Đánh giá vai trò của liệu pháp oxy cao áp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não tại bệnh viện Quân Y 17

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của liệu pháp oxy cao áp trong cải thiện chức năng thần kinh ở

bệnh nhân (BN) đột quỵ thiếu máu não. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thuần tập

trên 85 BN được chẩn đoán là đột quỵ thiếu máu não, chia BN làm hai nhóm, nhóm 1 (52 BN)

được điều trị bằng thuốc kết hợp với trị liệu oxy cao áp (Hyperbaric oxygen therapy- HBOT),

nhóm 2 (33 BN) chỉ điều trị thuốc đơn thuần. Các đặc điểm lâm sàng được đánh giá dựa trên

thang điểm đánh giá đột quỵ của Viện nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia Mỹ (NIHSS) ở thời điểm

lúc nhập viện và sau 14 ngày. Kết quả: Điểm trung bình NIHSS, nhóm 1: lúc nhập viện là

9,04 ± 5,06 điểm, sau 14 ngày nhập viện giảm xuống còn 3,13 ± 5,55 điểm; nhóm 2 lúc nhập

viện là 9,18 ± 5,39 điểm, sau 14 ngày là 6,57 ± 5,68 điểm. Đặc điểm lâm sàng theo thang điểm

NIHSS ở nhóm 1 được cải thiện tốt hơn ở nhóm 2 (p = 0,01). Các triệu chứng không mong muốn

khi HBOT: đau tai 61,5%, tức ngực, khó thở 34,6%, lo lắng 32,7% và mệt mỏi 21,2%. Kết luận:

Nhóm điều trị bằng thuốc kết hợp với HBOT điểm trung bình NIHSS cải thiện hơn so với nhóm

chỉ điều trị đơn thuần bằng thuốc

pdf 9 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá vai trò của liệu pháp oxy cao áp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não tại bệnh viện Quân Y 17", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá vai trò của liệu pháp oxy cao áp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não tại bệnh viện Quân Y 17

