Đánh giá tình trạng ngừng thở khi ngủ ở trẻ mắc hen phế quản và một số yếu tố liên quan

Ngừng thở khi ngủ thường làm nặng lên bệnh lý hen phế quản. Nghiên cứu tình trạng ngừng thở khi

ngủ (OSA) ở nhóm bệnh nhi mắc hen thông qua các chỉ số ngừng thở giảm thở khi ngủ AHI và mối liên

quan của các chỉ số này với các biểu hiện lâm sàng giúp thầy thuốc tìm ra yếu tố ảnh hưởng đến tình

trạng nặng của hen. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi nhóm trẻ mắc hen trong nghiên cứu từ 5-10

tuổi. 81,6% số trẻ trong nhóm nghiên cứu có biểu hiện OSA, chủ yếu ở mức trung bình và nhẹ. Có mối

tương quan giữa biểu hiện ngáy khi ngủ, mức độ nặng của hen với OSA, trẻ ngáy khi ngủ có nguy

cơ mắc OSA cao gấp lần 3,7 lần so với trẻ không ngáy khi ngủ, trẻ mắc hen mức độ nặng có nguy cơ bị

OSA cao gấp 6,9 lần so với trẻ hen nhẹ và trung bình. Như vậy: Hen phế quản và OSA thường song hành

với nhau. Có mối tương quan giữa ngủ ngáy, mức độ nặng của hen với chỉ số ngừng thở giảm thở AHI.

pdf 6 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tình trạng ngừng thở khi ngủ ở trẻ mắc hen phế quản và một số yếu tố liên quan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tình trạng ngừng thở khi ngủ ở trẻ mắc hen phế quản và một số yếu tố liên quan

