áp ứng dụng từ những năm 90 của thế kỷ trước [5]. Đã có một số nghiên cứu đánh giá khả năng chẩn đoán và can thiệp của NSOB trong VTTB. Tuy nhiên để điều trị thực thụ tổn thương các tạng trong ổ bụng bằng PTNS vẫn còn là vấn đề được nhiều phẫu thuật viên quan tâm. Chúng tôi thực hiện đề tài này với 2 mục tiêu: 1. Xác định giá trị của NSOB chẩn đoán các tổn thương tạng rỗng trong VTTB. 2. Đánh giá kết quả sớm điều trị các tổn thương tạng rỗng bằng PTNS trong VTTB. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu mô tả. 2. Đối tượng nghiên cứu:Tất cả bệnh nhân (BN) có vết thương thấu bụng nghi thủng tạng rỗng có sử dụng PTNS ổ bụng để chẩn đoán và xử lý tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện đa khoa Sài Gòn. 3. Thời gian nghiên cứu: Từ 1/6/2015 – 31/5/2020. 4. Cỡ mẫu và chọn mẫu: Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. 5. Tiêu chuẩn chọn mẫu 5.1. Tiêu chuẩn chọn vào. Bệnh nhân bị vết thương do hỏa khí hay bạch khí có đường vào của vật gây thương tích nghi thủng tạng rỗng. Tình trạng huyết động ổn định hoặc giao động nhưng ổn định ngay sau hồi sức ban đầu. Được PTNS để chẩn đoán và xử trí thủng tạng rỗng. 5.2. Tiêu chuẩn loại ra. Huyết động không ổn định sau hồi sức ban đầu Chống chỉ định PTNS Chấn thương sọ não nặng, hôn mê. 6. Phương pháp tiến hành. Với các vết thương thấu bụng (VTTB) được đóng vết thương trước khi bơm hơi ổ bụng và PTNS. Nếu không có dấu hiệu tổn thương tạng, làm sạch vết thương và không cần mở bụng. Bơm hơi ổ bụng bằng CO2 qua lỗ trocart dưới rốn, vào bụng bằng kỹ thuật Hasson, quan sát ổ bụng bằng kính soi 30o. Hai trocart 5 - 10mm đưa vào ở ngang rốn, bờ ngoài cơ thẳng bụng. Áp lực bơm hơi ổ bụng điều chỉnh dưới 15mmHg. Sau khi khảo sát khoang bụng cẩn thận, hút sạch máu, dịch tiêu hóa, đánh giá các thương tổn thấy được. Nếu cần, trocart phụ được thêm vào, phụ thuộc vị trí thương tổn. Chuyển mở bụng khi thám sát ổ bụng không hoàn toàn đầy đủ, thương tổn quá lớn, quá khả năng phẫu thuật nội soi. Những trường hợp đang chảy máu phải được kiểm soát đầu tiên bằng đốt điện, kẹp clip, cột – khâu cột Để đánh giá ruột non và đại tràng, dùng kẹp ruột không gây sang chấn, kiểm tra ruột qua trocart hai bên thành bụng; kiểm tra ruột non bắt đầu từ góc hồi manh tràng, tiến về phía trên đến góc Treitz mỗi 4-8 cm cho đến hết chiều dài ruột. Các tổn thương ruột non và mạc treo được xử trí bằng khâu đơn giản bằng vicryl 3.0. Trong vỡ cơ hoành, ngay khi đặt trocar rốn và bơm hơi dưới áp lực thấp (5mmHg), đặt thêm 1 trocar 10mm không có van ở gian sườn 5 trung đòn của bên lồng ngực bị tổn thương, một trocar 5mm ở thượng vị bên trái dây chằng liềm và 1 trocar 10mm ở hông trái; khâu cơ hoành qua nội soi bằng chỉ Prolene 1.0 mũi chữ U hoặc khâu liên tục. Kiểm tra các tạng trong bụng. Nếu có vỡ tạng rỗng, tiếp tục soi lồng ngực kiểm tra, đặt thêm 2 trocar 5mm và 10mm tưới rửa khoang