Đánh giá vai trò của liệu pháp oxy cao áp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não tại bệnh viện Quân Y 17
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 61 
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP OXY CAO ÁP TRONG 
HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ THIẾU MÁU NÃO 
TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 17 
 Nguyễn Văn Quốc1, Đặng Phúc Đức2, Nguyễn Văn Ngọc1, 
 Huỳnh Minh Thắng1, Phan Thị Huệ1
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của liệu pháp oxy cao áp trong cải thiện chức năng thần kinh ở 
bệnh nhân (BN) đột quỵ thiếu máu não. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thuần tập 
trên 85 BN được chẩn đoán là đột quỵ thiếu máu não, chia BN làm hai nhóm, nhóm 1 (52 BN) 
được điều trị bằng thuốc kết hợp với trị liệu oxy cao áp (Hyperbaric oxygen therapy- HBOT), 
nhóm 2 (33 BN) chỉ điều trị thuốc đơn thuần. Các đặc điểm lâm sàng được đánh giá dựa trên 
thang điểm đánh giá đột quỵ của Viện nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia Mỹ (NIHSS) ở thời điểm 
lúc nhập viện và sau 14 ngày. Kết quả: Điểm trung bình NIHSS, nhóm 1: lúc nhập viện là 
9,04 ± 5,06 điểm, sau 14 ngày nhập viện giảm xuống còn 3,13 ± 5,55 điểm; nhóm 2 lúc nhập 
viện là 9,18 ± 5,39 điểm, sau 14 ngày là 6,57 ± 5,68 điểm. Đặc điểm lâm sàng theo thang điểm 
NIHSS ở nhóm 1 được cải thiện tốt hơn ở nhóm 2 (p = 0,01). Các triệu chứng không mong muốn 
khi HBOT: đau tai 61,5%, tức ngực, khó thở 34,6%, lo lắng 32,7% và mệt mỏi 21,2%. Kết luận: 
Nhóm điều trị bằng thuốc kết hợp với HBOT điểm trung bình NIHSS cải thiện hơn so với nhóm 
chỉ điều trị đơn thuần bằng thuốc. 
* Từ khóa: Liệu pháp oxy cao áp; Đột quỵ thiếu máu não. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đột quỵ được xác định là một khiếm 
khuyết thần kinh đột ngột có nguồn gốc 
mạch máu não và thuộc nhóm các 
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và 
tàn tật trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc, tử 
vong cũng như tỷ lệ khuyết tật của căn 
bệnh này cao, để lại một gánh nặng rất 
lớn cho xã hội, gia đình và con người. Đột 
quỵ được chia thành đột quỵ thiếu máu 
não và xuất huyết não, trong đó, đột quỵ 
thiếu máu chiếm khoảng 87%. Hiện nay, 
liệu pháp điều trị đột quỵ chủ yếu đặt 
stent và nong mạch, thuốc tan huyết khối, 
điều trị phẫu thuật, thuốc bảo vệ thần 
kinh, ổn định áp lực nội sọ và phục hồi 
chức năng [4]. Do phương pháp điều trị 
sẵn còn hạn chế, việc đưa chiến lược 
điều trị mới để cải thiện kết quả thương 
tổn thần kinh lâu dài sau đột quỵ là cần 
thiết. Phương pháp HBOT, một điều trị 
không xâm lấn, từ lâu đã được áp dụng 
phổ biến trong điều trị đột quỵ từ năm 1960 
và đã được chứng minh là một chiến lược 
điều trị an toàn và có hiệu quả. 
1.
Bệnh viện Quân y 17 
2. Bệnh viện Quân y 103 
Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Văn Quốc ([email protected]) 
Ngày nhận bài: 07/02/2020; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 18/02/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 62 
Ở Việt Nam, từ năm 1991 Bệnh viện 
Trung ương Quân đội 108 và Bệnh viện 
Quân y 175 đưa vào nghiên cứu, ứng 
dụng HBOT và đến năm 2001 phương 
pháp này mới được đưa vào các cơ sở y 
