Đánh giá vai trò nội soi ổ bụng trong chẩn đoán và điều trị vết thương tạng rỗng

Mục tiêu: Xác định giá trị của nội soi ổ bụng chẩn đoán các tổn thương tạng rỗng trong vết thương thấu bụng.Đánh giá kết quả sớm điều trị các tổn thương tạng rỗng bằng phẫu thuật nội soi trong vết thương thấu bụng.

Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả trên tất cả bệnh nhân có vết thương thấu bụng nghi thủng tạng rỗng có sử dụng phẫu thuật nội soi ổ bụng để chẩn đoán và xử lý tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện đa khoa Sài Gòn từ 1/6/2015 đến tháng 31/5/2020. Kết quả: Tổng cộng có 76 trường hợp vết thương thấu bụng có thủng tạng rỗngđược chẩn đoán và phẫu thuật. Độ nhạy 96,3%; độ đặc hiệu 100%. 18 trường hợp tổn thương thành trước dạ dày đều được khâu qua nội soi. Một trường hợp âm tính giả là thương tổn thủng đại tràng góc lách do vết thương hông lưng kèm khối máu tụ to quanh thận khiến không quan sát được thương tổn đại tràng qua nội soi nhưng khi chuyển mổ mở thì phát hiện thương tổn này và xử trí kịp thời. Trường hợp thứ 2 là thương tổn thủng trực tràng thấp kèm thủng bàng quang. Khi mổ mở phải làm hậu môn nhân tạo đại tràng chậu hộng.

Kết luận: Nội soi ổ bụng là phương pháp chẩn đoán xâm lấn tối thiểu nhìn trực tiếp tổn thương. Nội soi ổ bụng đánh giá chính xác các tổn thương tạng nhất là các tổn thương bề mặt, tổn thương tạng rỗng, mạc treo là những loại tổn thương khó phát hiện trên lâm sàng cũng như chẩn đoán hình ảnh, là phương pháp chẩn đoán an toàn, hiệu quả. Phẫu thuật nội soi điều trị vết thương tạng rỗng là lựa chọn an toàn và kết quả tốt. Cần nghiên cứu với mẫu lớn và thời gian theo dõi dài để có đánh giá toàn diện

pdf 4 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá vai trò nội soi ổ bụng trong chẩn đoán và điều trị vết thương tạng rỗng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá vai trò nội soi ổ bụng trong chẩn đoán và điều trị vết thương tạng rỗng

Đánh giá vai trò nội soi ổ bụng trong chẩn đoán và điều trị vết thương tạng rỗng
TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 496 - th¸ng 11 - sè 2 - 2020 
1 
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ NỘI SOI Ổ BỤNG TRONG CHẨN ĐOÁN 
VÀ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG TẠNG RỖNG 
Nguyễn Hoàng Linh1, Huỳnh Kim Khang2, Nguyễn Đức Vũ1, 
Dương Văn Hải2, Nguyễn Công Minh3 
TÓM TẮT1 
Mục tiêu: Xác định giá trị của nội soi ổ bụng chẩn 
đoán các tổn thương tạng rỗng trong vết thương thấu 
bụng.Đánh giá kết quả sớm điều trị các tổn thương 
tạng rỗng bằng phẫu thuật nội soi trong vết thương 
thấu bụng. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô 
tả trên tất cả bệnh nhân có vết thương thấu bụng 
nghi thủng tạng rỗng có sử dụng phẫu thuật nội soi ổ 
bụng để chẩn đoán và xử lý tại khoa Ngoại Tổng hợp 
bệnh viện đa khoa Sài Gòn từ 1/6/2015 đến tháng 
31/5/2020. Kết quả: Tổng cộng có 76 trường hợp vết 
thương thấu bụng có thủng tạng rỗngđược chẩn đoán 
và phẫu thuật. Độ nhạy 96,3%; độ đặc hiệu 100%. 18 
trường hợp tổn thương thành trước dạ dày đều được 
khâu qua nội soi. Một trường hợp âm tính giả là 
thương tổn thủng đại tràng góc lách do vết thương 
hông lưng kèm khối máu tụ to quanh thận khiến 
không quan sát được thương tổn đại tràng qua nội soi 
nhưng khi chuyển mổ mở thì phát hiện thương tổn 
này và xử trí kịp thời. Trường hợp thứ 2 là thương tổn 
thủng trực tràng thấp kèm thủng bàng quang. Khi mổ 
mở phải làm hậu môn nhân tạo đại tràng chậu hộng. 
