Đánh giá tổng hợp về sự phù hợp và thích nghi của các dự án chuyển đổi đất rừng khộp sang trồng cao su trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Tóm tắt

Kết quả điều tra, khảo sát, đánh giá cho thấy điều kiện khí hậu rừng khộp tương đối phù hợp

với yêu cầu sinh trưởng phát triển của cây cao su. Tuy nhiên, vẫn có một số chỉ tiêu khá khắc

nghiệt như: lượng mưa phân bố tập trung theo mùa, gây ẩm thấp, ngập úng trong mùa mưa và

khô hạn trong mùa khô; Nhiệt độ tối cao và tối thấp đều chạm ngưỡng giới hạn đối với yêu

cầu của cây cao su. Phần lớn diện tích rừng khộp có thành phần cơ giới tầng mặt là cát hoặc

cát pha, kết cấu đất rời rạc, nghèo mùn, khả năng giữ nước và dinh dưỡng kém, hấp thu nhiệt

và tỏa nhiệt nhanh, ở độ sâu cách mặt đất khoảng 20 - 40cm là tầng kết von và sỏi đá, bên

dưới có tích sét, dễ gây úng cục bộ trong mùa mưa. Tỉ lệ diện tích đất rừng khộp thích hợp cây

cao su khá thấp, trong đó chủ yếu là mức thích nghi S2 và S3, không có diện tích thích nghi ở

mức S1. Trong 2 năm đầu sinh trưởng của cây cao su trên đất rừng khộp có xu hướng kém hơn

cao su trên đất nương rẫy, đất khai phá từ rừng thường xanh, bán thường xanh Từ năm thứ 3

trở đi, sự khác biệt biểu hiện càng rõ hơn. Theo đó, đường vanh cây cao su trên đất rừng khộp

thấp hơn so với đất trồng cao su truyền thống ở cùng độ tuổi.

pdf 10 trang phuongnguyen 1540
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tổng hợp về sự phù hợp và thích nghi của các dự án chuyển đổi đất rừng khộp sang trồng cao su trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tổng hợp về sự phù hợp và thích nghi của các dự án chuyển đổi đất rừng khộp sang trồng cao su trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Đánh giá tổng hợp về sự phù hợp và thích nghi của các dự án chuyển đổi đất rừng khộp sang trồng cao su trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Đại học Nguyễn Tất Thành 
21 Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 3 
Đánh giá tổng hợp về sự phù hợp và thích nghi của các dự án 
chuyển đổi đất rừng khộp sang trồng cao su trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 
Trịnh Công Tư1, Phùng Chí Sỹ2,* 
1Trung tâm Nghiên cứu Đất và Môi trường Tây Nguyên, 2Đại học Nguyễn Tất Thành 
*
entecvn@yahoo.com 
Tóm tắt 
Kết quả điều tra, khảo sát, đánh giá cho thấy điều kiện khí hậu rừng khộp tương đối phù hợp 
với yêu cầu sinh trưởng phát triển của cây cao su. Tuy nhiên, vẫn có một số chỉ tiêu khá khắc 
nghiệt như: lượng mưa phân bố tập trung theo mùa, gây ẩm thấp, ngập úng trong mùa mưa và 
khô hạn trong mùa khô; Nhiệt độ tối cao và tối thấp đều chạm ngưỡng giới hạn đối với yêu 
cầu của cây cao su. Phần lớn diện tích rừng khộp có thành phần cơ giới tầng mặt là cát hoặc 
cát pha, kết cấu đất rời rạc, nghèo mùn, khả năng giữ nước và dinh dưỡng kém, hấp thu nhiệt 
và tỏa nhiệt nhanh, ở độ sâu cách mặt đất khoảng 20 - 40cm là tầng kết von và sỏi đá, bên 
dưới có tích sét, dễ gây úng cục bộ trong mùa mưa. Tỉ lệ diện tích đất rừng khộp thích hợp cây 
cao su khá thấp, trong đó chủ yếu là mức thích nghi S2 và S3, không có diện tích thích nghi ở 
mức S1. Trong 2 năm đầu sinh trưởng của cây cao su trên đất rừng khộp có xu hướng kém hơn 
cao su trên đất nương rẫy, đất khai phá từ rừng thường xanh, bán thường xanh Từ năm thứ 3 
trở đi, sự khác biệt biểu hiện càng rõ hơn. Theo đó, đường vanh cây cao su trên đất rừng khộp 
thấp hơn so với đất trồng cao su truyền thống ở cùng độ tuổi. 
® 2018 Journal of Science and Technology - NTTU 
Nhận 16.01.2018 
Được duyệt 08.08.2018 
Công bố 20.09.2018 
Từ khóa 
phù hợp, thích nghi, 
rừng khộp, 
chuyển đổi rừng, 
cây cao su 
1 Đặt vấn đề 
Tại Việt Nam, sản xuất và xuất khẩu cao su có tốc độ phát 
triển mạnh trong những năm gần đây. Hiện Việt Nam xuất 
khẩu cao su đến 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. 
Bên cạnh lợi ích kinh tế, việc phát triển cây cao su còn góp 
phần xây dựng và mở mang các vùng kinh tế mới, tạo công 
ăn việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần xóa đói giảm 
nghèo, đem lại hiệu quả rõ rệt về mặt xã hội. 