Đánh giá tình trạng ngừng thở khi ngủ ở trẻ mắc hen phế quản và một số yếu tố liên quan
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020 135
 ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG NGỪNG THỞ KHI NGỦ Ở 
TRẺ MẮC HEN PHẾ QUẢN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Nguyễn Thị Bình , Nguyễn Thị Diệu Thúy
Trường Đại học Y Hà Nội
Ngừng thở khi ngủ thường làm nặng lên bệnh lý hen phế quản. Nghiên cứu tình trạng ngừng thở khi 
ngủ (OSA) ở nhóm bệnh nhi mắc hen thông qua các chỉ số ngừng thở giảm thở khi ngủ AHI và mối liên 
quan của các chỉ số này với các biểu hiện lâm sàng giúp thầy thuốc tìm ra yếu tố ảnh hưởng đến tình 
trạng nặng của hen. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi nhóm trẻ mắc hen trong nghiên cứu từ 5-10 
tuổi. 81,6% số trẻ trong nhóm nghiên cứu có biểu hiện OSA, chủ yếu ở mức trung bình và nhẹ. Có mối 
tương quan giữa biểu hiện ngáy khi ngủ, mức độ nặng của hen với OSA, trẻ ngáy khi ngủ có nguy 
cơ mắc OSA cao gấp lần 3,7 lần so với trẻ không ngáy khi ngủ, trẻ mắc hen mức độ nặng có nguy cơ bị 
OSA cao gấp 6,9 lần so với trẻ hen nhẹ và trung bình. Như vậy: Hen phế quản và OSA thường song hành 
với nhau. Có mối tương quan giữa ngủ ngáy, mức độ nặng của hen với chỉ số ngừng thở giảm thở AHI. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Hen, ngừng thở khi ngủ- OSA, chỉ số ngừng thở-giảm thở AHI
Hen phế quản (HPQ) là một bệnh viêm 
mạn tính đường hô hấp, các triệu chứng lâm 
sàng của bệnh hen sẽ trở nên trầm trọng hơn 
ở những bệnh nhi có các bệnh lý phối hợp như 
amidan quá phát, nhiễm virus đường hô hấp, dị 
ứng. Gần đây với sự phát triển của các kỹ thuật 
thăm dò giấc ngủ, tình trạng ngừng thở khi ngủ 
cũng là một bệnh lý phối hợp được phát hiện 
trên bệnh nhân HPQ. Nghiên cứu của Nguyễn 
Hoàng Yến và cộng sự năm 2017 cho thấy tỷ lệ 
ngừng thở khi ngủ trên bệnh nhi hen là 65,9%.¹
Ngừng thở khi ngủ (obstructive sleep apnea-
OSA) đặc trưng bởi sự xuất hiện những cơn 
ngừng thở và/ hoặc giảm thở trong khi ngủ, hiện 
tượng ngừng lưu thông dòng khí thở (ngừng 
thở) hay giảm dòng khí trên 50% trong hơn 10 
giây, xuất hiện trên 5 lần/giờ.² OSA là chứng 
rối loạn hô hấp phổ biến nhất trong khi ngủ.³ Ở 
trẻ em tỷ lệ mắc OSA là khoảng 1,2% - 5,7%, 
tập trung nhiều ở lứa tuổi mầm non và tuổi học 
đường.⁴ Các nghiên cứu trước đây cho rằng 
hen phế quản và OSA có thể cùng tồn tại bởi vì 
chúng đều cùng cơ chế viêm mạn tính đường 
hô hấp.5,6 Trong một nghiên cứu tiến hành năm 
2016, Sánchez và cộng sự⁷ cho thấy tỷ lệ trẻ 
em bị HPQ có OSA cao hơn đáng kể so với các 
trẻ HPQ không có OSA và cả hai bệnh đều có 
một số triệu chứng tương tự trong khi ngủ, làm 
cho chẩn đoán nguyên nhân gây rối loạn giấc 
ngủ khó khăn hơn.
Ở trẻ em bị OSA, do tình trạng thiếu oxy liên 
tục vào ban đêm, về lâu dài có thể gây các tác 
động có hại đối với sự phát triển tâm lý, thể chất 
cũng như khả năng học tập và trí nhớ.8,9 Theo 
Salles và cộng sự, OSA gây ảnh hưởng đến 
việc kiểm soát hen và ngược lại, tình trạng hen 
phế quản làm OSA nặng nề hơn.⁴
Để phát hiện và làm rõ các bất thường hô 
hấp, người ta cần thu thập và ghi lại các tín 
hiệu có ý nghĩa của lưu lượng khí thở, gắng 
sức hô hấp và nồng độ oxy bão hòa trong máu. 
Đa ký hô hấp cho phép xác định được các cơn 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Bình, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 20/02/2020
Ngày được chấp nhận: 29/07/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020136
ngừng thở, giảm thở và kiểu của cơn ngừng 
thở là trung ương, tắc nghẽn hay hỗn hợp. Hiện 
nay có thiết bị đo đa ký hô hấp tại nhà rất tiện 
lợi, chi phí thấp. Nghiên cứu này sử dụng máy 
đo đa ký hô hấp để tìm hiểu cơn ngừng thở khi 
ngủ ở trẻ mắc hen, với mục tiêu: xác định tần 