Kết luận: Nội soi ổ bụng là phương pháp chẩn đoán 
xâm lấn tối thiểu nhìn trực tiếp tổn thương. Nội soi ổ 
bụng đánh giá chính xác các tổn thương tạng nhất là 
các tổn thương bề mặt, tổn thương tạng rỗng, mạc 
treo là những loại tổn thương khó phát hiện trên lâm 
sàng cũng như chẩn đoán hình ảnh, là phương pháp 
chẩn đoán an toàn, hiệu quả. Phẫu thuật nội soi điều 
trị vết thương tạng rỗng là lựa chọn an toàn và kết 
quả tốt. Cần nghiên cứu với mẫu lớn và thời gian theo 
dõi dài để có đánh giá toàn diện. 
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi, tạng rỗng. 
SUMMARY 
EVALUATION THE ROLE OF LAPAROSCOPIC 
IN DIAGNOSTIC AND TREATMENT OF 
HOLOW VISCUS PERFORATION WOUNDS 
Objectives: Determine the value of laparoscopic 
to diagnose hollow organ lesions in abdominal 
wounds. Evaluate early results of treatment of hollow 
organ lesions with laparoscopy in abdominal wounds. 
Methods:Prospective study describes all patients with 
perforation suspected hollow viscera using abdominal 
laparoscopy to diagnose and treat at the General 
1Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn TP.HCM 
2Đại học Y Dược TP.HCM 
3Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Hoàng Linh- 
Email: [email protected] 
Ngày nhận bài: 1/10/2020 
Ngày phản biện khoa học: 19/10/2020 
Ngày duyệt bài: 1/11/2020 
Surgery Department of Saigon General Hospital from 
June 1, 2015 to May 31, 2020. Results: A total of 76 
cases of perforated abdominal wounds with 
perforation were diagnosed and operated. Sensitivity 
96.3%; 100% specificity. 18 cases of damage to the 
anterior stomach wall were all stitched through 
endoscopy. A false negative case is a perforation of 
the splenic colon due to a hip injury with a large 
hematoma around the kidney that makes colon 
damage not visible through the endoscopy, but when 
the surgery is open, this damage is found and timely 
treatment. The second case is low rectal perforation 
with bladder perforation. When opening surgery, it is 
necessary to do an artificial rectal pelvic cavity. 
Conclusion: Laparoscopy is the Minimally invasive 
method of direct examination of the lesion. The 
laparoscopy accurately evaluates visceral lesions, 
especially surface lesions, hollow viscera, mesenteric 
lesions are difficult to detect clinically as well as 
diagnostic images and is a safe and effective 
diagnostic method. Laparoscopic surgery for empty 
organ wounds is a safe option with good results. 
Study with large samples and long follow-up period is 
needed for a comprehensive evaluation. 
Key words: Laparoscopic, holow viscus. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vết thương thấu bụng (VTTB) là cấp cứu ngoại 
khoa thường gặp. Tỷ lệ tử vong cao nếu các thương 
tổn không được chẩn đoán và xử trí kịp thời. Điều trị 
VTTB tuy có nhiều phương pháp nhưng không phải tất 
cả trường hợp tổn thương tạng đặc do chấn thương 
hay vết thương thủng phúc mạc đều cần phẫu thuật. 