màng phổi, đặt dẫn lưu khoang màng phổi qua lỗ trocar 10mm ở gian sườn 5 trung đòn. Hậu phẫu ghi nhận sinh hiệu, vết mổ, ổ bụng, ngày trung tiện, thời gian nằm viện. Làm thêm các xét nghiệm sinh hoá, chẩn đoán hình ảnh, truy tìm các biến chứng hậu phẫu cũng như tình trạng bỏ sót thương tổn. 7. Tiêu chuẩn vàng để so sánh nghiên cứu Nhóm bệnh nhân mổ mở: Kết quả tổn thương các tạng được khẳng định lại khi chuyển sang mổ mở vì một lý do nào đó như quá khả năng can thiệp qua nội soi hay mở bụng nhỏ xử lý thương tổn. TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 496 - th¸ng 11 - sè 2 - 2020 3 Nhóm bệnh nhân theo dõi không mổ: Kết quả còn được khẳng định qua theo dõi hậu phẫu trong những trường hợp không chuyển sang mổ mở, được xem là không có tổn thương tạng khi diễn tiến lâm sàng hậu phẫu không xuất hiện các triệu chứng của hội chứng viêm phúc mạc, xuất huyết nội, áp xe tồn lưu hay rò tiêu hóa. 8. Vấn đề y đức. Được sự đồng thuận của người bệnh và người nhà trong việc tham gia nghiên cứu. Tất cả thông tin về vấn đề sức khỏe và thông tin cá nhân của người bệnh sẽ được bảo mật. Nghiên cứu đã thông qua Hội đồng đạo đức Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP Hồ Chí Minh III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN Tổng cộng có 76 trường hợp vết thương thấu bụng có thủng tạng rỗngđược chẩn đoán và phẫu thuật tại Bệnh Viện đa Khoa Sài Gòn từ 1/6/2015 đến 31/5/2020 1. Giá trị chẩn đoán của NSOB: Bảng 1. Thương tổn tạng rỗng Kết quả NSOB Có tổn thương Không có tổn thương Tổng Có tổn thương 52 0 52 Không có tổn thương 2 22 24 Tổng 54 22 76 - Độ nhạy 96,3%; độ đặc hiệu 100%; dương tính giả 0%; âm tính giả 8,3%. Nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng về độ nhạy và độ đặc hiệu so với các tác giả trong nước [4][5]. Tuy nhiên một số nghiện cứu của các tác giả nước ngoài thì độ nhạy và độ chuyên chẩn đoán thương tổn tạng rỗng thay đổi 80-85% [9]. Khi có tổn thương tạng rỗng thường có dịch đục, dịch tiêu hóa muộn hơn thì có giả mạc trong ổ bụng cho nên có thể định hướng có tổn thương tạng rỗng nhờ quan sát dịch ổ bụng. Những tổn thương độ I, II (rách thanh cơ, tụ máu) thì dịch ổ bụng cũng chỉ có lợn cợn máu cho nên cần phải kiểm tra toàn bộ chiều dài ống tiêu hóa trong ổ bụng tránh bỏ sót tổn thương. Một trường hợp âm tính giả là thương tổn thủng đại tràng góc lách do vết thương hông lưng kèm khối máu tụ to quanh thận khiến không quan sát được thương tổn đại tràng qua nội soi nhưng khi chuyển mổ mở thì phát hiện thương tổn này và xử trí kịp thời. Trường hợp thứ 2 là thương tổn thủng trực tràng thấp kèm thủng bàng quang. Khi mổ mở phải làm hậu môn nhân tạo đại tràng chậu hộng. Nhiều tác giả chỉ ra rằng NSOB dễ bỏ sót tổn thương đặc biệt trong VTTB. Hầu như các nghiên cứu đều gộp cả bệnh nhân bị CTBK và VTTB. Tổn thương do VTTB dễ bỏ sót hơn khi tổn thương nhỏ trên nền tổ chức bình