Cả nước hiện có hơn 500.000 ha cao su, được trồng tập 
trung ở Đông Nam Bộ (339.000 ha), Tây Nguyên (113.000 
ha), Bắc Trung Bộ (41.500 ha) và Duyên Hải Nam Trung 
Bộ (6.500 ha). Thấy được tiềm năng của thị trường cao su 
thế giới và lợi ích của việc phát triển cây cao su, Chính phủ 
đã quyết định mở rộng diện tích trồng cao su lên 600.000 
ha và đầu tư phát triển 200.000 ha cao su tại Lào và 
Campuchia. Với việc tăng diện tích và sản lượng cao su, 
Việt Nam hy vọng sẽ đạt 1,5 triệu tấn cao su thiên nhiên và 
hơn 1,5 triệu m3 gỗ cao su (gỗ tròn) trước năm 2020. 
Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Đắk Lắk được xác định là 
vùng trồng cao su lớn thứ 2 của cả nước. Theo qui hoạch 
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang trình 
Thủ tướng Chính phủ, trong những năm tới, diện tích đất 
trồng cao su tại vùng này có khả năng mở rộng thêm 
khoảng 100.000 ha. Tuy nhiên, phần lớn diện tích dự kiến 
chuyển đổi sang trồng cao su ở đây là đất rừng khộp, với 
độ phì nhiêu thấp: tầng canh tác mỏng, thành phần cơ giới 
nhẹ, nghèo hữu cơ, lẫn nhiều sỏi đá Đồng thời đây là 
những vùng có điều kiện tiểu khí hậu tương đối khắc 
nghiệt: lượng mưa thấp, nhiệt độ đất và không khí cao, gió 
bão mạnh 
Bài báo ―Đánh giá tổng hợp về sự phù hợp và thích nghi 
của các dự án chuyển đổi đất rừng khộp sang trồng cao su 
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk‖ góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa 
học và thực tiễn của việc chuyển đất rừng khộp sang trồng 
trồng cao su tại địa phương. 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 3 
22 
2 Phương pháp thực hiện 
Các phương pháp thực hiện bao gồm thu thập số liệu, lấy 
mẫu, phân tích, đánh giá sự phù hợp và thích nghi của điều 
kiện khí tượng, thủy văn, địa hình, thổ nhưỡng khi trồng 
cao su trên đất rừng khộp tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể như sau : 
- Thu thập số liệu thứ cấp gồm: 1) Niên giám thống kê của 
tỉnh, huyện, các báo cáo tình hình triển khai các dự án phát 
triển nông lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh, huyện; các số liệu 
về khí tượng, thủy văn, địa hình, thổ nhưỡng tại khu vực 
chuyển đổi đất rừng khộp sang trồng cao su; 2) Cấp xã như 
các báo cáo phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng 
năm 2016. 
- Khoan lấy mẫu đất tại phẫu diện RK1 (tọa độ 431.857; 
1.469.893 tại Tiểu khu 167, xã Ia Jlơi, huyện Ea Sup), phẫu 
diện RK2 (tọa độ 441.990; 1447.804 tại Tiểu khu 145, xã Ia 
Jlơi, huyện Ea Sup), phẫu diện 3 (tọa độ 423.602; 
1.444.230 tại Tiểu khu 277, xã Ea xã Cư M’lan, huyện Ea 
Sup). 
- Phân tích thành phần thổ nhưỡng theo chiều sâu tại các 
phẫu diện RK1, RK2, RK3 bao gồm pHKCl, tổng số % 
mùn, N, P2O5, K2O ; Nồng độ dễ tiêu của P2O5, K2O 
(mg/100g đất); Nồng độ cation trao đổi (trđ) của Ca2+, Mg2+ 
(lđl/100g đất khô); Thành phần cơ giới (%) của cát, đất thịt, 
sét. 
- Quan trắc sinh trưởng của cây cao su từ 6 tháng tuổi đến 5 
năm tuổi trồng trên đất rừng khộp, từ 6 tháng tuổi đến 7 
năm tuổi trên đất rừng thường xanh thông qua các chỉ tiêu 
số tầng lá, kích thước vanh (cm), năng suất (NS - tấn/ha) 
của 10 cây cao su tại huyện Ea Sup, Ea H’leo, TP. Buôn 
Ma Thuột. 
- Phỏng vấn cán bộ huyện, xã; các chủ dự án cao su; người 
dân địa phương có liên quan đến các dự án chuyển đổi rừng 
trồng cao su; 
- Khảo sát kết hợp với phỏng vấn và ghi nhận hiện trạng 
cao su trồng tại thực địa của các diện tích cao su trồng trên 
đất rừng chuyển đổi của các công ty, doanh nghiệp, chủ đầu 
tư các dự án tại địa phương nghiên cứu. 
3 Kết quả và thảo luận 
3.1 Đặc điểm và tình hình phát triển cây cao su 
3.1.1 Đặc điểm thực vật học của cây cao su 
Cây cao su hoang dại tại vùng nguyên quán Amazon là một 
loại cây đại mộc và có chu kì sống trên 100 năm. Khi được 
nhân trồng trong sản xuất với mật độ từ 400 đến 571 cây/ha 
với mục đích khai thác mủ, chu kì sống được giới hạn lại từ 
30 đến 35 năm. Kích thước và hình dáng cây cao su trong 
sản xuất trở nên nhỏ bé hơn so với cây ở tình trạng hoang 
dại, cao tối đa 25 - 30m và vanh thân tối đa là 1m. 
Trong sản xuất cây cao su được chia làm 2 giai đoạn: 
- Giai đoạn kiến thiết cơ bản: Là khoảng thời gian từ 5 - 8 
năm sau khi trồng. Đây là khoảng thời gian cần thiết để 
vanh thân cây cao su đạt được 50cm đo cách mặt đất 1m, 
tùy điều kiện sinh thái, chăm sóc và giống. 
