Đánh giá vai trò của liệu pháp oxy cao áp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não tại bệnh viện Quân Y 17
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của liệu pháp oxy cao áp trong cải thiện chức năng thần kinh ở
bệnh nhân (BN) đột quỵ thiếu máu não. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thuần tập
trên 85 BN được chẩn đoán là đột quỵ thiếu máu não, chia BN làm hai nhóm, nhóm 1 (52 BN)
được điều trị bằng thuốc kết hợp với trị liệu oxy cao áp (Hyperbaric oxygen therapy- HBOT),
nhóm 2 (33 BN) chỉ điều trị thuốc đơn thuần. Các đặc điểm lâm sàng được đánh giá dựa trên
thang điểm đánh giá đột quỵ của Viện nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia Mỹ (NIHSS) ở thời điểm
lúc nhập viện và sau 14 ngày. Kết quả: Điểm trung bình NIHSS, nhóm 1: lúc nhập viện là
9,04 ± 5,06 điểm, sau 14 ngày nhập viện giảm xuống còn 3,13 ± 5,55 điểm; nhóm 2 lúc nhập
viện là 9,18 ± 5,39 điểm, sau 14 ngày là 6,57 ± 5,68 điểm. Đặc điểm lâm sàng theo thang điểm
NIHSS ở nhóm 1 được cải thiện tốt hơn ở nhóm 2 (p = 0,01). Các triệu chứng không mong muốn
khi HBOT: đau tai 61,5%, tức ngực, khó thở 34,6%, lo lắng 32,7% và mệt mỏi 21,2%. Kết luận:
Nhóm điều trị bằng thuốc kết hợp với HBOT điểm trung bình NIHSS cải thiện hơn so với nhóm
chỉ điều trị đơn thuần bằng thuốc
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá vai trò của liệu pháp oxy cao áp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não tại bệnh viện Quân Y 17
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 61 ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP OXY CAO ÁP TRONG HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ THIẾU MÁU NÃO TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 17 Nguyễn Văn Quốc1, Đặng Phúc Đức2, Nguyễn Văn Ngọc1, Huỳnh Minh Thắng1, Phan Thị Huệ1 TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của liệu pháp oxy cao áp trong cải thiện chức năng thần kinh ở bệnh nhân (BN) đột quỵ thiếu máu não. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thuần tập trên 85 BN được chẩn đoán là đột quỵ thiếu máu não, chia BN làm hai nhóm, nhóm 1 (52 BN) được điều trị bằng thuốc kết hợp với trị liệu oxy cao áp (Hyperbaric oxygen therapy- HBOT), nhóm 2 (33 BN) chỉ điều trị thuốc đơn thuần. Các đặc điểm lâm sàng được đánh giá dựa trên thang điểm đánh giá đột quỵ của Viện nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia Mỹ (NIHSS) ở thời điểm lúc nhập viện và sau 14 ngày. Kết quả: Điểm trung bình NIHSS, nhóm 1: lúc nhập viện là 9,04 ± 5,06 điểm, sau 14 ngày nhập viện giảm xuống còn 3,13 ± 5,55 điểm; nhóm 2 lúc nhập viện là 9,18 ± 5,39 điểm, sau 14 ngày là 6,57 ± 5,68 điểm. Đặc điểm lâm sàng theo thang điểm NIHSS ở nhóm 1 được cải thiện tốt hơn ở nhóm 2 (p = 0,01). Các triệu chứng không mong muốn khi HBOT: đau tai 61,5%, tức ngực, khó thở 34,6%, lo lắng 32,7% và mệt mỏi 21,2%. Kết luận: Nhóm điều trị bằng thuốc kết hợp với HBOT điểm trung bình NIHSS cải thiện