thường khác với tổn thương do CTBK luôn trên nền tổ chức bị đụng giập phù nề [6]. Nếu NSOB để sàng lọc có tổn thương hay không cho thấy đạt độ chính xác gần như tuyệt đối với độ nhạy, độ đặc hiệu 100%, còn nếu sủ dụng NSOB như công cụ chẩn đoán (đánh giá hết tổn thương) thì có nhiều tranh cãi, kết quả rất khác nhau [8]. Bảng 2. Thương tổn các cơ quan Số ca Tỉ lệ(%) Dạ dày 21 40.4 Ruột non 19 36.5 Đại tràng 6 11.5 Bàng quang 5 9.6 Túi mật 1 1.9 2. Giá trị điều trị PTNS trong thương tổn tạng rỗng Dạ dày: có 18 trường hợp tổn thương thành trước dạ dày đều được khâu qua nội soi. Tùy vết thủng to hay nhỏ có thể khâu mũi rời hoặc khâu vắt. Chúng tôi sử dụng chì Vicryl 3-0 khâu 2 lớp. Các trường hợp này đều mở hậu cung mạc nối quan sát mặt sau dạ dày và tụy. Nhờ vậy chúng tôi không bỏ sót 3 trường hợp thủng mặt sau dạ dày. Sau khâu dạ dày cần đặt và lưu sonde dạ dày đến khi bệnh nhân có lưu thông tiêu hóa trở lại. Ruột non: trong số 19 trường hợp thủng ruột non có 12 trường hợp thủng lổ nhỏ chúng tôi khâu bằng chỉ tiêu 3-0 mũi rời; 4 trường hợp có nhiều lổ thủng xuyên qua đoạn ruột ngắn chúng tôi cắt và khâu nối bằng Stapler nội soi trong ổ bụng. Trong 3 trường hợp còn lại do vết rách phức tạp, rách thanh mạc rộng chúng tôi mở 1 lổ nhỏ đủ đưa đoạn ruột ra xử trí ngoài thành bụng. Theo các tác giả Choi Y.B. đã khâu ruột non cho 15 bệnh nhân và cắt nối ruột bằng nội soi có hỗ trợ cho 19 BN không xì bục chổ khâu và các BN đều ổn định ra viện [8], Streck và cộng sự khâu thủng ruột non độ II qua nội soi đơn thuần cho 8 BN và khâu cắt đoạn ruột cho 6 BN nhờ nội soi có hỗ trợ khi vỡ ruột từ độ III trở lên, kết quả sớm và muộn đều tốt. Đại tràng: 4 trường hợp đại tràng bị rách thanh mạc chúng tôi xử trí bằng nội soi đơn thuần (66,7%). 2 trường hợp còn lại được xử trí bằng nội soi hỗ trợ. Chúng tôi khâu tạm chỗ thủng tránh bẩn thêm ổ bụng và đánh dấu, hút rửa sạch ổ bụng. Sau đó giải phóng di động đoạn đại tràng có tổn thương, mở thành bụng vị trí gần tổn thương nhất và đưa chỗ thủng ra ngoài ổ bụng. Khâu lại chỗ thủng, biệt lập với ổ vietnam medical journal n02 - NOVEMBER - 2020 4 bụng, sau mổ luôn giữ ấm phần đại tràng đưa ra ngoài. Nếu chỗ khâu không liền bị xì thì coi đó như hậu môn nhân tạo sẽ đóng lại sau. Nghiên cứu 2 trường hợp hậu môn nhân tạo được đóng sau 3 tháng. Nếu chỗ khâu liền không xì sau 1 tuần có thể đưa vào ổ bụng bằng PTNS. Nếu vị trí tổn thương khó đưa ra ngoài (trực tràng, đại tràng góc lách) thì khâu vết thương qua nội soi hoặc nội soi có hỗ trợ rồi đưa đoạn đại tràng di động gần nhất phía trên làm hậu môn nhân tạo. Trường hợp sót thương tổn trực tràng thấp kèm tổn thương bàng quang trong giai đoạn đầu nghiên cứu khi chúng tôi chưa có nhiều kinh nghiệm được mổ mở và làm hậu môn nhân tạo đại tràng chậu hông. Lim và cộng sự gặp 5 chấn thương đại tràng trái phải thực hiện phẫu thuật Hartman, các tác giả thực hiện