- Giai đoạn kinh doanh: Là khoảng thời gian khai thác mủ 
cao su. Cây cao su được khai thác khi có trên 50% tổng số 
cây, có vanh thân đạt ≥ 50cm, giai đoạn kinh doanh có thể 
dài từ 25 đến 30 năm. 
Cây cao su có hệ thống rễ rất phát triển bao gồm rễ cọc và 
rễ bàng. Rễ cọc có thể rất sâu, nếu đất có cấu trúc tốt có thể 
ăn sâu tới 10m, thông thường là từ 3 đến 5m. Hệ thống rễ 
bàng của cây cao su 7-8 năm tuổi có thể lan rộng 6-7m, ở 
năm tuổi thứ 24 rễ có thể lan rộng 10-15m. 
Lá cao su là lá kép gồm có 3 lá chét với phiến lá nguyên, 
mọc cách. Kích thước, màu sắc của lá có thể thay đổi theo 
môi trường. Thông thường từ năm thứ 3 trở đi sau khi 
trồng, bộ lá cao su được thay hàng năm vào khoảng thời 
gian từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau. 
Hoa cao su là hoa đơn tính đồng chu có hoa cái và hoa đực 
mọc trên cùng một nhánh, mỗi nhánh có 10-12 chùm, mỗi 
chùm có khoảng 15-20 hoa cái có kích thước lớn hơn hoa 
đực, mọc riêng lẻ ở đầu cành. Hoa đực mọc đều khắp trong 
chùm với tỉ lệ gấp 60 lần hoa cái, tuy vậy không tự thụ phấn 
mà giao phấn chéo nhờ côn trùng. 
3.1.2. Tình hình phát triển cây cao su tại Việt Nam 
Cây cao su ban đầu chỉ mọc tại khu vực rừng mưa Amazon 
(Nguyễn Thị Huệ,1997) [1 . Cách đây gần 10 thế kỉ, thổ 
dân Mainas sống ở đây đã biết lấy nhựa của cây này tẩm 
vào quần áo chống ẩm ướt, và tạo ra những quả bóng vui 
chơi trong các dịp hội hè. Do nhu cầu tăng lên và sự phát 
minh ra công nghệ lưu hóa vào năm 1839 đã dẫn tới sự 
bùng nổ các đồn điền cao su. 
Cao su được trồng ở nước ta từ năm 1877 do người Pháp 
mang vào. Vườn ươm giống cao su đầu tiên được lập ở đồn 
điền Balland (nay thuộc xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, 
TP.Hồ Chí Minh) do một người Pháp tên Pierre phụ trách 
nhưng không thành công. 
Năm 1897, toàn quyền Paul Doumer cho lập 2 trung tâm 
nghiên cứu khác: Một ở Suối Dầu (Nha Trang) do BS 
Yersin phụ trách, Trung tâm thứ hai ở khu Bàu Ông Yệm 
(Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương) do một sĩ quan quân y 
Pháp tên là Raoul phụ trách. Cả 2 nơi này đều thành công 
nhưng chỉ những cây cao su ở Lai Khê được chọn để nhân 
giống trồng đại trà ở Việt Nam (Jean Le Bras, 1949) [2]. 
Như vậy, cây cao su được du nhập vào VN được khoảng 
110 năm. Thời rực rỡ của trồng và sản xuất cao su thiên 
nhiên ở Việt Nam là các năm 1920 - 1940. Năm 1930 đã 
khai thác trên 10.000 ha, sản xuất 11.000 tấn. Năm 1950, 
sản xuất 92.000 tấn, trên diện tích khai thác gần 70.000 ha. 
Cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60, Việt Nam phát động 
phong trào cao su tiểu điền như Malaysia, Indonesia và 
Thailand, nhưng với nét khác biệt là chương trình cao su 
dinh điền. Các tiểu điền cao su dinh điền thiết lập liên canh, 
liên địa thành diện tích lớn với các dòng năng suất cao lúc 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
23 Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 3 
đó là GT1, PB86 Trong khoảng 5 năm, từ 1958 đến 
1963, diện tích cao su dinh điền đã lên đến 30.000 ha. 
Trong thập niên 1970, không còn hỗ trợ phát triển tư nhân 
tiểu điền cao su nữa. 
Theo thống kê năm 1976, tổng diện tích cao su Việt Nam là 
76.600 ha (riêng các tỉnh phía Bắc có khoảng 5.000 ha), với 
sản lượng 40.200 tấn. Trong thập niên 80, chính sách đổi 
mới bắt đầu cho phép tiểu nông thuê khai thác tiểu điền, đã 
đem lại phần nào sinh khí cho ngành cao su Việt Nam. Tuy 
nhiên, do giá cao su vào thập niên 80 giảm mạnh, các tiểu 
điền cũng như đồn điền cũ chưa tạo ra được bước phát triển 
đáng kể cho ngành cao su Việt Nam. 
Năm 1990, diện tích cao su Việt Nam là 250.000 ha và sản 
lượng là 103.000 tấn. Nhờ chủ trương phát triển kinh tế thị 
trường những năm 90, cao su tiểu điền được khuyến khích 
phát triển, và cũng trong thời kì này giá cao su xuất khẩu đã 
lên đến 1.500 USD/tấn, và ngành cao su khởi sắc trở lại. 
Đến năm 2000, sản lượng cao su đạt 290,8 ngàn tấn. 