Trong khi nếu chậm trễ ở những trường hợp tổn 
thương tạng rỗng có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân 
[3]. Trong chấn thương và vết thương bụng, mặc dù 
có nhiều phương pháp chẩn đoán khác nhau được sử 
dụng như chọc rửa ổ bụng, siêu âm bụng, Xquang 
bụng-ngực, chụp điện toán cắt lớp; việc đánh giá sự 
hiện diện và độ nặng của các sang thương trong ổ 
bụng vẫn khó khăn [4]. Mở bụng thám sát là phương 
pháp an toàn và rõ ràng để xác định, đánh giá. Tuy 
nhiên, tỉ lệ tai biến, biến chứng có thể cao đến 40%, 
bao gồm 20% biến chứng sớm do phẫu thuật, 0 - 5% 
tử vong và 3% nguy cơ tắc ruột non sau này. Trước 
đây, theo Ponsky JL, Marks GM nghiên cứu khả năng 
phát hiện tổn thương ruột bằng nội soi ổ bụng 
(NSOB), kết quả hơn 20% tổn thương bị bỏ sót. 
Nghiên cứu này đã chứng minh phẫu thuật nội soi ổ 
bụng có hiệu quả để đánh giá thương tổn tạng rỗng 
của vết thương và chấn thương bụng hay không. 
Thành công của phẫu thuật nội soi ổ bụng giúp giảm 
vietnam medical journal n02 - NOVEMBER - 2020 
2 
tỉ lệ mở bụng trắng từ 23 – 54% số bệnh nhân. 
Ivatury và cs khảo sát khả năng phẫu thuật nội soi ổ 
bụng để điều trị các vết thương bụng có quỹ đạo 
không rõ ràng, chỉ 30 – 40% các vết thương bụng cần 
phẫu thuật điều trị. Phẫu thuật nội soi (PTNS) giúp 
can thiệp sớm và giảm tỉ lệ bỏ sót thương tổn trong ổ 
bụng [2]. 
Những thập niên gần đây, NSOB và PTNS ứng 
dụng chẩn đoán và điều trị VTTB, nhất là trong trường 
hợp nghi ngờ thương tổn tạng rỗng đã được áp dụng 
rộng rãi ở nhiều nước khác nhau trên thế giới và đã 
chứng minh là phương pháp có nhiều tính ưu việt. 
NSOB hoặc PTNS giúp chẩn đoán chính xác thương 
tổn các tạng trong ổ bụng và thực hiện xử trí tổn 
thương tương đối dễ dàng, nhất là những vị trí chật 
hẹp nằm sâu trong ổ bụng, làm tăng tính an toàn cho 
cuộc mổ, giảm mất máu, giảm đau, giúp người bệnh 
sớm phục hồi chức năng của ống tiêu hóa sau mổ, 
hạn chế các biến chứng hô hấp, tiết niệu do nằm lâu, 
tiết kiệm được kháng sinh và thuốc giảm đau sau mổ, 
hạ thấp thời gian nằm viện [7]. 
Ở nước ta, việc ứng dụng NSOB và PTNS vào chẩn 
đoán và điều trị VTTB đã được áp ứng dụng từ những 
năm 90 của thế kỷ trước [5]. Đã có một số nghiên cứu 
đánh giá khả năng chẩn đoán và can thiệp của NSOB 
trong VTTB. Tuy nhiên để điều trị thực thụ tổn thương 
các tạng trong ổ bụng bằng PTNS vẫn còn là vấn đề 
được nhiều phẫu thuật viên quan tâm. Chúng tôi thực 
hiện đề tài này với 2 mục tiêu: 
1. Xác định giá trị của NSOB chẩn đoán các tổn 
thương tạng rỗng trong VTTB. 
2. Đánh giá kết quả sớm điều trị các tổn thương 
tạng rỗng bằng PTNS trong VTTB. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu tiến 
cứu mô tả. 
2. Đối tượng nghiên cứu:Tất cả bệnh nhân 
(BN) có vết thương thấu bụng nghi thủng tạng 
rỗng có sử dụng PTNS ổ bụng để chẩn đoán và 
xử lý tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện đa khoa 
Sài Gòn. 
3. Thời gian nghiên cứu: Từ 1/6/2015 – 
31/5/2020. 
4. Cỡ mẫu và chọn mẫu: Sử dụng phương 
pháp chọn mẫu thuận tiện. 