tế trong cả nước để điều trị và hỗ trợ điều 
trị rất nhiều chứng bệnh, trong đó điều trị 
đột quỵ não đạt hiệu quả cao. Nhiều 
nghiên cứu trước đây đã chứng minh 
HBOT có thể tăng cường oxy não và có 
nhiều tác dụng bảo vệ tế bào thần kinh 
khác thông qua các cơ chế sinh lý, sinh 
hóa và trao đổi chất khác nhau [4]. Do đó, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm: 
Đánh giá hiệu quả của HBOT trong cải 
thiện chức năng thần kinh ở BN đột quỵ 
thiếu máu não và khảo sát tác dụng 
không mong muốn của HBOT. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
- 85 BN mắc đột quỵ thiếu máu não 
được chẩn đoán và điều trị tại Khoa Nội 
Thần kinh Bệnh viện Quân y 17 từ tháng 
1/2018 - 6/2019. 
* Tiểu chuẩn lựa chọn: BN mắc đột 
quỵ được chẩn đoán dựa trên định nghĩa 
đột quỵ của WHO 1970, sau đó được tiến 
hành chụp cắt lớp vi tính để xác định là 
thể thiếu máu não. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: Điểm Glasgow < 
14, rối loạn chức năng nhận thức nghiêm 
trọng, chứng sợ kín, rối loạn co giật hoặc 
đang bị động kinh, các bệnh phổi (hen 
suyễn hoạt động, bệnh phổi tắc nghẽn 
mãn tính nghiêm trọng, tiền sử của tràn 
khí màng phổi tự phát), tiền sử suy tim 
nặng với phân suất tống máu thất trái 
dưới 30%; các bệnh tim mạch (đau thắt 
ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim 
trong vòng 3 tháng), viêm xoang, viêm tai 
giữa cấp tính hoặc tổn thương tai lớn. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
* Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu 
bệnh chứng. 
* Phương pháp phân nhóm: Đối tượng 
nghiên cứu được chia thành 2 nhóm: 
nhóm 1 (52 BN) là nhóm được điều trị 
bằng thuốc kết hợp với HBOT; nhóm 2 
(33 BN) là nhóm chỉ điều trị bằng thuốc. 
* Quy trình nghiên cứu: 
- Tại thời điểm kiểm tra đầu tiên (T0): 
Tiến hành trong 3 ngày nhập viện. Dữ liệu 
thu thập gồm tuổi, giới, các đặc điểm lâm 
sàng và thang điểm NIHSS. Đánh giá mức 
độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS: 
nhẹ < 5 điểm, trung bình 5 - 15 điểm, 
nặng 16 - 20 điểm, và rất nặng 21 - 42 điểm. 
Sau đó, tất cả BN được điều trị bằng 
thuốc chống ngưng tập tiểu cầu, nhóm statin, 
dinh dưỡng não, cân bằng dịch điện giải 
và thuốc điều trị các bệnh kèm theo, quá 
trình dùng thuốc liên tục đến ngày thứ 14 
ở tất cả BN tham gia nghiên cứu. 
Tại thời điểm ngày thứ 4 sau nhập 
viện, BN được chia thành 2 nhóm. 
- Quy trình HBOT: Điều trị bằng máy 
HBOT thuộc model oxcab MO-13 với liệu 
trình áp suất 2,5 ATA, oxy tính khiết 100%, 
thời gian điều trị 60 phút (bao gồm thời 
gian giải nén), số lần điều trị 10 ngày liên 
tục từ ngày thứ 3 - 13 sau khi nhập viện. 
Tại thời điểm sau 14 ngày nhập viện (T1): 
BN đột quỵ thiếu máu não ở cả 2 nhóm 
được đánh giá lại các triệu chứng chủ 
quan và thang điểm NIHSS. 
Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 
phiên bản 20.0. Tất cả các thử nghiệm 
thống kê có ý nghĩa ở mức p < 0,05. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 63 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 
Bảng 1: Đặc điểm BN về tuổi và giới. 
Tổng Nhóm 1 Nhóm 2 
Yếu tố đánh giá 
n % n % n % 
p 
Nam 56 65,9 32 61,5 24 72,7 
Giới tính 
Nữ 49 34,1 20 38,5 9 27,3 
0,352 
< 50 7 8,2 3 5,8 4 12,1 