Trước tình hình cạnh tranh đất trồng giữa các loại cây công 
nghiệp khác có cùng yêu cầu sinh thái như cà phê, hồ tiêu, 
cây ăn quả... Chính phủ đã chủ trương chỉ phát triển ngành 
cao su với qui mô 400.000 ha. Tuy nhiên, đến năm 2001 
diện tích cao su trên toàn quốc đã lên tới trên 405.000 ha, 
và các địa phương vẫn tiếp tục ủng hộ phát triển cao su, 
nhất là các tỉnh Duyên hải miền Trung. 
Năm 2005, Việt Nam là nước sản xuất cao su thiên nhiên 
đứng thứ 6 trên thế giới (sau Thái Lan, Indonesia, Malaysia, 
Ấn Độ, và Trung Quốc). Vị thế của ngành cao su Việt Nam 
trên thế giới ngày càng được khẳng định. 
Sau năm 2005, nhờ sản lượng tăng nhanh hơn Trung Quốc, 
Việt Nam đã vươn lên hàng thứ 5. Riêng về xuất khẩu, từ 
nhiều năm qua, Việt Nam đứng hàng thứ 4 thế giới[3]. 
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Qui hoạch phát triển cao 
su đến 2020 trên quan điểm phát triển cao su cần dựa trên 
nhu cầu của thị trường, khai thác và phát huy có hiệu quả 
lợi thế về đất đai, tự nhiên ở một số vùng để phát triển bền 
vững. Định hướng qui hoạch cao su được tập trung ở 5 
vùng chính: vùng Đông Nam Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng 
Duyên Hải Nam Trung Bộ, vùng Bắc Trung Bộ và các tỉnh 
vùng Tây Bắc (Quyết định 750/QĐ-TTg, 2009) [4]. 
3.2 Đặc điểm và phân bố rừng khộp 
Rừng khộp là một kiểu rừng thưa nhiệt đới. Thành phần 
gồm cây xanh rụng lá xen lẫn cây thường xanh ở mức độ 
khác nhau, nhưng không phải rừng thường xanh. 
Rừng khộp có cấu trúc đơn giản, cấp tuổi không đồng đều, 
năng suất sinh trưởng thấp. Năng lực tái sinh kém, thường 
không quá 10.000 cây/ha. Rừng đã qua khai thác tái sinh 
càng kém, khoảng 1.500 - 3.000 cây/ha. Điều kiện sinh thái 
khá cực đoan, chỉ chấp nhận cho những loại cây nào chịu 
được nạn lửa rừng hàng năm. Cây chỉ thị trong rừng khộp 
là những loài thuộc họ Dầu như: dầu Đọt Tím, dầu Bao, dầu 
Rái, Kiền Kiền, Vên Vên, Sao, Sến, Chò Tàu. 
Tại Việt Nam, rừng khộp được phân bố chủ yếu ở Tây 
Nguyên, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Một 
số địa phương có diện tích rừng khộp lớn và phân bố tập 
trung như Ea Súp, Ea H’leo tỉnh Đắk Lắk; Chư Sê, Chư 
Prông tỉnh Gia lai. Riêng huyện Ea Sup có 357.114ha rừng 
khộp, chiếm hơn 70% diện tích rừng khộp vùng Tây 
Nguyên. 
3.3 Điều kiện khí hậu và đất đai rừng khộp 
3.3.1 Điều kiện khí hậu 
Rừng khộp Đắk Lắk ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió 
mùa, mang tính chất nóng, ẩm và phân thành hai mùa rõ rệt. 
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 
đến tháng 4 năm sau. 
Số liệu thu thập được từ các địa phương có diện tích rừng 
khộp lớn và đặc trưng nhất tại Đắk Lắk được trình bày tại 
bảng 1. 
 Bảng 1 Đánh giá tổng quát khí hậu một số khu vực tại Tây Nguyên 
Khu vực Mưa (mm/năm) Tổng nhiệt (oC) Chỉ số ẩm Đánh giá Chú thích 
Bắc bình nguyên Ea Sup 9.000 <0,5 Rất nóng, khô Vùng rừng khộp 
Nam bình nguyên Ea Sup 1.400-1.600 >9.000 0,5-1,0 Rất nóng, hơi ẩm Vùng rừng khộp 
Đông cao nguyên Ea H’leo 1.400-1.600 8.500-9.000 <0.5 Nóng, hơi ẩm Vùng rừng khộp 
Tây cao nguyên Ea H’leo 1.400-1.600 8.500-9.000 0,5-1,0 Rất nóng, hơi ẩm Vùng rừng khộp 
Đông Bắc Buôn Ma Thuột 1.400-1.600 8.500-9.000 1,0-1,5 Nóng, ẩm vừa - 
Tây Nam Buôn Ma Thuột 1.600-1.800 8.500-9.000 1,5-2,0 Nóng, rất ẩm - 
 Nguồn: [5] 
3.3.1.1 Vùng Buôn Đôn-Ea Sup 
Nhiệt độ không khí trung bình dao động từ 21,80C đến 
26,7
0
C; trung bình nhiều năm là 24,50C. Nhiệt độ tối cao 
tuyệt đối là 38,90C. Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối là 9,80C. 
Lượng mưa vùng này khá thấp, bình quân nhiều năm đạt 
1.533,5mm/năm, số ngày mưa đạt bình quân 151 ngày/năm. 
Mưa tập trung nhiều nhất vào tháng 8 và tháng 9. Lượng 
mưa của mùa mưa chiếm gần 90% lượng mưa cả năm. 
Tháng có lượng mưa cao nhất là 484,5mm (tháng 9/2006), 
thấp nhất là không có mưa. Vì vậy, có hiện tượng ngập úng 
cục bộ vào mùa mưa và hạn hán vào mùa khô. 