hơn so với nhóm chỉ điều trị đơn thuần bằng thuốc. * Từ khóa: Liệu pháp oxy cao áp; Đột quỵ thiếu máu não. ĐẶT VẤN ĐỀ Đột quỵ được xác định là một khiếm khuyết thần kinh đột ngột có nguồn gốc mạch máu não và thuộc nhóm các nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn tật trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc, tử vong cũng như tỷ lệ khuyết tật của căn bệnh này cao, để lại một gánh nặng rất lớn cho xã hội, gia đình và con người. Đột quỵ được chia thành đột quỵ thiếu máu não và xuất huyết não, trong đó, đột quỵ thiếu máu chiếm khoảng 87%. Hiện nay, liệu pháp điều trị đột quỵ chủ yếu đặt stent và nong mạch, thuốc tan huyết khối, điều trị phẫu thuật, thuốc bảo vệ thần kinh, ổn định áp lực nội sọ và phục hồi chức năng [4]. Do phương pháp điều trị sẵn còn hạn chế, việc đưa chiến lược điều trị mới để cải thiện kết quả thương tổn thần kinh lâu dài sau đột quỵ là cần thiết. Phương pháp HBOT, một điều trị không xâm lấn, từ lâu đã được áp dụng phổ biến trong điều trị đột quỵ từ năm 1960 và đã được chứng minh là một chiến lược điều trị an toàn và có hiệu quả. 1. Bệnh viện Quân y 17 2. Bệnh viện Quân y 103 Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Văn Quốc ([email protected]) Ngày nhận bài: 07/02/2020; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 18/02/2020 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2020 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 62 Ở Việt Nam, từ năm 1991 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và Bệnh viện Quân y 175 đưa vào nghiên cứu, ứng dụng HBOT và đến năm 2001 phương pháp này mới được đưa vào các cơ sở y tế trong cả nước để điều trị và hỗ trợ điều trị rất nhiều chứng bệnh, trong đó điều trị đột quỵ não đạt hiệu quả cao. Nhiều nghiên cứu trước đây đã chứng minh HBOT có thể tăng cường oxy não và có nhiều tác dụng bảo vệ tế bào thần kinh khác thông qua các cơ chế sinh lý, sinh hóa và trao đổi chất khác nhau [4]. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm: Đánh giá hiệu quả của HBOT trong cải thiện chức năng thần kinh ở BN đột quỵ thiếu máu não và khảo sát tác dụng không mong muốn của HBOT. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu - 85 BN mắc đột quỵ thiếu máu não được chẩn đoán và điều trị tại Khoa Nội Thần kinh Bệnh viện Quân y 17 từ tháng 1/2018 - 6/2019. * Tiểu chuẩn lựa chọn: BN mắc đột quỵ được chẩn đoán dựa trên định nghĩa đột quỵ của WHO 1970, sau đó được tiến hành chụp cắt lớp vi tính để xác định là thể thiếu máu não. * Tiêu chuẩn loại trừ: Điểm Glasgow < 14, rối loạn chức năng nhận thức nghiêm trọng, chứng sợ kín, rối loạn co giật hoặc đang bị động kinh, các bệnh phổi (hen suyễn hoạt động, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính nghiêm trọng, tiền sử của tràn khí màng phổi tự phát), tiền sử suy tim nặng với phân suất tống máu thất trái dưới 30%; các bệnh tim mạch (đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim trong vòng 3 tháng), viêm xoang, viêm