suất mắc, mức độ và một số yếu tố liên quan 
đến ngừng thở khi ngủ ở trẻ hen phế quản tại 
Bệnh viện Nhi Trung ương.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
60 bệnh nhi được chẩn đoán hen phế quản 
(HPQ) đến khám và điều trị ngoại trú tại Bệnh 
viện Nhi Trung ương thời gian từ 9/2017 đến 
7/2018.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhi dưới 15 tuổi, 
ngoài cơn hen cấp được chẩn đoán HPQ theo 
tiêu chuẩn GINA 2017;10 Bệnh nhi và gia đình 
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhi HPQ có kèm 
theo các bệnh lý suy tim, bệnh thận, gan, thần 
kinh; Bệnh nhi không phối hợp được để đeo 
máy đo ngừng thở khi ngủ.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận 
tiện
Phương tiện nghiên cứu: Máy đo đa ký hô 
hấp Apnealink hiệu RedMed của Úc
Chỉ số nghiên cứu và kĩ thuật xác định
- Tuổi, giới, chiều cao, cân nặng
- Triệu chứng hen phế quản
- Triệu chứng ngừng thở khi ngủ như ngủ 
ngáy, thức giấc trong đêm, buồn ngủ ban ngày
- Khám lâm sàng: Khám họng, Amidan; 
Đánh giá bậc hen, tình trạng kiểm soát hen và 
tuân thủ điều trị dự phòng
- Đo đa ký hô hấp bằng máy đo Apnealink, 
thời gian đeo từ 21 giờ đêm hôm trước đến 6 
giờ sáng hôm sau (thời gian đi ngủ của trẻ). 
Phải đeo liên tục tối thiểu 4 giờ. 
- Phân loại mức độ ngừng thở khi ngủ dựa 
vào chỉ số ngừng thở khi ngủ AHI thu được, 
OSA nặng AHI > 10/ 1 giờ; trung bình: AHI từ 
5-10 trong 1 giờ, Nhẹ AHI từ 1-5/giờ
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 
16.0, với giá trị khác biệt có ý nghĩa thống kê 
với p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ tuyệt đối các quy định 
về đạo đức trong nghiên cứu y sinh. Bệnh nhân 
hoàn toàn tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. 
Bệnh nhân hoàn toàn có quyền rút lui khỏi 
nghiên cứu khi không đồng ý tiếp tục tham gia 
vào nghiên cứu. Các thông tin cá nhân được 
đảm bảo bí mật. Đề tài đã được thông qua Hội 
đồng Y đức Bệnh viện Nhi Trung ương số 1996/
BVNTW-VNCSKTE.
Hình 1. Máy đo đa kí hô hấp Apnealink
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020 137
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi
Nhóm tuổi Số lượng Tỷ lệ (%)
5 - <10 tuổi 31 51,7
≥ 10 tuổi 29 48,3
Tổng 60 100
X ± SD (min – max) tuổi 9,32 ± 2,53 (5 – 15)
Nhóm trẻ HPQ dưới 10 tuổi có tỷ lệ 51,7% so với nhóm trên 10 tuổi là 48,3%.Tuổi trung bình của 
nhóm nghiên cứu là 9,32 ± 2,53, nhỏ nhất là 5 tuổi, lớn nhất là 15 tuổi.Tỷ lệ bệnh nhi nam chiếm 
71,7%, tỷ lệ nam/nữ: 2,5/1.
Bảng 2. Tỷ lệ trẻ HPQ mắc ngừng thở khi ngủ (OSA)
OSA Số lượng Tỷ lệ %
Có 49 81,7
Không 11 18,3
Tổng 60 100
X ± SD (min – max) 3,16 ± 2,98 (1 - 15)
81,7% bệnh nhi có cơn ngừng thở khi ngủ, trung bình 3,16 cơn/đêm/bệnh nhi. Bệnh nhi có ít nhất 
là 1 cơn, nhiều nhất là 15 cơn.
Bảng 3. Phân loại mức độ nặng của OSA
OSA Số lượng Tỷ lệ %
Nhẹ 15 30,6
Trung bình 32 65,3
Nặng 2 4,1
Tổng 49 100
Nhóm bệnh nhi nghiên cứu chủ yếu mắc OSA mức độ nhẹ và trung bình. 2 bệnh nhi (4,1%) có 
OSA mức độ nặng
Bảng 4. Tương quan giữa OSA và một số yếu tố
 OSA
Yếu tố liên quan
Có OSA Không OSA
p
n % n %
Ngủ ngáy
Ngủ ngáy 37 61,7% 5 8,3%
0,049
Bình thường 12 20% 6 10%
OR 3,7 (95%CI 2,361 đến 11,656)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020138
 OSA
Yếu tố liên quan
Có OSA Không OSA
p
n % n %
SpO2
≤ 80 11 18,3% 1 0,17%
> 0,05
>80 38 45% 10 16,7%
Kiểm soát hen
Có 33 55% 9 15%
> 0,05
Không 14 23,3% 4 6,7%
Điều trị dự 
phòng
Có 14 23,3% 6 10%
> 0,05
Không 35 58,3% 5 8,3%
OR 3 (95%CI 0,786 đến 11,445)
Bậc hen
Nhẹ, trung bình 29 48,3% 10 16,7%
0,046
Nặng 20 33,3% 1 0,17%
OR 6,9 (95%CI 3,404 đến 22,003)
Có sự tương quan giữa ngủ ngáy, bậc hen 
với OSA. Bệnh nhi mắc hen có ngủ ngáy có 
nguy cơ mắc OSA cao gấp 3,7 lần nhóm không 
ngủ ngáy. Bệnh nhi mắc hen nặng có nguy cơ 