Độ ẩm không khí biến động từ 73 % đến 85%, trung bình 
nhiều năm đạt 80%. Độ ẩm trung bình tháng cao nhất là 
88% (tháng 9/2005), thấp nhất 70% (tháng 4/2003). Độ ẩm 
không khí liên quan chặt chẽ đến tình trạng hanh khô, rất dễ 
xảy ra cháy rừng. 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 3 
24 
Vùng Ea Sup chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính là gió 
mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc. Vận tốc gió trung 
bình chỉ có 2,4m/s. Vận tốc gió cực đại là 14m/s (tháng 
8/2005). 
Tổng lượng bốc thoát hơi nước bình quân khoảng 
1.327,7mm/năm, lượng bốc hơi cao điểm tập trung vào 4 
tháng. Yếu tố này cảnh báo vùng dự án rất dễ xảy ra hạn 
hán vào mùa khô. 
Số ngày có sương mù bình quân là 5,8 ngày/năm. Yếu tố 
này ít ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây nông 
lâm nghiệp. 
3.3.1.2 Vùng Ea H’leo 
Lượng mưa bình quân hàng năm 1.600mm nhưng chủ yếu 
tập trung trong 6 tháng mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10), 
gây ra hiện ngập úng, xói lở ... cây trồng 
nói chung và cây cao su nói riêng. Mức độ khắc nghiệt có 
thể sẽ gia tăng trong giai đoạn cây rừng bị triệt hạ mà thảm 
phủ cây cao su chưa được hình thành. Do đó, ngoài các giải 
pháp kĩ thuật nhằm giảm thiểu tác động của điều kiện thời 
tiết khí hậu bất lợi trong quá trình sản xuất cao su, thì lộ 
trình chuyển đổi từ rừng sang phát triển cây cao su cũng 
cần được cân nhắc một cách hợp lí, tránh tạo nên sự phá 
hủy thảm phủ đột ngột trên phạm vi rộng, vì rất có thể ảnh 
hưởng không tốt đến môi trường sinh thái của vùng. 
3.4.2.2 Về đất 
Các vùng rừng khộp thường phân bố ở độ cao tuyệt đối 
<600m, thích hợp với cây cao su. Các chỉ tiêu độ dốc, tầng 
dày, mức độ sỏi đá rất khác nhau giữa các tiểu khu, khoảnh 
hoặc các khoanh đất nhỏ hơn, do đó để đánh giá mức độ 
thích nghi cần có sự khảo sát chi tiết, ít nhất với tỉ lệ bản đồ 
1/10.000 (xem Bảng 4). 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
27 Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 3 
Ngoại trừ một số diện tích đất có tầng sỏi sạn sâu (<10% 
tổng diện tích rừng khộp tây Nguyên) với thành phần cơ 
giới thịt pha cát, thích hợp với cây cao su. Phần lớn diện 
tích còn lại có thành phần cơ giới tầng mặt là cát hoặc cát 
pha, kết cấu đất rời rạc dễ gây đổ ngã đối với cây cao su, 
khả năng giữ nước và dinh dưỡng kém, hấp thu nhiệt và tỏa 
nhiệt nhanh, làm cho mặt đất nóng lên rất nhanh khi trời 
nắng, nhất là vào buổi trưa, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển 
của bộ rễ. Cách mặt đất khoảng 20 - 40cm là tầng có kết 
von và sỏi đá, bên dưới có tích sét, dễ gây úng cục bộ trong 
mùa mưa. 
Hàm lượng mùn tầng mặt trong đất rừng khộp biến động từ 
trung bình đến nghèo và rất nghèo, do đó ưu tiên trồng cao 
su tại các khoanh đất được xác định có hàm lượng mùn 
>1,5%. Trong trường hợp phải trồng cao su trên chân đất có 
hàm lượng mùn 1,0 -1,5% thì việc đào hố có kích thước 
lớn, bón lót nhiều phân hữu cơ hơn so với qui trình hiện 
hành khi trồng mới cao su là biện pháp kĩ thuật canh tác cần 
được khuyến cáo. Không nên phát triển cao su trên các 
chân đất có hàm lượng mùn tầng mặt < 1%. 
3.5.Thực trạng phát triển cao su trên đất rừng khộp 
Để thực hiện chủ trương của Chính phủ về vấn đề phát triển 
cây cao su tại Việt nam, tỉnh Đắk Lắk đã tiến hành khảo sát, 
lập qui hoạch phát triển cây cao su tại địa phương. 
- Các loại hình sử dụng đất nông nghiệp kém hiệu quả, 
nhưng thích nghi với việc phát triển cây cao su, thì có thể 
chuyển đổi sang trồng cây cao su. Qui mô phát triển cao su 
trên các loại hình sử dụng đất này chủ yếu là cao su tiểu 
điền. Do năng lực của các chủ hộ cao su tiểu điền còn nhiều 
mặt hạn chế, dễ bị tổn thương bởi những biến động của thị 
trường và những rủi ro trong sản xuất, nên chỉ khuyến 
khích hộ chuyển đổi sang trồng cao su trên các loại đất có 
mức thích nghi S1 và S2, không khuyến khích nhóm này 
trồng cao su trên diện tích có mức thích nghi S3. 
- Đối với đất lâm nghiệp: Chủ yếu do nhà nước, các khu 
vực dự kiến chuyển đổi sang trồng cao su có diện tích lớn 
nên hướng chính là phát triển cao su đại điền. 
Phần lớn loại hình đất được chuyển đổi ở đây là đất rừng 
nghèo, đặc biệt là rừng khộp nghèo, lại nằm trong những 
vùng có điều kiện tiểu khí hậu và thời tiết khắc nghiệt. Do 
đó tập trung ưu tiên mở rộng diện tích cao su trên các loại 
đất có mức thích nghi S1 và S2. Với đất có mức thi nghi S3 
chỉ tiến hành thử nghiệm. 