tai giữa cấp tính hoặc tổn thương tai lớn. 2. Phương pháp nghiên cứu * Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng. * Phương pháp phân nhóm: Đối tượng nghiên cứu được chia thành 2 nhóm: nhóm 1 (52 BN) là nhóm được điều trị bằng thuốc kết hợp với HBOT; nhóm 2 (33 BN) là nhóm chỉ điều trị bằng thuốc. * Quy trình nghiên cứu: - Tại thời điểm kiểm tra đầu tiên (T0): Tiến hành trong 3 ngày nhập viện. Dữ liệu thu thập gồm tuổi, giới, các đặc điểm lâm sàng và thang điểm NIHSS. Đánh giá mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS: nhẹ < 5 điểm, trung bình 5 - 15 điểm, nặng 16 - 20 điểm, và rất nặng 21 - 42 điểm. Sau đó, tất cả BN được điều trị bằng thuốc chống ngưng tập tiểu cầu, nhóm statin, dinh dưỡng não, cân bằng dịch điện giải và thuốc điều trị các bệnh kèm theo, quá trình dùng thuốc liên tục đến ngày thứ 14 ở tất cả BN tham gia nghiên cứu. Tại thời điểm ngày thứ 4 sau nhập viện, BN được chia thành 2 nhóm. - Quy trình HBOT: Điều trị bằng máy HBOT thuộc model oxcab MO-13 với liệu trình áp suất 2,5 ATA, oxy tính khiết 100%, thời gian điều trị 60 phút (bao gồm thời gian giải nén), số lần điều trị 10 ngày liên tục từ ngày thứ 3 - 13 sau khi nhập viện. Tại thời điểm sau 14 ngày nhập viện (T1): BN đột quỵ thiếu máu não ở cả 2 nhóm được đánh giá lại các triệu chứng chủ quan và thang điểm NIHSS. Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS phiên bản 20.0. Tất cả các thử nghiệm thống kê có ý nghĩa ở mức p < 0,05. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 63 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN Bảng 1: Đặc điểm BN về tuổi và giới. Tổng Nhóm 1 Nhóm 2 Yếu tố đánh giá n % n % n % p Nam 56 65,9 32 61,5 24 72,7 Giới tính Nữ 49 34,1 20 38,5 9 27,3 0,352 < 50 7 8,2 3 5,8 4 12,1 ≥ 50 78 91,8 49 94,2 29 87,9 0,423 Tuổi Trung bình 66,85 ± 13,79 68,54 ± 13,46 68,54 ± 13,46 0,157 Tỷ lệ BN đột quỵ thiếu máu não ở nam giới chiếm 65,9%, cao gấp 1,93 lần so với BN là nữ giới (34,1%). Các nghiên cứu chỉ ra nam giới bị đột quỵ thiếu máu não nhiều hơn nữ giới là do nam có nhiều yếu tố nguy cơ cao hơn nữ (ví dụ: thói quen uống rượu, hút thuốc lá). Tỷ lệ nam/nữ có thể khác nhau ở mỗi nghiên cứu, nhưng nói chung, nam nhiều hơn nữ gấp 1,5 - 2 lần [2]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ tuổi trung bình của BN đột quỵ thiếu máu não là 66,85 ± 13,79; phần lớn tập trung ở nhóm tuổi ≥ 50 (91,8%), tuổi < 50 chỉ chiếm 8,2% (bảng 1). Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đều đưa đến kết luận, đột quỵ não tăng dần theo lứa tuổi và tăng rõ rệt sau 50 tuổi, tập trung nhiều nhất 50 - 70 tuổi. Theo thống kê của WHO và ADA, tuổi cao là yếu tố nguy cơ gây đột quỵ. Nhóm tuổi từ 75 - 84 bị đột quỵ nhiều gấp 25 lần tuổi 45 - 54. Người già mắc bệnh nhiều nhất, sau đó đến tuổi trung niên và giảm dần ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Lứa tuổi hay bị bệnh nhiều nhất gặp từ 50 - 70 tuổi bao gồm cả chảy máu và thiếu máu não. Tuổi càng