mắc OSA gấp 6,9 lần nhóm hen nhẹ và trung 
bình.
IV. BÀN LUẬN
Trong 60 bệnh nhân HPQ đủ tiêu chuẩn 
tham gia nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân mắc OSA 
chiếm tỷ lệ khá cao, 81,7%. Tuy nhiên OSA chủ 
yếu mức độ nhẹ và trung bình. Hen phế quản 
và OSA là vấn đề phổ biến ở cả người lớn và 
trẻ em và có tác động đáng kể đến hệ thống 
chăm sóc sức khỏe. Trong vài thập kỷ qua, 
rất nhiều nghiên cứu, báo cáo về OSA ở bệnh 
nhân hen, tỷ lệ OSA ở bệnh hen dao động từ 
38% đến 70%.11 Guven và cộng sự (2014)12 tiến 
hành nghiên cứu trên 47 bệnh nhân hen gặp 
khó khăn trong điều tri tại Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả 
cho thấy 74,5% bệnh nhân hen khó điều trị mắc 
OSA, trong đó 11 người mắc OSA nhẹ và 24 
người mắc OSA từ trung bình đến nặng.
Trẻ bị OSA thường ngáy to và liên tục, ngáy 
và có cơn ngừng thở khi ngủ là những biểu hiện 
thường được cha mẹ hoặc người ngủ cùng 
nhận thấy.13 Cha mẹ hoặc người ngủ cùng mô 
tả trẻ có cơn thở mạnh với gắng sức hô hấp 
với biểu hiện thành bụng phồng lên và thường 
chấm dứt bằng những cơn thở dồn dập, thức 
giấc hoặc thay đổi tư thế. Trẻ bị OSA vì thế 
thường ngủ không yên giấc, hay thay đổi tư thế 
khi ngủ. Các biểu hiện khác như ra mồ trộm, 
đái dầm cũng được ghi nhận. Những nghiên 
cứu trước đã chỉ ra ngáy rất thường gặp ở bệnh 
nhân mắc OSA nguyên do đường thở trên bị 
cản trở, thường do vòm họng và lưỡi gà. Tuy 
nhiên không phải tất cả trẻ em có biểu hiện ngáy 
đều do tắc nghẽn đường thở, nhiều trường hợp 
ngáy nhưng không mắc OSA. Trong nghiên 
cứu này chúng tôi cũng nhận thấy 48% số trẻ 
có Amidal quá phát mắc OSA.
Mặc dù độ bão hoà oxy SpO2 là một tiêu 
chí được các nghiên cứu sử dụng để phân loại 
mức độ nặng của OSA ở người lớn, tuy nhiên 
hầu hết bệnh nhi trong nghiên cứu này đều mắc 
OSA ở mức độ vừa và nhẹ, phân loại chỉ dựa 
vào chỉ số ngừng thở khi ngủ AHI, trẻ mắc OSA 
nặng AHI lớn hơn 10/1 giờ và AHI từ 5 - 10 
trong 1 giờ là mức trung bình, AHI mức độ nhẹ 
từ 1 - 5/giờ. Trong nhóm trẻ nghiên cứu chỉ có 
2 trẻ có chỉ số AHI trên 10, vì thế chưa gây hậu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020 139
quả nặng đến làm giảm SpO2 như ở người lớn, 
cần có những nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn 
và đối tượng bệnh nhi đa dạng hơn để có kết 
quả khách quan. 
Mức độ kiểm soát hen không có tương 
quan ở những trẻ có OSA và không mắc OSA. 
Nghiên cứu năm 2009 trên 52 bệnh nhân mắc 
hen gồm nhóm 26 bệnh nhân mắc hen nặng và 
26 mắc hen vừa, Julien và cộng sự14 nhận thấy 
có mối tương quan giữa nhóm kiểm soát hen 
và không kiểm soát hen, nghiên cứu này có thể 
do số lượng bệnh nhi nghiên cứu hạn chế ảnh 
hưởng đến kết quả của nghiên cứu. 
Điều trị dự phòng có mức tương quan ở 
mức độ thấp, trẻ không điểu trị dự phòng có 
nguy cơ bị OSA gấp 3 lần so với có điều trị dự 
phòng. Trong khi những trường hợp hen nhẹ 
không thường xuyên chỉ được điều trị khi có 
triệu chứng, những trường hợp hen nhẹ nhưng 
dai dẳng, hen mức độ trung bình và nặng cần 
phải dùng thuốc dự phòng hàng ngày. Thuốc 
điều trị dự phòng thường là một loại thuốc đơn 
thuần hoặc phối hợp cả hít corticoid và giãn 
phế quản, đây cũng là một cản trở đối với bệnh 
nhi và gia đình thường không tuân thủ điều trị 
khi triệu chứng thuyên giảm.
Trong 49 bệnh nhi hen mắc OSA ở nghiên 
cứu này, 20 bệnh nhi ở bậc hen nặng. Theo 
Julien và cộng sự chỉ số AHI có mối tương quan 
với mức độ nặng của hen, giữa nhóm bệnh 
nhân hen mức độ nặng và hen nhẹ.14 Bệnh 
nhân hen có tăng cản trở đường hô hấp khi thở 
ra, gây giảm áp lực đường hô hấp và gây xẹp 
đường hô hấp trên khi ngủ. Việc giảm dòng khí 
thở ra khi ngủ do OSA sẽ gây giảm oxy máu và 
là yếu tố kích hoạt làm cơ trơn phế quản dễ bị 
co thắt do những đợt ngưng thở, giảm thở và 