≥ 50 78 91,8 49 94,2 29 87,9 
0,423 
Tuổi 
Trung bình 66,85 ± 13,79 68,54 ± 13,46 68,54 ± 13,46 0,157 
Tỷ lệ BN đột quỵ thiếu máu não ở nam giới chiếm 65,9%, cao gấp 1,93 lần so với 
BN là nữ giới (34,1%). Các nghiên cứu chỉ ra nam giới bị đột quỵ thiếu máu não nhiều 
hơn nữ giới là do nam có nhiều yếu tố nguy cơ cao hơn nữ (ví dụ: thói quen uống 
rượu, hút thuốc lá). Tỷ lệ nam/nữ có thể khác nhau ở mỗi nghiên cứu, nhưng nói 
chung, nam nhiều hơn nữ gấp 1,5 - 2 lần [2]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ tuổi trung bình của BN đột quỵ thiếu máu não là 
66,85 ± 13,79; phần lớn tập trung ở nhóm tuổi ≥ 50 (91,8%), tuổi < 50 chỉ chiếm 8,2% 
(bảng 1). Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đều đưa đến kết luận, đột quỵ não 
tăng dần theo lứa tuổi và tăng rõ rệt sau 50 tuổi, tập trung nhiều nhất 50 - 70 tuổi. Theo 
thống kê của WHO và ADA, tuổi cao là yếu tố nguy cơ gây đột quỵ. Nhóm tuổi từ 75 - 84 
bị đột quỵ nhiều gấp 25 lần tuổi 45 - 54. Người già mắc bệnh nhiều nhất, sau đó đến 
tuổi trung niên và giảm dần ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Lứa tuổi hay bị bệnh nhiều nhất 
gặp từ 50 - 70 tuổi bao gồm cả chảy máu và thiếu máu não. Tuổi càng lớn, bệnh mạch 
máu não càng tăng nhiều, trước hết là xơ vữa động mạch. Tuổi càng lớn càng tích tụ 
nhiều yếu tố nguy cơ. Theo Nguyễn Văn Chương, tuổi trung bình của BN đột quỵ thiếu 
máu não cao hơn ở nhóm BN đột quỵ chảy máu não [2]. 
Bảng 2: Các triệu chứng lâm sàng khi nhập viện. 
Tổng Nhóm 1 Nhóm 2 
Triệu chứng 
n % n % n % 
p 
Đau đầu 43 50,6 27 48,1 18 54,5 0,658 
Chóng mặt 14 16,5 8 15,4 6 18,2 0,770 
Buồn nôn, nôn 8 9,4 5 9,6 3 9,1 0,734 
Tê nửa người 31 36,5 20 38,5 11 33,3 0,653 
Liệt nửa người 81 95,3 49 94,2 32 97,0 1,000 
Liệt dây VII 78 91,8 47 90,4 31 93,9 0,701 
Rối loạn ngôn ngữ 52 61,2 31 56,6 21 63,6 0,820 
Rối loạn ý thức 13 15,3 9 17,3 4 12,1 0,758 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 64 
Đặc điểm lâm sàng BN thiếu máu não tại thời điểm nhập viện có triệu chứng 
thường gặp là liệt nửa người và liệt dây VII (lần lượt 95,3% và 91,8%), tiếp đến là rối 
loạn ngôn ngữ và đau đầu (61,2% và 50,6%), ít gặp hơn là rối loạn cảm giác tê nửa 
người (35,5%), chóng mặt (16,5%), buồn nôn, nôn (9,4%). Nghiên cứu loại trừ những 
BN có rối loạn ý thức nặng nên tỷ lệ rối loạn ý thức chỉ có 15,3%, chủ yếu là rối loạn ý 
thức nhẹ (tiền hôn mê) như lú lẫn. Các triệu chứng lâm sàng giữa 2 nhóm nghiên cứu 
không có sự khác biệt (p > 0,05). Theo nghiên cứu của Nguyễn Minh Hiện và CS 
(2018) [3], các dấu hiệu lâm sàng BN đột quỵ thiếu máu não trong 6 giờ đầu là liệt nửa 
người (95,5%), liệt dây VII (91,0%), rối loạn ngôn ngữ (70,9%), rối loạn ý thức (68,9%), 
đau đầu (26,9%), chóng mặt (11,9%), buồn nôn, nôn (8,2%), tê nửa người (18,7%). 
Trong khi đó, nghiên cứu của Trần Thị Minh Châu và CS [1] trên 108 BN tại Viện Y học 
biển Việt Nam cho kết quả lúc vào viện thấy 75,0% BN có triệu chứng đau đầu, 71,4% 
chóng mặt, 13,8% buồn nôn, nôn và 44,4% có rối loạn cảm giác (tê bì). 
Bảng 3: Các triệu chứng lâm sàng sau 14 ngày nhập viện. 
Tổng Nhóm 1 Nhóm 2 
Triệu chứng 
n % n % n % 
p 
Đau đầu 10 11,8 3 5,8 7 21,2 0,042 
Chóng mặt 3 3,5 0 0,0 3 9,1 0,055 
Buồn nôn, nôn 0 0,0 0 0,0 0 0,0 - 