lớn, bệnh mạch máu não càng tăng nhiều, trước hết là xơ vữa động mạch. Tuổi càng lớn càng tích tụ nhiều yếu tố nguy cơ. Theo Nguyễn Văn Chương, tuổi trung bình của BN đột quỵ thiếu máu não cao hơn ở nhóm BN đột quỵ chảy máu não [2]. Bảng 2: Các triệu chứng lâm sàng khi nhập viện. Tổng Nhóm 1 Nhóm 2 Triệu chứng n % n % n % p Đau đầu 43 50,6 27 48,1 18 54,5 0,658 Chóng mặt 14 16,5 8 15,4 6 18,2 0,770 Buồn nôn, nôn 8 9,4 5 9,6 3 9,1 0,734 Tê nửa người 31 36,5 20 38,5 11 33,3 0,653 Liệt nửa người 81 95,3 49 94,2 32 97,0 1,000 Liệt dây VII 78 91,8 47 90,4 31 93,9 0,701 Rối loạn ngôn ngữ 52 61,2 31 56,6 21 63,6 0,820 Rối loạn ý thức 13 15,3 9 17,3 4 12,1 0,758 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 64 Đặc điểm lâm sàng BN thiếu máu não tại thời điểm nhập viện có triệu chứng thường gặp là liệt nửa người và liệt dây VII (lần lượt 95,3% và 91,8%), tiếp đến là rối loạn ngôn ngữ và đau đầu (61,2% và 50,6%), ít gặp hơn là rối loạn cảm giác tê nửa người (35,5%), chóng mặt (16,5%), buồn nôn, nôn (9,4%). Nghiên cứu loại trừ những BN có rối loạn ý thức nặng nên tỷ lệ rối loạn ý thức chỉ có 15,3%, chủ yếu là rối loạn ý thức nhẹ (tiền hôn mê) như lú lẫn. Các triệu chứng lâm sàng giữa 2 nhóm nghiên cứu không có sự khác biệt (p > 0,05). Theo nghiên cứu của Nguyễn Minh Hiện và CS (2018) [3], các dấu hiệu lâm sàng BN đột quỵ thiếu máu não trong 6 giờ đầu là liệt nửa người (95,5%), liệt dây VII (91,0%), rối loạn ngôn ngữ (70,9%), rối loạn ý thức (68,9%), đau đầu (26,9%), chóng mặt (11,9%), buồn nôn, nôn (8,2%), tê nửa người (18,7%). Trong khi đó, nghiên cứu của Trần Thị Minh Châu và CS [1] trên 108 BN tại Viện Y học biển Việt Nam cho kết quả lúc vào viện thấy 75,0% BN có triệu chứng đau đầu, 71,4% chóng mặt, 13,8% buồn nôn, nôn và 44,4% có rối loạn cảm giác (tê bì). Bảng 3: Các triệu chứng lâm sàng sau 14 ngày nhập viện. Tổng Nhóm 1 Nhóm 2 Triệu chứng n % n % n % p Đau đầu 10 11,8 3 5,8 7 21,2 0,042 Chóng mặt 3 3,5 0 0,0 3 9,1 0,055 Buồn nôn, nôn 0 0,0 0 0,0 0 0,0 - Tê nửa người 14 16,5 5 9,6 9 27,3 0,040 Liệt nửa người 52 61,2 26 50,0 26 78,8 0,012 Liệt dây VII 51 60,0 24 46,2 27 81,8 0,010 Rối loạn ngôn ngữ 25 29,4 9 17,3 16 48,5 0,030 Rối loạn ý thức 5 5,9 1 1,9 4 12,1 0,072 Sau 14 ngày nhập viện (bảng 3), triệu chứng đau đầu ở nhóm 1 từ 48,1% giảm xuống 5,8%, trong khi nhóm 2 từ 54,5% giảm xuống 21,1%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Cảm giác tê nửa người ở nhóm 1 từ 38,5% giảm xuống còn 9,6%, ở nhóm 2 từ 33,3% xuống 27,3%, sự khác biệt sau 14 ngày nhập viện có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Triệu chứng liệt nửa người và liệt dây VII ở nhóm 1 từ 94,2% và 90,4% giảm xuống 50,0% và 46,2%, ở nhóm 2 là 97,0% và 93,9% giảm xuống 78,8% và 81,8%, sự khác biệt giữa 2 nhóm sau 14 ngày nhập viện có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Triệu chứng rối loạn ngôn ngữ cho kết quả tương tự. Các triệu chứng chóng mặt, rối loạn ý thức đều giảm giữa 2 nhóm sau 