So với các đất trồng cao su truyền thống (đất khai phá từ 
rừng thường xanh, bán thường xanh, đất trồng hoa màu, đất 
chuyển đổi từ các vườn cây lâu năm) thì đất rừng khộp 
có độ dày tầng canh tác không ổn định giữa các phẫu diện 
khảo sát, biến động từ 30cm đến 120cm. Hàm lượng hữu cơ 
tổng số trong đất rừng khộp chỉ đạt 1,754%, cá biệt có một 
số phẫu diện hàm lượng hữu cơ tầng mặt nằm dưới ngưỡng 
yêu cầu của cây cao su (OM < 1%). Hàm lượng các yếu tố 
dinh dưỡng khoáng N, P, K, Ca, Mg trong đất rừng khộp 
đều thấp hơn đáng kể so với đất trồng cao su truyền thống. 
Thành phần cơ giới của đất rừng khộp chủ yếu là cát, trung 
bình hàm lượng cát chiếm 72,75% (Bảng 5). 
Bảng 3 Yêu cầu về khí hậu của cây cao su và điều kiện rừng khộp 
Chỉ tiêu Yêu cầu 
Khu vực 
Buôn Đôn- Ea Sup Ea H’leo 
 Nhiệt độ trung bình 
(oC) 
25 – 30 21,8 -26,7 21,7 
 Nhiệt độ tối cao (oC) 40 38,9 36,6 
 Nhiệt độ tối thấp (oC) 10 9,8 11,3 
 Lượng mưa (mm/năm) 1500–2000 1.533,5 1.600 
 Số ngày mưa/năm 100 – 150 > 150 > 150 
 Vận tốc gió (m/s) 1 – 2 2,4 3 ,0 – 3,5 
Nguồn: [7] 
 Bảng 4 Yêu cầu về đất của cây cao su và điều kiện rừng khộp 
Yêu cầu của cây cao su 
Đất rừng khộp 
Sỏi sạn nông Sỏi sạn sâu Thành phần cơ giới phân dị 
Độ cao tuyệt đối <700m 300 - 600m 170-300m 170 – 600 
Độ dốc 8o 0-8o 0 - 25 o 
Độ dày tầng đất hữu ích >70cm <60cm 80-120cm 60-100cm 
Độ sâu mực nước ngầm >1,2m > 1,2m < 1,2m Biến động 
Thành phần cơ giới (thịt nhẹ đến nặng) Cát pha thịt Thịt pha cát Cát, sét đan xen 
Kết von trong tầng canh tác 60 % 0- 25 % 25 - 50% 
Hàm lượng mùn tầng đất mặt >1% <1,0% 1,0-2,0% 1,0 - 1,5% 
pH KCl: 4,0 - 6,0 TB: 4,5 TB: 4,5 TB: 4,5 
 Nguồn: [7] 
 Bảng 5 So sánh tính chất rừng khộp và đất trồng cao su truyền thống (n = 10) 
Chỉ tiêu 
Đất rừng khộp Đất trồng cao su truyền thống 
Min Max TB Min Max TB 
Tầng dày (cm) 30 125 87.5 105 120 118.5 
pHKCl 4.02 4.78 4.49 4.1 4.5 4.33 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 3 
28 
OM (%) 0.97 2.75 1.754 2.71 4.22 3.621 
Nts (%) 0.05 0.15 0.084 0.14 0.21 0.18 
P2O5ts (%) 0.07 0.09 0.076 0.1 0.22 0.191 
K2Ots(%) 0.08 0.10 0.089 0.06 0.11 0.085 
P2O5dt (mg/100g) 2.1 5.1 3.14 2.4 7.3 5.02 
K2Odt (mg/100g) 4.4 13.5 8.01 12.2 17.6 14.74 
Ca
++ (lđl/100g) 0.76 1.88 1.164 1.4 2.6 2.04 
Mg
++ (lđl/100g) 0.56 1.05 0.788 1.2 2.4 1.88 
Cát (%) 68 76.5 72.25 9.3 50.2 14.69 
Thịt (%) 13 18.7 15.21 31.3 36.1 33.79 
Sét (%) 10 15.8 12.54 18.5 56.7 51.52 
 Nguồn: [7] 
Tầng canh tác mỏng và thành phần cơ giới cát cao là những 
hạn chế cơ bản nhất của đất rừng khộp đối với sự sinh 
trưởng, phát triển của cây cao su. Do vậy trong trường hợp 
này không nên sử dụng máy móc qui trình đầu tư cho cao 
su trên các loại đất truyền thống, mà cần canh tác theo qui 
trình đặc thù dành cho đất rừng khộp. 
Kết quả điều tra khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Đất, 
Phân bón và Môi trường Tây Nguyên trên đất rừng khộp 
cho thấy tỉ lệ diện tích không thích hợp cho việc trồng cao 
su khá cao, biến động từ 33,3 đến 44,45%, trung bình 
38,09%; phần diện tích thích nghi chủ yếu ở mức S3, với 
43,26%; mức thích nghi S2 chỉ chiếm18,65%; không có 
diện tích thích nghi ở mức S1 (Bảng 6). Do vậy, để tránh 
rủi ro trong quá trình đầu tư chuyển đổi, nhất thiết phải có 
bước điều tra, qui hoạch, đánh giá thích nghi trước khi bố 
trí trồng cao su trên vùng đất rừng khộp. 