5. Tiêu chuẩn chọn mẫu 
5.1. Tiêu chuẩn chọn vào. Bệnh nhân bị vết 
thương do hỏa khí hay bạch khí có đường vào của 
vật gây thương tích nghi thủng tạng rỗng. 
Tình trạng huyết động ổn định hoặc giao 
động nhưng ổn định ngay sau hồi sức ban đầu. 
Được PTNS để chẩn đoán và xử trí thủng 
tạng rỗng. 
5.2. Tiêu chuẩn loại ra. Huyết động không 
ổn định sau hồi sức ban đầu 
Chống chỉ định PTNS 
Chấn thương sọ não nặng, hôn mê. 
6. Phương pháp tiến hành. Với các vết 
thương thấu bụng (VTTB) được đóng vết thương 
trước khi bơm hơi ổ bụng và PTNS. Nếu không 
có dấu hiệu tổn thương tạng, làm sạch vết 
thương và không cần mở bụng. 
Bơm hơi ổ bụng bằng CO2 qua lỗ trocart dưới 
rốn, vào bụng bằng kỹ thuật Hasson, quan sát ổ 
bụng bằng kính soi 30o. Hai trocart 5 - 10mm 
đưa vào ở ngang rốn, bờ ngoài cơ thẳng bụng. 
Áp lực bơm hơi ổ bụng điều chỉnh dưới 15mmHg. 
Sau khi khảo sát khoang bụng cẩn thận, hút 
sạch máu, dịch tiêu hóa, đánh giá các thương 
tổn thấy được. Nếu cần, trocart phụ được thêm 
vào, phụ thuộc vị trí thương tổn. Chuyển mở 
bụng khi thám sát ổ bụng không hoàn toàn đầy 
đủ, thương tổn quá lớn, quá khả năng phẫu 
thuật nội soi. Những trường hợp đang chảy máu 
phải được kiểm soát đầu tiên bằng đốt điện, kẹp 
clip, cột – khâu cột Để đánh giá ruột non và 
đại tràng, dùng kẹp ruột không gây sang chấn, 
kiểm tra ruột qua trocart hai bên thành bụng; 
kiểm tra ruột non bắt đầu từ góc hồi manh 
tràng, tiến về phía trên đến góc Treitz mỗi 4-8 
cm cho đến hết chiều dài ruột. Các tổn thương 
ruột non và mạc treo được xử trí bằng khâu đơn 
giản bằng vicryl 3.0. 
Trong vỡ cơ hoành, ngay khi đặt trocar rốn 
và bơm hơi dưới áp lực thấp (5mmHg), đặt thêm 
1 trocar 10mm không có van ở gian sườn 5 trung 
đòn của bên lồng ngực bị tổn thương, một trocar 
5mm ở thượng vị bên trái dây chằng liềm và 1 
trocar 10mm ở hông trái; khâu cơ hoành qua nội 
soi bằng chỉ Prolene 1.0 mũi chữ U hoặc khâu 
liên tục. Kiểm tra các tạng trong bụng. Nếu có vỡ 
tạng rỗng, tiếp tục soi lồng ngực kiểm tra, đặt 
thêm 2 trocar 5mm và 10mm tưới rửa khoang 
màng phổi, đặt dẫn lưu khoang màng phổi qua 
lỗ trocar 10mm ở gian sườn 5 trung đòn. 
Hậu phẫu ghi nhận sinh hiệu, vết mổ, ổ bụng, 
ngày trung tiện, thời gian nằm viện. Làm thêm 
các xét nghiệm sinh hoá, chẩn đoán hình ảnh, 
truy tìm các biến chứng hậu phẫu cũng như tình 
trạng bỏ sót thương tổn. 
7. Tiêu chuẩn vàng để so sánh nghiên cứu 
Nhóm bệnh nhân mổ mở: Kết quả tổn thương 
các tạng được khẳng định lại khi chuyển sang 
mổ mở vì một lý do nào đó như quá khả năng 
can thiệp qua nội soi hay mở bụng nhỏ xử lý 
thương tổn. 
TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 496 - th¸ng 11 - sè 2 - 2020 
3 
Nhóm bệnh nhân theo dõi không mổ: Kết quả 
còn được khẳng định qua theo dõi hậu phẫu 
trong những trường hợp không chuyển sang mổ 
mở, được xem là không có tổn thương tạng khi 
diễn tiến lâm sàng hậu phẫu không xuất hiện các 
triệu chứng của hội chứng viêm phúc mạc, xuất 
huyết nội, áp xe tồn lưu hay rò tiêu hóa. 
8. Vấn đề y đức. Được sự đồng thuận của 
người bệnh và người nhà trong việc tham gia 
nghiên cứu. Tất cả thông tin về vấn đề sức khỏe 
và thông tin cá nhân của người bệnh sẽ được 
bảo mật. 
Nghiên cứu đã thông qua Hội đồng đạo đức 
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP Hồ 
Chí Minh 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 
Tổng cộng có 76 trường hợp vết thương thấu 
bụng có thủng tạng rỗngđược chẩn đoán và 
phẫu thuật tại Bệnh Viện đa Khoa Sài Gòn từ 
1/6/2015 đến 31/5/2020 
1. Giá trị chẩn đoán của NSOB: 
Bảng 1. Thương tổn tạng rỗng 
Kết quả 
NSOB 
Có tổn 
thương 
Không có 
tổn thương 
Tổng 
Có tổn thương 52 0 52 
Không có tổn 
thương 
2 22 24 
Tổng 54 22 76 
- Độ nhạy 96,3%; độ đặc hiệu 100%; dương 
tính giả 0%; âm tính giả 8,3%. 
Nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng 
về độ nhạy và độ đặc hiệu so với các tác giả 
trong nước [4][5]. Tuy nhiên một số nghiện cứu 
của các tác giả nước ngoài thì độ nhạy và độ 
chuyên chẩn đoán thương tổn tạng rỗng thay đổi 
80-85% [9]. Khi có tổn thương tạng rỗng thường 
có dịch đục, dịch tiêu hóa muộn hơn thì có giả 
mạc trong ổ bụng cho nên có thể định hướng có 
tổn thương tạng rỗng nhờ quan sát dịch ổ bụng. 
Những tổn thương độ I, II (rách thanh cơ, tụ 
máu) thì dịch ổ bụng cũng chỉ có lợn cợn máu 
cho nên cần phải kiểm tra toàn bộ chiều dài ống 
tiêu hóa trong ổ bụng tránh bỏ sót tổn thương. 
Một trường hợp âm tính giả là thương tổn 
thủng đại tràng góc lách do vết thương hông 
lưng kèm khối máu tụ to quanh thận khiến 
không quan sát được thương tổn đại tràng qua 
nội soi nhưng khi chuyển mổ mở thì phát hiện 
thương tổn này và xử trí kịp thời. 
Trường hợp thứ 2 là thương tổn thủng trực 
tràng thấp kèm thủng bàng quang. Khi mổ mở 
phải làm hậu môn nhân tạo đại tràng chậu hộng. 
Nhiều tác giả chỉ ra rằng NSOB dễ bỏ sót tổn 
thương đặc biệt trong VTTB. Hầu như các nghiên 
cứu đều gộp cả bệnh nhân bị CTBK và VTTB. 
Tổn thương do VTTB dễ bỏ sót hơn khi tổn 
thương nhỏ trên nền tổ chức bình thường khác 
với tổn thương do CTBK luôn trên nền tổ chức bị 
đụng giập phù nề [6]. Nếu NSOB để sàng lọc có 
tổn thương hay không cho thấy đạt độ chính xác 
gần như tuyệt đối với độ nhạy, độ đặc hiệu 
100%, còn nếu sủ dụng NSOB như công cụ chẩn 
đoán (đánh giá hết tổn thương) thì có nhiều 
tranh cãi, kết quả rất khác nhau [8]. 