14 ngày nhập viện, tuy nhiên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Riêng triệu chứng nôn và buồn nôn, sau 14 ngày nhập viện, không còn BN nào có biểu hiện trên cả 2 nhóm. Theo nghiên cứu của Trần Thị Minh Châu và CS [1], sau 12 - 15 đợt HBOT, không còn BN nào đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn và chỉ 1,9% BN còn cảm giác tê bì (so với trước lúc HBOT 44,4%). T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 65 Bảng 4: Điểm trung bình NIHSS lúc nhập viện và sau 14 ngày nhập viện. Thời điểm quan sát Tổng Nhóm 1 Nhóm 2 p Lúc nhập viện 9,09 ± 5,61 9,18 ± 5,39 9,04 ± 5,06 0,902 Sau 14 ngày nhập viện 4,54 ± 4.81 3,13 ± 3.55 6,57 ± 5,68 0,010 Trong nghiên cứu của chúng tôi, lúc nhập viện điểm NIHSS trung bình là 9,09 ± 5,61, nhóm 1: 9,18 ± 5,39, nhóm 2: 9,04 ± 5,06 (bảng 4). Phân bố mức độ nặng lâm sàng theo thang điểm NIHSS; nhẹ 16,5%, vừa 70,6%, nặng 9,4% và rất nặng 3,5% (biểu đồ 1). Không có sự khác biệt về điểm trung bình NIHSS và mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS giữa 2 nhóm nghiên cứu (p > 0,05). Nghiên cứu của Nguyễn Minh Hiện và CS (2018) [3] trên 134 BN đột quỵ thiếu máu não cấp từ tháng 7/2016 - 7/2017 tại Trung tâm Đột quỵ não, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 kết quả cho thấy điểm NIHSS trung bình lúc nhập viện là 17,27 ± 6,8, cao hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi. Sự khác biệt này là do nghiên cứu của chúng tôi đã loại trừ những BN nặng, điểm Glasgow < 14 điểm. Theo kết quả nghiên cứu của Efrati S. và CS (2013) [5], thang điểm NIHSS lúc nhập viện là 8,536 ± 3,62 ở nhóm điều trị và 8,716 ± 4,11 ở nhóm chứng. Biểu đồ 1: Mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS lúc nhập viện. Sau 14 ngày nhập viện, ở nhóm 1 điểm NIHSS trung bình 9,04 ± 5,06 giảm xuống 3,13 ± 5,55, ở nhóm 2 là 9,18 ± 5,39 giảm xuống 6,57 ± 5,68 (bảng 4). Như vậy, sau 14 ngày điều trị điểm trung bình theo thang điểm NIHSS ở nhóm 1 cải thiện đáng kể hơn ở nhóm 2, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Về mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS, ở nhóm 1 lúc nhập viện, nhẹ: 13,5%, vừa: 73,1%, nặng: 11,5% và rất nặng: 1,9%; sau 14 ngày nhập viện, nhẹ: 69,2%, vừa: 28,8% và nặng: 1,9%; ở nhóm 2 lúc nhập viện, nhẹ: 21,2%, vừa: 66,7%, nặng: 9,4% và rất nặng: 3,5%; sau 14 ngày nhập viện nhẹ: 36,4%, vừa: 54,5%, nặng: 3,0% và rất nặng: 6,1% (biểu đồ 1 và biểu đồ 2). Mức độ nặng trên lâm sàng ở nhóm 1 cải thiện tốt hơn ở nhóm 2 (p = 0,014). T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 66 Biểu đồ 2: Mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS sau 14 ngày nhập viện. Sau 14 ngày nhập viện, ở nhóm 1 điểm NIHSS trung bình 9,04 ± 5,06 giảm xuống 3,13 ± 5,55, ở nhóm 2 từ 9,18 ± 5,39 giảm xuống 6,57 ± 5,68 (bảng 4). Như vậy, sau 14 ngày điều trị NIHSS trung bình ở nhóm 1 cải thiện đáng kể so với nhóm 2, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Về mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS, ở nhóm 1 lúc nhập viện: nhẹ: 13,5%, vừa: 73,1%, nặng: 11,5% và rất nặng: 1,9%; sau 14 ngày nhập viện, nhẹ: 69,2%, vừa: 28,8% và nặng: 1,9%. Ở nhóm 2 lúc nhập viện, nhẹ: 21,2%, vừa: 66,7%, nặng: 9,4% và rất nặng: 3,5%; sau 14 ngày nhập viện, nhẹ: 36,4%, vừa: 54,5%, nặng: 3,0% và rất nặng: 6,1%. Sự cải thiện về mức độ nặng lâm sàng ở nhóm 1 tốt hơn ở nhóm 2 với p = 0,014. Nghiên cứu của Trần Thị Minh Châu và CS (2017) [1] trên 108 BN đột quỵ thiếu máu não trong vòng 30 ngày, BN được chia làm 2 nhóm, nhóm HBOT đơn thuần (36 BN) và nhóm HBOT kết hợp với nội khoa (72 BN). Đánh giá kết quả theo thang điểm Barthel, sau 12 - 15 ngày điều trị, tỷ lệ BN có hồi phục ở cả 2 nhóm là 77,77%. Nighoghossian N và CS (1995) [10] nghiên cứu trên BN bị tắc động mạch não giữa và vào viện trong 24 giờ kể từ khi khởi phát, được chọn ngẫu nhiên, 34 BN được điều trị tích cực bằng HBOT và 17 BN điều trị giả (không khí). Các BN điều trị bằng HBOT được tiếp xúc hàng ngày đến 40 phút ở 1,5 ATA và thực hiện 10 lần điều trị. Kết quả sau một đợt điều trị đầy đủ (3 BN tử vong trong quá trình nghiên cứu ở nhóm chứng), điểm trung bình của nhóm HBOT tốt hơn đáng kể theo thang điểm Orgogozo (p < 0,02). Nghiên cứu của Hong L. Yu S 2008 [7] trên 86 BN nội trú trẻ bị đột quỵ thiếu máu cục bộ, kết quả điểm thiếu hụt chức năng thần kinh theo thang điển NIHSS đã được cải thiện 70% ở nhóm HBOT và 42,6% ở nhóm chứng. Hiệu quả điều trị trong nhóm HBOT là 81,4% so với 35,9% ở nhóm chứng và tỷ lệ cải thiện là 93,0% so với 60,5% có lợi cho nhóm HBOT. Nghiên cứu của Efrati S. và CS (2013) [5] trên 74 BN (15 trường hợp bị loại trừ) được ngẫu nhiên đưa vào nhóm điều trị HBOT và nhóm chứng. BN nhóm điều trị được đánh giá 2 lần: Thời điểm ban đầu T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 67 và sau 40 buổi HBOT. BN ở nhóm chứng được đánh giá 3 lần: Thời điểm ban đầu, sau thời gian kiểm soát 2 tháng không điều trị và sau 2 tháng tiếp theo là 40 buổi HBOT (5 ngày/1 tuần), mỗi lần 90 phút, oxy 100% ở 2 ATA. Kết quả ở nhóm HBOT điểm NIHSS trước điều trị 8,53 ± 3,62; sau điều trị 5,52 ± 3,59 (có cải thiện) có ý nghĩa (p < 0,0001). Ở nhóm chứng, điểm NIHSS lúc đầu 8,71 ± 4,11, sau 2 tháng không điều trị là 8,34 ± 4,25 điểm và sau 40 buổi điều trị tiếp theo 5,85 ± 3,44. Như vậy, kết quả cho thấy HBOT giúp cải thiện đáng kể về thần kinh ở BN sau đột quỵ, ngay cả ở giai đoạn muộn mãn tính. Trong một nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng trên chuột của Lee Y. S. và CS (2013) [9], các tác giả gây đột quỵ thiếu máu não ở chuột đực Sprague-Dawley trưởng thành có trọng lượng 270 - 320g và chia thành các nhóm trị liệu HBOT ở các mức độ khác nhau. Đánh giá kết quả bằng cách sử dụng bài kiểm tra hành vi mNSS (modified Neurological Severity Score - điểm nghiêm trọng về thần kinh đã được sửa đổi). Kết quả cho thấy điểm mNSS của chuột cải thiện đáng kể khi HBOT được lặp đi lặp lại lâu hơn (p < 