Thực tế, việc trồng cao su trên đất rừng khộp đã và đang 
diễn ra tại nhiều nơi như Buôn Đôn, Ea Sup, Ea H’leo,... 
Kết quả khảo sát cho thấy, trong 2 năm đầu sinh trưởng của 
cây cao su trên đất rừng khộp không thua kém cao su trên 
đất nương rẫy, đất khai phá từ rừng thường xanh, bán 
thường xanhNhưng sang năm thứ 3, bắt đầu có sự biểu 
hiện khác nhau, theo đó, đường vanh cây cao su trên đất 
rừng khộp thường thấp hơn so với đất trồng cao su truyền 
thống ở cùng độ tuổi. Nguyên nhân là do hầu hết cao su 
trên đất rừng khộp được trồng từ cây stump bầu có ít nhất 3 
tầng lá, với giá thể bầu ươm khá tốt, lại được đầu tư chăm 
sóc hợp lí, đặc biệt là đầu tư phân khoáng và hữu cơ. 
Nhưng thời gian sau đó, nhu cầu về dinh dưỡng của cây cao 
su cao hơn, trong khi khi bộ rễ đã vươn ra khỏi phạm vi bầu 
ươm và hố trồng, quá trình hút dinh dưỡng của cây gặp khó 
khăn hơn do những hạn chế về tầng dày, độ lẫn sỏi đá và 
vấn đề dinh dưỡng của đất rừng khộp (xem Bảng 7).
 Bảng 6 Kết quả phân hạng thích nghi đất trồng cao su tại một số Dự án 
Chủ dự án Địa điểm DT (ha) 
Phân hạng (ha) Tỉ lệ 
N (%) S1 S2 S3 N 
Công ty Địa ốc CS Sài Gòn TK 14, 29, Ea H’leo 1282,88 - 264,52 515,24 503,12 39,22 
Công ty Hải Hà TK 276, Ea Sup 732,11 - 488,29 - 243,82 33,30 
Công ty Anh Quốc TK 293, Ea Sup 1204,10 - 83,24 668,89 451,97 37,54 
Công ty Phước Hòa TK 233, Ea Sup 943,85 - - 577,42 366,43 38,83 
Công ty Hải Hà TK 17, Ea H’leo 319,991 177,755 142,236 44,45 
Tổng 4482,93 0,00 836,05 1939,31 1707,58 
 % 100,00 0,00 18,65 43,26 38,09 
 Nguồn: [7] 
 Bảng 7 Sinh trưởng cao su trên đất rừng khộp và đất khác (n=10) 
Tuổi 
Thực bì trước 
cao su 
Số tầng lá Vanh D1,0 (m) 
Năng suất 
(T/ha) 
TB Sx TB Sx 
6 tháng 
Rừng khộp 5,05 0,72 
Rẫy, rừng xanh 5,10 0,74 
12 tháng 
Rừng khộp 7,60 1,07 
Rẫy, rừng xanh 7,80 1,03 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
29 Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 3 
Tuổi 
Thực bì trước 
cao su 
Số tầng lá Vanh D1,0 (m) 
Năng suất 
(T/ha) 
TB Sx TB Sx 
18 tháng 
Rừng khộp 7,37 0,61 
Rẫy, rừng xanh 7,84 0,72 
24 tháng 
Rừng khộp 9,09 0,90 
Rẫy, rừng xanh 10,41 1,22 
3 năm 
Rừng khộp 13,90 0,79 
Rẫy, rừng xanh 15,62 1,30 
4 năm 
Rừng khộp 17,10 0,81 
Rẫy, rừng xanh 20,63 0,71 
5 năm 
Rừng khộp 23,10 1,30 
Rẫy, rừng xanh 29,06 0,92 
6 năm 
Rừng khộp - - - 
Rẫy, rừng xanh 39,65 0,73 0,3 
7 năm 
Rừng khộp - - - 
Rẫy, rừng xanh 49,01 3,54 0,5 
 D1,0: Đường vanh cách gốc 1,0 m 
 Nguồn: [7] 
Kết quả điều tra cho thấy, trong 2 năm đầu sinh trưởng của 
cây cao su trên đất rừng khộp có xu hướng kém hơn cao su 
trên đất nương rẫy, đất khai phá từ rừng thường xanh, bán 
thường xanh, nhưng sự thua kém đó không nhiều, nhờ hầu 
hết cao su trên đất rừng khộp được trồng từ cây stump bầu 
có ít nhất 3 tầng lá, với giá thể bầu ươm khá tốt. Tuy vậy, từ 
năm thứ 3 trở đi sự khác biệt về sinh trưởng biểu hiện khá 
rõ, theo đó, đường vanh cây cao su trên đất rừng khộp thấp 
hơn so với đất trồng cao su truyền thống ở cùng độ tuổi, do 
lúc này nhu cầu về dinh dưỡng của cây cao hơn, trong khi 
bộ rễ đã vươn ra khỏi phạm vi bầu ươm và hố trồng, quá 
trình hút dinh dưỡng của cây gặp khó khăn hơn vì những 
hạn chế về tầng dày, độ lẫn sỏi đá và vấn đề dinh dưỡng của 
đất rừng khộp (xem Bảng 7). 
Do vậy, cần thiết phải có chế độ đầu tư thâm canh đặc thù 
để khắc phục các yếu tố hạn chế của đất rừng khộp đối với 
sự sinh trưởng, phát triển của cây cao su. 