Tê nửa người 14 16,5 5 9,6 9 27,3 0,040 
Liệt nửa người 52 61,2 26 50,0 26 78,8 0,012 
Liệt dây VII 51 60,0 24 46,2 27 81,8 0,010 
Rối loạn ngôn ngữ 25 29,4 9 17,3 16 48,5 0,030 
Rối loạn ý thức 5 5,9 1 1,9 4 12,1 0,072 
Sau 14 ngày nhập viện (bảng 3), triệu chứng đau đầu ở nhóm 1 từ 48,1% giảm 
xuống 5,8%, trong khi nhóm 2 từ 54,5% giảm xuống 21,1%, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). Cảm giác tê nửa người ở nhóm 1 từ 38,5% giảm xuống còn 9,6%, 
ở nhóm 2 từ 33,3% xuống 27,3%, sự khác biệt sau 14 ngày nhập viện có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). Triệu chứng liệt nửa người và liệt dây VII ở nhóm 1 từ 94,2% và 
90,4% giảm xuống 50,0% và 46,2%, ở nhóm 2 là 97,0% và 93,9% giảm xuống 78,8% 
và 81,8%, sự khác biệt giữa 2 nhóm sau 14 ngày nhập viện có ý nghĩa thống kê 
(p < 0,05). Triệu chứng rối loạn ngôn ngữ cho kết quả tương tự. Các triệu chứng 
chóng mặt, rối loạn ý thức đều giảm giữa 2 nhóm sau 14 ngày nhập viện, tuy nhiên 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Riêng triệu chứng nôn và 
buồn nôn, sau 14 ngày nhập viện, không còn BN nào có biểu hiện trên cả 2 nhóm. 
Theo nghiên cứu của Trần Thị Minh Châu và CS [1], sau 12 - 15 đợt HBOT, không còn 
BN nào đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn và chỉ 1,9% BN còn cảm giác tê bì (so với 
trước lúc HBOT 44,4%). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 65 
Bảng 4: Điểm trung bình NIHSS lúc nhập viện và sau 14 ngày nhập viện. 
Thời điểm quan sát Tổng Nhóm 1 Nhóm 2 p 
Lúc nhập viện 9,09 ± 5,61 9,18 ± 5,39 9,04 ± 5,06 0,902 
Sau 14 ngày nhập viện 4,54 ± 4.81 3,13 ± 3.55 6,57 ± 5,68 0,010 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, lúc nhập viện điểm NIHSS trung bình là 9,09 ± 
5,61, nhóm 1: 9,18 ± 5,39, nhóm 2: 9,04 ± 5,06 (bảng 4). Phân bố mức độ nặng lâm 
sàng theo thang điểm NIHSS; nhẹ 16,5%, vừa 70,6%, nặng 9,4% và rất nặng 3,5% 
(biểu đồ 1). Không có sự khác biệt về điểm trung bình NIHSS và mức độ nghiêm trọng 
đột quỵ theo NIHSS giữa 2 nhóm nghiên cứu (p > 0,05). Nghiên cứu của Nguyễn Minh 
Hiện và CS (2018) [3] trên 134 BN đột quỵ thiếu máu não cấp từ tháng 7/2016 - 7/2017 
tại Trung tâm Đột quỵ não, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 kết quả cho thấy điểm 
NIHSS trung bình lúc nhập viện là 17,27 ± 6,8, cao hơn nhiều so với nghiên cứu của 
chúng tôi. Sự khác biệt này là do nghiên cứu của chúng tôi đã loại trừ những BN nặng, 
điểm Glasgow < 14 điểm. Theo kết quả nghiên cứu của Efrati S. và CS (2013) [5], 
thang điểm NIHSS lúc nhập viện là 8,536 ± 3,62 ở nhóm điều trị và 8,716 ± 4,11 ở 
nhóm chứng. 
Biểu đồ 1: Mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS lúc nhập viện. 
Sau 14 ngày nhập viện, ở nhóm 1 điểm NIHSS trung bình 9,04 ± 5,06 giảm xuống 
3,13 ± 5,55, ở nhóm 2 là 9,18 ± 5,39 giảm xuống 6,57 ± 5,68 (bảng 4). Như vậy, 
sau 14 ngày điều trị điểm trung bình theo thang điểm NIHSS ở nhóm 1 cải thiện đáng 
kể hơn ở nhóm 2, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Về mức độ nghiêm 
trọng đột quỵ theo NIHSS, ở nhóm 1 lúc nhập viện, nhẹ: 13,5%, vừa: 73,1%, nặng: 11,5% 
và rất nặng: 1,9%; sau 14 ngày nhập viện, nhẹ: 69,2%, vừa: 28,8% và nặng: 1,9%; 