qua nội soi 4 trường hợp, chỉ 1 trường hợp dùng nội soi hỗ trợ. Bàng quang: thủng bàng quang trong phúc mạc thì việc khâu lại vết thủng thực hiện qua nội soi có nhiều thuận lợi khi ở tư thế đầu dốc là có thể bộc lộ vùng mổ dễ dàng, bàng quang được cố định tại chỗ, thành bàng quang dày chắc, bàng quang rộng rãi. Qua nội soi có thể khâu chỗ thủng 2 lớp vắt bằng chỉ tiêu 3-0. Sau khâu không cần dẫn lưu bàng quang mà chỉ cần lưu sonde tiểu 5-7 ngày. Trong nghiên cứu chúng tôi cả 5 trường hợp thủng bàng quang được khâu qua nội soi thuận lợi kết quả tốt. Túi mật: 1 trường hợp thủng túi mật chúng tôi cắt túi mật nội soi. Vết thương thủng dạ dày và ruột non Vết thương thủng đại tràng V. KẾT LUẬN NSOB là phương pháp chẩn đoán xâm lấn tối thiểu nhìn trực tiếp tổn thương. NSOB đánh giá chính xác các tổn thương tạng nhất là các tổn thương bề mặt, tổn thương tạng rỗng, mạc treo là những loại tổn thương khó phát hiện trên lâm sàng cũng như chẩn đoán hình ảnh. NSOB là phương pháp chẩn đoán an toàn, hiệu quả. Phẫu thuật nội soi điều trị vết thương tạng rỗng là lựa chọn an toàn và kết quả tốt. Cần nghiên cứu với mẫu lớn và thời gian theo dõi dài để có đánh giá toàn diện. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chestovich P., BrowderT., Morrissey S., el al. (2015), “Minimally invasive is maximally effective: Diagnostic and therapeutic laparoscopy for penetrating abdominal injuries”, J Trauma Acute Care Surg 78(6), pp. 1076-1085. 2. Chiu W.C., “Shanmuganathan K., Mirvis S.E., Scalea T.M. (2001), “Determining the need for laparotomy in penetrating torso trauma”, J Trauma Nov., 51 (1), pp. 860-868. 3. Trần Bình Giang, (2013), “ Phẫu thuật nội soi chẩn đoán và điều trị vỡ tạng rỗng do chấn thương bụng kín” Tạp chí phẫu thuật nội soi và nội soi Việt Nam, số 1 (tập 3), tr 5-10.10 4. Lê Tư Hoàng (2009) Nghiên cứu ứng dụng nội soi ổ bụng trong chẩn đoán và điều trị chấn thương bụng kín, Luận án Tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội. 5. Nguyễn Phước Hưng (2013) “Vai trò của nội soi ổ bụng trong chấn thương và vết thương bụng: kinh nghiệm sau 10 năm” Y Học TP.Hồ Chí Minh.Tập 17, tr 316 – 327 6. Kervlic J., Reilly G., Gocentas R., (2015), “Management of haemodynamically stable patientswith penetrating abdominal stab injuries: review of practice at an Australian major trauma centre”Eur J Trauma Emerg Surg, Dec 7. Lê Viết Khánh (2017) Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi chẩn đoán và điều trị các tổn thương tạng rỗng trong chấn thương bụng kín, Luận án Tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội. 8. Koto M.,Matsevych O., (2019), “Laparoscopic management of retroperitoneal injuries from penetrating abdominal trauma in haemodynamic allystable patients”, Journalof Minimal AccessSurgery, Jan-Mar 15 (1), pp. 25-30.
File đính kèm:
danh_gia_vai_tro_noi_soi_o_bung_trong_chan_doan_va_dieu_tri.pdf