Bảng 2. Thương tổn các cơ quan 
 Số ca Tỉ lệ(%) 
Dạ dày 21 40.4 
Ruột non 19 36.5 
Đại tràng 6 11.5 
Bàng quang 5 9.6 
Túi mật 1 1.9 
2. Giá trị điều trị PTNS trong thương tổn 
tạng rỗng 
Dạ dày: có 18 trường hợp tổn thương thành 
trước dạ dày đều được khâu qua nội soi. Tùy vết 
thủng to hay nhỏ có thể khâu mũi rời hoặc khâu 
vắt. Chúng tôi sử dụng chì Vicryl 3-0 khâu 2 lớp. 
Các trường hợp này đều mở hậu cung mạc nối 
quan sát mặt sau dạ dày và tụy. Nhờ vậy chúng 
tôi không bỏ sót 3 trường hợp thủng mặt sau dạ 
dày. Sau khâu dạ dày cần đặt và lưu sonde dạ dày 
đến khi bệnh nhân có lưu thông tiêu hóa trở lại. 
Ruột non: trong số 19 trường hợp thủng 
ruột non có 12 trường hợp thủng lổ nhỏ chúng 
tôi khâu bằng chỉ tiêu 3-0 mũi rời; 4 trường hợp 
có nhiều lổ thủng xuyên qua đoạn ruột ngắn 
chúng tôi cắt và khâu nối bằng Stapler nội soi 
trong ổ bụng. Trong 3 trường hợp còn lại do vết 
rách phức tạp, rách thanh mạc rộng chúng tôi 
mở 1 lổ nhỏ đủ đưa đoạn ruột ra xử trí ngoài 
thành bụng. Theo các tác giả Choi Y.B. đã khâu 
ruột non cho 15 bệnh nhân và cắt nối ruột bằng 
nội soi có hỗ trợ cho 19 BN không xì bục chổ 
khâu và các BN đều ổn định ra viện [8], Streck 
và cộng sự khâu thủng ruột non độ II qua nội soi 
đơn thuần cho 8 BN và khâu cắt đoạn ruột cho 6 
BN nhờ nội soi có hỗ trợ khi vỡ ruột từ độ III trở 
lên, kết quả sớm và muộn đều tốt. 
Đại tràng: 4 trường hợp đại tràng bị rách 
thanh mạc chúng tôi xử trí bằng nội soi đơn 
thuần (66,7%). 2 trường hợp còn lại được xử trí 
bằng nội soi hỗ trợ. Chúng tôi khâu tạm chỗ 
thủng tránh bẩn thêm ổ bụng và đánh dấu, hút 
rửa sạch ổ bụng. Sau đó giải phóng di động 
đoạn đại tràng có tổn thương, mở thành bụng vị 
trí gần tổn thương nhất và đưa chỗ thủng ra 
ngoài ổ bụng. Khâu lại chỗ thủng, biệt lập với ổ 
vietnam medical journal n02 - NOVEMBER - 2020 
4 
bụng, sau mổ luôn giữ ấm phần đại tràng đưa ra 
ngoài. Nếu chỗ khâu không liền bị xì thì coi đó 
như hậu môn nhân tạo sẽ đóng lại sau. Nghiên 
cứu 2 trường hợp hậu môn nhân tạo được đóng 
sau 3 tháng. Nếu chỗ khâu liền không xì sau 1 
tuần có thể đưa vào ổ bụng bằng PTNS. 
Nếu vị trí tổn thương khó đưa ra ngoài (trực 
tràng, đại tràng góc lách) thì khâu vết thương 
qua nội soi hoặc nội soi có hỗ trợ rồi đưa đoạn 
đại tràng di động gần nhất phía trên làm hậu 
môn nhân tạo. Trường hợp sót thương tổn trực 
tràng thấp kèm tổn thương bàng quang trong 
giai đoạn đầu nghiên cứu khi chúng tôi chưa có 
nhiều kinh nghiệm được mổ mở và làm hậu môn 
nhân tạo đại tràng chậu hông. Lim và cộng sự 
gặp 5 chấn thương đại tràng trái phải thực hiện 
phẫu thuật Hartman, các tác giả thực hiện qua 
nội soi 4 trường hợp, chỉ 1 trường hợp dùng nội 
soi hỗ trợ. 