ở nhóm 2 lúc nhập viện, nhẹ: 21,2%, vừa: 66,7%, nặng: 9,4% và rất nặng: 3,5%; 
sau 14 ngày nhập viện nhẹ: 36,4%, vừa: 54,5%, nặng: 3,0% và rất nặng: 6,1% 
(biểu đồ 1 và biểu đồ 2). Mức độ nặng trên lâm sàng ở nhóm 1 cải thiện tốt hơn ở 
nhóm 2 (p = 0,014). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 66 
Biểu đồ 2: Mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS sau 14 ngày nhập viện. 
Sau 14 ngày nhập viện, ở nhóm 1 
điểm NIHSS trung bình 9,04 ± 5,06 giảm 
xuống 3,13 ± 5,55, ở nhóm 2 từ 9,18 ± 
5,39 giảm xuống 6,57 ± 5,68 (bảng 4). 
Như vậy, sau 14 ngày điều trị NIHSS trung 
bình ở nhóm 1 cải thiện đáng kể so với 
nhóm 2, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (p < 0,05). Về mức độ nghiêm trọng 
đột quỵ theo NIHSS, ở nhóm 1 lúc nhập 
viện: nhẹ: 13,5%, vừa: 73,1%, nặng: 11,5% 
và rất nặng: 1,9%; sau 14 ngày nhập viện, 
nhẹ: 69,2%, vừa: 28,8% và nặng: 1,9%. 
Ở nhóm 2 lúc nhập viện, nhẹ: 21,2%, vừa: 
66,7%, nặng: 9,4% và rất nặng: 3,5%; 
sau 14 ngày nhập viện, nhẹ: 36,4%, vừa: 
54,5%, nặng: 3,0% và rất nặng: 6,1%. 
Sự cải thiện về mức độ nặng lâm sàng ở 
nhóm 1 tốt hơn ở nhóm 2 với p = 0,014. 
Nghiên cứu của Trần Thị Minh Châu và 
CS (2017) [1] trên 108 BN đột quỵ thiếu 
máu não trong vòng 30 ngày, BN được 
chia làm 2 nhóm, nhóm HBOT đơn thuần 
(36 BN) và nhóm HBOT kết hợp với nội 
khoa (72 BN). Đánh giá kết quả theo 
thang điểm Barthel, sau 12 - 15 ngày điều 
trị, tỷ lệ BN có hồi phục ở cả 2 nhóm là 
77,77%. 
Nighoghossian N và CS (1995) [10] 
nghiên cứu trên BN bị tắc động mạch não 
giữa và vào viện trong 24 giờ kể từ khi 
khởi phát, được chọn ngẫu nhiên, 34 BN 
được điều trị tích cực bằng HBOT và 
17 BN điều trị giả (không khí). Các BN 
điều trị bằng HBOT được tiếp xúc hàng 
ngày đến 40 phút ở 1,5 ATA và thực hiện 
10 lần điều trị. Kết quả sau một đợt điều 
trị đầy đủ (3 BN tử vong trong quá trình 
nghiên cứu ở nhóm chứng), điểm trung 
bình của nhóm HBOT tốt hơn đáng kể 
theo thang điểm Orgogozo (p < 0,02). 
Nghiên cứu của Hong L. Yu S 2008 [7] 
trên 86 BN nội trú trẻ bị đột quỵ thiếu máu 
cục bộ, kết quả điểm thiếu hụt chức năng 
thần kinh theo thang điển NIHSS đã được 
cải thiện 70% ở nhóm HBOT và 42,6% 
ở nhóm chứng. Hiệu quả điều trị trong 
nhóm HBOT là 81,4% so với 35,9% ở 
nhóm chứng và tỷ lệ cải thiện là 93,0% so 
với 60,5% có lợi cho nhóm HBOT. 
Nghiên cứu của Efrati S. và CS (2013) 
[5] trên 74 BN (15 trường hợp bị loại trừ) 
được ngẫu nhiên đưa vào nhóm điều trị 
HBOT và nhóm chứng. BN nhóm điều trị 
được đánh giá 2 lần: Thời điểm ban đầu 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 67 
và sau 40 buổi HBOT. BN ở nhóm chứng 
được đánh giá 3 lần: Thời điểm ban đầu, 
sau thời gian kiểm soát 2 tháng không 
điều trị và sau 2 tháng tiếp theo là 40 buổi 
HBOT (5 ngày/1 tuần), mỗi lần 90 phút, 
oxy 100% ở 2 ATA. Kết quả ở nhóm 
HBOT điểm NIHSS trước điều trị 8,53 ± 
3,62; sau điều trị 5,52 ± 3,59 (có cải thiện) 
có ý nghĩa (p < 0,0001). Ở nhóm chứng, 
điểm NIHSS lúc đầu 8,71 ± 4,11, sau 2 
tháng không điều trị là 8,34 ± 4,25 điểm 
và sau 40 buổi điều trị tiếp theo 5,85 ± 
3,44. Như vậy, kết quả cho thấy HBOT 
giúp cải thiện đáng kể về thần kinh ở BN 
sau đột quỵ, ngay cả ở giai đoạn muộn 
mãn tính. 
Trong một nghiên cứu thực nghiệm 
lâm sàng trên chuột của Lee Y. S. và CS 