0,001). Sau khi nhuộm TTC (triphenyltetrazolium clorua), vùng thiếu máu cục bộ trên mô não chuột giảm đáng kể ở nhóm HBOT sau 3 tuần. Điều này cho thấy HBOT có thể làm giảm chấn thương do thiếu máu não ở chuột. Hội nghị Chuyên đề về Y học oxy cao áp Toronto 2008 tập trung thảo luận nghiên cứu về chỉ định đối với HBOT trong các bệnh lý thần kinh. Bốn chủ đề được đặc biệt đề cập: Đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính, chấn thương sọ não cấp tính, hoại tử phóng xạ não, và đau nửa đầu. Trên cơ sở đó, Helms A. và CS (2011) [6] đã công bố tổng hợp 4 thử nghiệm đa trung tâm được thiết kế và đề xuất để đánh giá hiệu quả của HBOT cho các chỉ định này. Trong đó, có một nghiên cứu đánh giá hiệu quả của HBOT trên BN đột quỵ thiếu máu não cấp tính với liều được FDA phê duyệt là 2,4 ATA trong 90 phút. Trên lâm sàng, các khiếm khuyết thần kinh được đánh giá lặp lại bằng thang điểm NIHSS, thang điểm mRS (modifeld Rankin Scale), chỉ số Barthel và thang điểm GOS (Glasgow outcome scale). Kết quả cho thấy, với liều này, có sự cải thiện chức năng thần kinh ở những người đột quỵ thiếu máu não cấp, và trên hình ảnh MRI cũng cho thấy khu vực tranh tối tranh sáng (bán ảnh) cũng có sự hồi phục đáng kể hơn. Bảng 5: Tác dụng không mong muốn khi HBOT. Hết sau số lượt điều trị Triệu chứng Có tác dụng phụ SD Min Max Đau tai 32 (61,5%) 2,69 1,03 1 5 Tức ngực khó thở 18 (34,6%) 1,41 0,665 1 3 Lo lắng 17 (32,7%) 2,00 0,832 1 4 Mệt mỏi 11 (21,2%) 1,41 0,503 1 2 Qua khảo sát 52 BN đột quỵ thiếu máu não được điều trị HBOT, chúng tôi ghi nhận T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 68 Qua khảo sát 52 BN đột quỵ thiếu máu não được điều trị HBOT, chúng tôi ghi nhận tác dụng phụ của HBOT (bảng 5). Trong đó, 61,5% khi làm HBOT có biểu hiện đau tai, chứng tỏ đau tai là tác dụng phụ thường gặp nhất. Tuy nhiên, triệu chứng này biến mất sau lần trị liệu từ 2 - 6 (trung bình 2,69 ± 1,03). Triệu chứng tức ngực khó thở gặp ở 34,6% BN khi HBOT, triệu chứng này chỉ kéo dài khoảng 1 - 3 lượt điều trị rồi hết, trung bình 1,41 ± 0,67. Triệu chứng lo lắng, khoảng 32,6% có biểu hiện trong 2,0 ± 0,83 lượt điều trị và biến mất sau đợt thứ 1 - 4. Thấp nhất là triệu chứng mệt mỏi, 21,2% BN cảm thấy mệt mỏi hơn sau HBOT, trung bình xuất hiện trong 1,41 ± 0,50 lượt điều trị và biến mất sau 1 - 2 lượt điều trị. Nghiên cứu của Imai (2006) [8] cho kết quả 22% BN HBOT có tác dụng không mong muốn, trong đó triệu chứng thường gặp nhất là đau tai. Như vậy, tác dụng phụ trong nghiên cứu của các tác giả thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi. Sự khác biệt này là do nghiên cứu chúng tôi sử dụng liều HBOT ở mức áp lực là 2,5 ATA, trong khi đó nghiên cứu của Imai chỉ sử dụng áp lực ở mức 1,5 ATA. Rõ ràng áp lực càng cao thì hiệu quả điều trị càng cao, và tác dụng không mong muốn có thể sẽ nhiều hơn. Trong nghiên cứu của Efrati S. và CS (2013) [5] trên 74 BN làm HBOT, chỉ 6 BN có biểu hiện ù tai, sau nghỉ ngơi