4 Kết luận - kiến nghị 
4.1 Kết luận 
- Điều kiện khí hậu rừng khộp tương đối phù hợp với yêu 
cầu sinh trưởng phát triển của cây cao su. Tuy vậy vẫn có 1 
số chỉ tiêu khá khắc nghiệt như: lượng mưa phân bố tập 
trung theo mùa, gây ẩm thấp, ngập úng trong mùa mưa và 
khô hạn trong mùa khô; Nhiệt độ tối cao và tối thấp đều 
chạm ngưỡng giới hạn đối với yêu cầu của cây cao su. 
- Phần lớn diện tích rừng khộp có thành phần cơ giới tầng 
mặt là cát hoặc cát pha, kết cấu đất rời rạc, nghèo mùn, khả 
năng giữ nước và dinh dưỡng kém, hấp thu nhiệt và tỏa 
nhiệt nhanh, ở độ sâu cách mặt đất khoảng 20 - 40cm là 
tầng kết von và sỏi đá, bên dưới có tích sét, dễ gây úng cục 
bộ trong mùa mưa. 
3. Tỉ lệ diện tích đất rừng khộp thích hợp cây cao su khá 
thấp, trong đó chủ yếu là mức thích nghi S2 và S3, không 
có diện tích thích nghi ở mức S1. 
4. Trong 2 năm đầu sinh trưởng của cây cao su trên đất 
rừng khộp có xu hướng kém hơn cao su trên đất nương rẫy, 
đất khai phá từ rừng thường xanh, bán thường xanhTừ 
năm thứ 3 trở đi sự khác biệt biểu hiện càng rõ hơn, theo 
đó, đường vanh cây cao su trên đất rừng khộp thấp hơn so 
với đất trồng cao su truyền thống ở cùng độ tuổi. 
4.2 Kiến nghị 
- Song song với các giải pháp kĩ thuật nhằm giảm thiểu tác 
động của điều kiện thời tiết khí hậu bất lợi trong quá trình 
sản xuất cao su như chọn giống có khả năng chống chịu 
cao, trồng cây phủ đất, tạo đai rừng chắn gió, thì lộ trình 
chuyển đổi từ rừng sang phát triển cây cao su cũng cần 
được cân nhắc một cách hợp lí, tránh tạo nên sự phá hủy 
thảm phủ đột ngột trên phạm vi rộng, vì rất có thể ảnh 
hưởng không tốt đến môi trường sinh thái của vùng. 
- Ưu tiên trồng cao su tại các khoanh đất được xác định 
mức thích nghi S1 (rất thích nghi), S2 (thích nghi vừa). 
Trong trường hợp phải trồng cao su trên chân đất có mức 
thích nghi S3 (kém thích nghi) thì việc tăng cường đầu tư 
thâm canh như: đào hố có kích thước lớn, bón lót nhiều 
phân hữu cơ hơn so với qui trình hiện hành khi trồng mới 
cao su là biện pháp kĩ thuật canh tác cần được khuyến 
cáo. 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 3 
30 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Thị Huệ, 1997 - Cây cao su - Kiến thức tổng quát và kĩ thuật nông nghiệp, Nhà xuất bản trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
2. Jean Le Bras, 1949 - L’histoire du plant de Caoutchouc du Vietnam‖, Paris 
3. Trần Đức Viên, 2004 - Phát triển bền vững ngành cao su Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội. 
4. Quyết định 750/QĐ-TTg, 2009 - Phê duyệt Qui hoạch phát triển cao su đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, Hà Nội, 
ngày 3/6/2009. 
5. Trần An Phong, 2003 - Sử dụng tài nguyên đất và nước hợp lí làm cơ sở phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh Đak Lak. 
6. Thông tư 58/2009/TT-BNNPTNT, 2009 - Hướng dẫn việc trồng cao su trên đất lâm nghiệp, Hà Nội, ngày 9/9/2009. 
7. Phùng Chí Sỹ và CTV. Báo cáo tổng hợp đề tài ―Nghiên cứu ứng dụng công cụ kinh tế môi trường để đánh giá tác động 
của việc trồng cao su trên đất rừng Khộp tại tỉnh Đắk Lắk‖, Tháng 2/2018. 
Integrated Assessment of Suitability and Adaptation of the project of conversion of 
Dipterocarpaceae forest into rubber plantation in Dak Lak province 
Trinh Cong Tu
1
, Phung Chi Sy
2
1
Tay Nguyen Center for Soil and Environment Research 
2
Nguyen Tat Thanh University 
entecvn@yahoo.com 
Abstract The results of surveys, investigation and assessment show that the climate conditions of Dipterocarpaceae forests 
are relatively suitable for the growth and development of rubber trees. However, there are some rather severe indicators such 
as seasonal rainfall distribution, low humidity, inundation in rainy season and drought in the dry season; High and low 
temperatures reach the limit for the requirement of rubber trees. Most of Dipterocarpaceae forest area consists of sandy or 
sandy soil, discrete soil texture, poor humus, poor water and nutrient retention, rapid heat absorption and transfer, at depths 
away from the surface of 20 - 40 cm is tombstone and gravel layer, under the clay, easily cause local inundation in the rainy 
season. The proportion of Dipterocarpaceae forest land, which suitable for rubber trees is quite low, with the majority of 
adaptation levels S2 and S3, no suitable area at S1 level. In the first 2 years, the growth of rubber trees in Dipterocarpaceae 
forest is less than that of rubber in upland fields, cleared land from evergreen forest, semi-evergreen forest. From the third 
year onwards, the difference in expression is clearer, in that the rubber tree’s diameter on the soil of the Dipterocarpaceae 
forest is lower than that of the traditional rubber plantation at the same age. 
Keywords suitability, adaptation, dipterocarpaceae forest, forest conversion, rubber trees. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tong_hop_ve_su_phu_hop_va_thich_nghi_cua_cac_du_an.pdf