đó có thể là nguyên nhân làm khởi phát hoặc 
biểu hiện triệu chứng bệnh hen nặng nề thêm.
V. KẾT LUẬN
Hen phế quản và OSA là hai bệnh nhưng 
thường song hành với nhau. Có mối tương 
quan giữa ngủ ngáy, mức độ nặng của hen với 
chỉ số ngừng thở giảm thở AHI ở nhóm bệnh 
nhi HPQ. 
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu chân thành cám ơn Khoa 
Miễn dịch- Dị ứng - Khớp Bệnh viện Nhi Trung 
ương, các bệnh nhân HPQ và người nhà đã 
giúp chúng tôi hoàn thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Yen NH, Y., Thuy NTD. ; Sy DQ. Study 
of the clinical and functional characteristics 
of asthmatic children with obstructive sleep 
apnea, J Asthma Allergy. 2017; 10: 285-292.
2. D’ortho M.P. Syndromes d’apnées 
du sommeil chez l’insuffisant cardiaque, 
Monographe - Pathologies du sommeil. 
Association Franco-Vietnamienne de 
Pneumologie. 2010; 1: 135-141.
3. Franklin K. A, Lindberg E. Obstructive 
sleep apnea is a common disorder in the 
population-a review on the epidemiology of 
sleep apnea. J Thorac Dis. 2015; 7(8): 1311-22.
4. Salles C. Obstructive sleep apnea and 
asthma. J Bras Pneumol. 2013; 39(5): 604-12.
5. Kaditis AG. Associations of tonsillar 
hypertrophy and snoring with history of 
wheezing in childhood. Pediatr Pulmonol. 2010; 
45(3): 275-80.
6. Teodorescu M. Predictors of habitual 
snoring and obstructive sleep apnea risk in 
patients with asthma. Chest. 2009; 135(5): 
1125-1132.
7. Sanchez T, Castro-Rodriguez JA, 
Brockmann PE. Sleep-disordered breathing 
in children with asthma: a systematic review 
on the impact of treatment. J Asthma Allergy. 
2016; 9, 83-91
8. Muzumdar H, Arens R. Diagnostic issues 
in pediatric obstructive sleep apnea. Proc Am 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 131 (7) - 2020140
Thorac Soc. 2008; 5(2): 263-73.
9. Chan J, Edman JC, Koltai PJ. Obstructive 
sleep apnea in children. Am Fam Physician. 
2004; 69(5): 1147-54.
10. Global Initiative For Asthma. Global 
Strategy For Asthma Management and 
prevention. 2017
11. Alharbi M, Almutairi A, Alotaibi D, e al. 
The prevalence of asthma in patients with 
obstructive sleep apnoea. Prim Care Respir J. 
2009; 18(4), 328-30.
12. Guven SF, Dursun AB, Ciftci B, et al 
(2014), The prevalence of obstructive sleep 
apnea in patients with difficult-to-treat asthma. 
Asian Pac J Allergy Immunol. 2014; 32(2), 153-
9.
13. Arnardottir ES. Obstructive sleep apnoea 
in the general population: highly prevalent but 
minimal symptoms. Eur Respir J. 2016; 47(1): 
194-202.
14. Julien JY. Prevalence of obstructive sleep 
apnea-hypopnea in severe versus moderate 
asthma. JACI. 2009; 124(2): 371-6.
Summary
OBSTRUCTIVE SLEEP APNEA IN CHILDREN WITH ASTHMA AND 
ASSOCIATED RISK FACTORS
Obstructive sleep apnea causes worsening of bronchial asthma. Study on obstructive sleep 
apnea (OSA) among children with asthma using Apnea-Hypopnea Index (AHI) indicators coupled 
with clinical signs and symptoms may predict the severity of asthma. The result showed that 81.6% 
of asthmatic children between 5-10 years of age also suffered from mild to moderate OSA, with AHI 
(apnea-hypopnea index) under 10 hours. There is a correlation between snoring and the severity 
of asthma with AHI. Children with asthma who snore during sleep have at 3.7 times higher risk 
of OSA than children without snoring, children with severe asthma have 6.9 times higher risk of 
OSA than that of mild and moderate asthmatic children. Conclusion: Bronchial asthma and OSA 
are often go together. There is a correlation between snoring, the severity of asthma and the AHI. 
Keywords: Asthma, OSA (obstructive sleep apnea), AHI (apnea- hypopnea index).

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tinh_trang_ngung_tho_khi_ngu_o_tre_mac_hen_phe_quan.pdf