Bàng quang: thủng bàng quang trong phúc 
mạc thì việc khâu lại vết thủng thực hiện qua nội 
soi có nhiều thuận lợi khi ở tư thế đầu dốc là có 
thể bộc lộ vùng mổ dễ dàng, bàng quang được 
cố định tại chỗ, thành bàng quang dày chắc, 
bàng quang rộng rãi. Qua nội soi có thể khâu 
chỗ thủng 2 lớp vắt bằng chỉ tiêu 3-0. Sau khâu 
không cần dẫn lưu bàng quang mà chỉ cần lưu 
sonde tiểu 5-7 ngày. Trong nghiên cứu chúng tôi 
cả 5 trường hợp thủng bàng quang được khâu 
qua nội soi thuận lợi kết quả tốt. 
Túi mật: 1 trường hợp thủng túi mật chúng 
tôi cắt túi mật nội soi. 
Vết thương thủng dạ dày và ruột non 
Vết thương thủng đại tràng 
V. KẾT LUẬN 
NSOB là phương pháp chẩn đoán xâm lấn tối 
thiểu nhìn trực tiếp tổn thương. NSOB đánh giá 
chính xác các tổn thương tạng nhất là các tổn 
thương bề mặt, tổn thương tạng rỗng, mạc treo 
là những loại tổn thương khó phát hiện trên lâm 
sàng cũng như chẩn đoán hình ảnh. NSOB là 
phương pháp chẩn đoán an toàn, hiệu quả. 
Phẫu thuật nội soi điều trị vết thương tạng 
rỗng là lựa chọn an toàn và kết quả tốt. Cần 
nghiên cứu với mẫu lớn và thời gian theo dõi dài 
để có đánh giá toàn diện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chestovich P., BrowderT., Morrissey S., el al. 
(2015), “Minimally invasive is maximally effective: 
Diagnostic and therapeutic laparoscopy for 
penetrating abdominal injuries”, J Trauma Acute 
Care Surg 78(6), pp. 1076-1085. 
2. Chiu W.C., “Shanmuganathan K., Mirvis S.E., 
Scalea T.M. (2001), “Determining the need for 
laparotomy in penetrating torso trauma”, J Trauma 
Nov., 51 (1), pp. 860-868. 
3. Trần Bình Giang, (2013), “ Phẫu thuật nội soi 
chẩn đoán và điều trị vỡ tạng rỗng do chấn thương 
bụng kín” Tạp chí phẫu thuật nội soi và nội soi 
Việt Nam, số 1 (tập 3), tr 5-10.10 
4. Lê Tư Hoàng (2009) Nghiên cứu ứng dụng nội 
soi ổ bụng trong chẩn đoán và điều trị chấn 
thương bụng kín, Luận án Tiến sĩ y học, Trường 
Đại học Y Hà Nội. 
5. Nguyễn Phước Hưng (2013) “Vai trò của nội 
soi ổ bụng trong chấn thương và vết thương bụng: 
kinh nghiệm sau 10 năm” Y Học TP.Hồ Chí 
Minh.Tập 17, tr 316 – 327 
6. Kervlic J., Reilly G., Gocentas R., (2015), 
“Management of haemodynamically stable 
patientswith penetrating abdominal stab injuries: 
review of practice at an Australian major trauma 
centre”Eur J Trauma Emerg Surg, Dec 
7. Lê Viết Khánh (2017) Nghiên cứu ứng dụng 
phẫu thuật nội soi chẩn đoán và điều trị các tổn 
thương tạng rỗng trong chấn thương bụng kín, 
Luận án Tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội. 
8. Koto M.,Matsevych O., (2019), “Laparoscopic 
management of retroperitoneal injuries from 
penetrating abdominal trauma in haemodynamic 
allystable patients”, Journalof Minimal 
AccessSurgery, Jan-Mar 15 (1), pp. 25-30. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_vai_tro_noi_soi_o_bung_trong_chan_doan_va_dieu_tri.pdf