(2013) [9], các tác giả gây đột quỵ thiếu 
máu não ở chuột đực Sprague-Dawley 
trưởng thành có trọng lượng 270 - 320g 
và chia thành các nhóm trị liệu HBOT ở 
các mức độ khác nhau. Đánh giá kết quả 
bằng cách sử dụng bài kiểm tra hành vi 
mNSS (modified Neurological Severity Score - 
điểm nghiêm trọng về thần kinh đã được 
sửa đổi). Kết quả cho thấy điểm mNSS 
của chuột cải thiện đáng kể khi HBOT được 
lặp đi lặp lại lâu hơn (p < 0,001). Sau khi 
nhuộm TTC (triphenyltetrazolium clorua), 
vùng thiếu máu cục bộ trên mô não chuột 
giảm đáng kể ở nhóm HBOT sau 3 tuần. 
Điều này cho thấy HBOT có thể làm giảm 
chấn thương do thiếu máu não ở chuột. 
Hội nghị Chuyên đề về Y học oxy cao 
áp Toronto 2008 tập trung thảo luận 
nghiên cứu về chỉ định đối với HBOT 
trong các bệnh lý thần kinh. Bốn chủ đề 
được đặc biệt đề cập: Đột quỵ thiếu máu 
cục bộ cấp tính, chấn thương sọ não cấp 
tính, hoại tử phóng xạ não, và đau nửa 
đầu. Trên cơ sở đó, Helms A. và CS 
(2011) [6] đã công bố tổng hợp 4 thử 
nghiệm đa trung tâm được thiết kế và đề 
xuất để đánh giá hiệu quả của HBOT cho 
các chỉ định này. Trong đó, có một nghiên 
cứu đánh giá hiệu quả của HBOT trên BN 
đột quỵ thiếu máu não cấp tính với liều 
được FDA phê duyệt là 2,4 ATA trong 90 
phút. Trên lâm sàng, các khiếm khuyết 
thần kinh được đánh giá lặp lại bằng 
thang điểm NIHSS, thang điểm mRS 
(modifeld Rankin Scale), chỉ số Barthel và 
thang điểm GOS (Glasgow outcome 
scale). Kết quả cho thấy, với liều này, có 
sự cải thiện chức năng thần kinh ở những 
người đột quỵ thiếu máu não cấp, và trên 
hình ảnh MRI cũng cho thấy khu vực 
tranh tối tranh sáng (bán ảnh) cũng có sự 
hồi phục đáng kể hơn. 
 Bảng 5: Tác dụng không mong muốn khi HBOT. 
Hết sau số lượt điều trị 
Triệu chứng Có tác dụng phụ 
SD Min Max 
Đau tai 32 (61,5%) 2,69 1,03 1 5 
Tức ngực khó thở 18 (34,6%) 1,41 0,665 1 3 
Lo lắng 17 (32,7%) 2,00 0,832 1 4 
Mệt mỏi 11 (21,2%) 1,41 0,503 1 2 
Qua khảo sát 52 BN đột quỵ thiếu máu não được điều trị HBOT, chúng tôi ghi nhận 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 68 
Qua khảo sát 52 BN đột quỵ thiếu máu 
não được điều trị HBOT, chúng tôi ghi 
nhận tác dụng phụ của HBOT (bảng 5). 
Trong đó, 61,5% khi làm HBOT có biểu 
hiện đau tai, chứng tỏ đau tai là tác dụng 
phụ thường gặp nhất. Tuy nhiên, triệu 
chứng này biến mất sau lần trị liệu từ 2 - 6 
(trung bình 2,69 ± 1,03). Triệu chứng tức 
ngực khó thở gặp ở 34,6% BN khi HBOT, 
triệu chứng này chỉ kéo dài khoảng 1 - 3 
lượt điều trị rồi hết, trung bình 1,41 ± 0,67. 
Triệu chứng lo lắng, khoảng 32,6% có 
biểu hiện trong 2,0 ± 0,83 lượt điều trị và 
biến mất sau đợt thứ 1 - 4. Thấp nhất là 
triệu chứng mệt mỏi, 21,2% BN cảm thấy 
mệt mỏi hơn sau HBOT, trung bình xuất 
hiện trong 1,41 ± 0,50 lượt điều trị và biến 
mất sau 1 - 2 lượt điều trị. 
 Nghiên cứu của Imai (2006) [8] cho 
kết quả 22% BN HBOT có tác dụng 
không mong muốn, trong đó triệu chứng 
thường gặp nhất là đau tai. Như vậy, tác 
dụng phụ trong nghiên cứu của các tác 
giả thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của 
chúng tôi. Sự khác biệt này là do nghiên 
cứu chúng tôi sử dụng liều HBOT ở mức 
áp lực là 2,5 ATA, trong khi đó nghiên 
cứu của Imai chỉ sử dụng áp lực ở mức 