vài ngày các triệu chứng biết mất. Có 2 BN xuất hiện cơn co giật nhẹ, tỉnh táo trong suốt nghiên cứu, 2 BN này đã được sử dụng thuốc động kinh trước đó. KẾT LUẬN Triệu chứng lâm sàng đau đầu, tê nửa người, liệt nửa người, liệt dây VII và rối loạn ngôn ngữ ở nhóm HBOT kết hợp với thuốc cải thiện hơn so với nhóm chỉ điều trị đơn thuần bằng thuốc sau 14 ngày nhập viện (p < 0,05). Sau 14 ngày nhập viện, điểm trung bình của thang điểm NIHSS ở nhóm HBOT kết hợp với thuốc cải thiện hơn so với nhóm chỉ điều trị đơn thuần bằng thuốc (p = 0,01). Các triệu chứng không mong muốn: đau tai 61,5%, tức ngực, khó thở 34,6%, lo lắng 32,7% và mệt mỏi 21,2% tổng số BN tham gia HBOT. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Thị Minh Châu, Nguyễn Trường Sơn. Kết quả điều trị phục hồi chức năng bằng oxy cao áp tại Viện Y học biển Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia lần thứ nhất về y học dưới nước và oxy cao áp. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội. 2017, tr.154-161. 2. Nguyễn Văn Chương. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị đột quỵ não: Những số liệu tại Khoa Nội Thần kinh Bệnh viện Quân y 103, kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học kỷ niệm 50 năm thành lập Bộ môn - Khoa Thần kinh học, Học viện Quân y - Bệnh viện Quân y 103. 2010, tr.1-13. 3. Nguyễn Minh Hiện và CS. Nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng và hình ảnh cắt lớp vi tinh ở BN đột quỵ thiếu máu não cấp trong 6 giờ đầu kể từ khi khởi phát. Tạp chí Y-Dược học Quân sự. 2018, 4, tr.84-92. 4. Bennett M. H. et al. Hyperbaric oxygen therapy for acute ischaemic stroke. Cochrane Database Syst Rev. 2014, CD004954 (11). T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 69 5. Efrati S. et al. Hyperbaric oxygen induces late neuroplasticity in post stroke patients-randomized, prospective trial. PLoS One. 2013, 8, pp. e53716 (10). 6. Helms A. et al. Hyperbaric oxygen for neurologic indications-action plan for multicenter trials in: Stroke, traumatic brain injury, radiation encephalopathy & status migrainosus. Undersea Hyperb Med, 2011, 8 (5), pp.309-319 7. Hong L., Yu S. Efficacy of hyperbaric oxygen in treatment of ischemic stroke among young patients. Journal of Rehabilitation Medicine. 2008, Suppl. 46-110. 8. Imai K, Mori T, Izumoto H., Takabatake N., KuniedaT., Watanabe M. Hyperbaric oxygen combined with intravenous edaravone for treatment of acute embolicstroke: A pilot clinical trial. Neurologia Medico-Chirurgica. 2006, 46 (8), pp.373-378. 9. Lee Y. S. et al. Long course hyperbaric oxygen stimulates neurogenesis and attenuates inflammation after ischemic stroke. Mediators Inflamm. 2013, 13, pp.512978. 10. Nighoghossian N., Trouillas M., Adeleine P., Salord F. Hyperbaric oxygen in the treatment of acute ischaemic stroke. A double-blind pilot study. Stroke. 1995, 26, pp.1369-1372.
File đính kèm:
danh_gia_vai_tro_cua_lieu_phap_oxy_cao_ap_trong_ho_tro_dieu.pdf