1,5 ATA. Rõ ràng áp lực càng cao thì hiệu 
quả điều trị càng cao, và tác dụng không 
mong muốn có thể sẽ nhiều hơn. 
Trong nghiên cứu của Efrati S. và CS 
(2013) [5] trên 74 BN làm HBOT, chỉ 6 BN 
có biểu hiện ù tai, sau nghỉ ngơi vài ngày 
các triệu chứng biết mất. Có 2 BN xuất 
hiện cơn co giật nhẹ, tỉnh táo trong suốt 
nghiên cứu, 2 BN này đã được sử dụng 
thuốc động kinh trước đó. 
KẾT LUẬN 
Triệu chứng lâm sàng đau đầu, tê nửa 
người, liệt nửa người, liệt dây VII và rối 
loạn ngôn ngữ ở nhóm HBOT kết hợp với 
thuốc cải thiện hơn so với nhóm chỉ điều 
trị đơn thuần bằng thuốc sau 14 ngày 
nhập viện (p < 0,05). 
Sau 14 ngày nhập viện, điểm trung 
bình của thang điểm NIHSS ở nhóm 
HBOT kết hợp với thuốc cải thiện hơn so 
với nhóm chỉ điều trị đơn thuần bằng 
thuốc (p = 0,01). 
Các triệu chứng không mong muốn: 
đau tai 61,5%, tức ngực, khó thở 34,6%, 
lo lắng 32,7% và mệt mỏi 21,2% tổng số 
BN tham gia HBOT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Thị Minh Châu, Nguyễn Trường 
Sơn. Kết quả điều trị phục hồi chức năng 
bằng oxy cao áp tại Viện Y học biển Việt 
Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia lần thứ nhất 
về y học dưới nước và oxy cao áp. Nhà xuất 
bản Y học. Hà Nội. 2017, tr.154-161. 
2. Nguyễn Văn Chương. Nghiên cứu đặc 
điểm lâm sàng và điều trị đột quỵ não: Những 
số liệu tại Khoa Nội Thần kinh Bệnh viện 
Quân y 103, kỷ yếu các công trình nghiên cứu 
khoa học kỷ niệm 50 năm thành lập Bộ môn - 
Khoa Thần kinh học, Học viện Quân y - Bệnh 
viện Quân y 103. 2010, tr.1-13. 
3. Nguyễn Minh Hiện và CS. Nghiên cứu 
mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng và hình 
ảnh cắt lớp vi tinh ở BN đột quỵ thiếu máu 
não cấp trong 6 giờ đầu kể từ khi khởi phát. 
Tạp chí Y-Dược học Quân sự. 2018, 4, tr.84-92. 
4. Bennett M. H. et al. Hyperbaric oxygen 
therapy for acute ischaemic stroke. Cochrane 
Database Syst Rev. 2014, CD004954 (11). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 69 
5. Efrati S. et al. Hyperbaric oxygen 
induces late neuroplasticity in post stroke 
patients-randomized, prospective trial. PLoS 
One. 2013, 8, pp. e53716 (10). 
6. Helms A. et al. Hyperbaric oxygen for 
neurologic indications-action plan for 
multicenter trials in: Stroke, traumatic brain 
injury, radiation encephalopathy & status 
migrainosus. Undersea Hyperb Med, 2011, 8 
(5), pp.309-319 
7. Hong L., Yu S. Efficacy of hyperbaric 
oxygen in treatment of ischemic stroke among 
young patients. Journal of Rehabilitation 
Medicine. 2008, Suppl. 46-110. 
8. Imai K, Mori T, Izumoto H., Takabatake N., 
KuniedaT., Watanabe M. Hyperbaric oxygen 
combined with intravenous edaravone for 
treatment of acute embolicstroke: A pilot 
clinical trial. Neurologia Medico-Chirurgica. 
2006, 46 (8), pp.373-378. 
9. Lee Y. S. et al. Long course hyperbaric 
oxygen stimulates neurogenesis and attenuates 
inflammation after ischemic stroke. Mediators 
Inflamm. 2013, 13, pp.512978. 
10. Nighoghossian N., Trouillas M., 
Adeleine P., Salord F. Hyperbaric oxygen in 
the treatment of acute ischaemic stroke. A 
double-blind pilot study. Stroke. 1995, 26, 
pp.1369-1372. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_vai_tro_cua_lieu_phap_oxy_cao_ap_trong_ho_tro_dieu.pdf