Đánh giá thực trạng phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm y tế

Tăng tỉ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) là một mục tiêu chính sách chính của Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng phát triển đối tượng tham gia BHYT theo quy định của Luật BHYT. Nghiên cứu sử dụng nguồn số liệu thứ cấp và thông tin định tính thu thập từ cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam và BHXH tại 7 tỉnh, thành phố đại diện theo các vùng sinh thái. Kết quả nghiên cứu cho thấy còn khoảng 13% (12,2 triệu dân) chưa tham gia BHYT. Nhóm chưa tham gia chủ yếu là lao động phi chính thức thuộc nhóm theo hộ gia đình (41,4% HGĐ chưa tham gia); nhóm HGĐ làm nông lâm ngư diêm nghiệp có mức sống trung bình; nhóm học sinh sinh viên và nhóm người lao động trong các doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do chế tài xử phạt chưa nghiêm; một số hộ gia đình không đủ khả năng chi trả; chất lượng dịch vụ y tế tại tuyến cơ sở còn hạn chế; hoạt động đại lý BHYT chưa hiệu quả; và người dân thiếu kiến thức về BHYT

pdf 5 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá thực trạng phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm y tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực trạng phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm y tế

Đánh giá thực trạng phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm y tế
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 117
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Tăng tỉ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) là 
một mục tiêu chính sách chính của Việt Nam. Nghiên cứu 
này nhằm đánh giá thực trạng phát triển đối tượng tham 
gia BHYT theo quy định của Luật BHYT.
Nghiên cứu sử dụng nguồn số liệu thứ cấp và thông 
tin định tính thu thập từ cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) 
Việt Nam và BHXH tại 7 tỉnh, thành phố đại diện theo các 
vùng sinh thái. Kết quả nghiên cứu cho thấy còn khoảng 
13% (12,2 triệu dân) chưa tham gia BHYT. Nhóm chưa 
tham gia chủ yếu là lao động phi chính thức thuộc nhóm 
theo hộ gia đình (41,4% HGĐ chưa tham gia); nhóm HGĐ 
làm nông lâm ngư diêm nghiệp có mức sống trung bình; 
nhóm học sinh sinh viên và nhóm người lao động trong 
các doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do chế tài xử 
phạt chưa nghiêm; một số hộ gia đình không đủ khả năng 
chi trả; chất lượng dịch vụ y tế tại tuyến cơ sở còn hạn chế; 
hoạt động đại lý BHYT chưa hiệu quả; và người dân thiếu 
kiến thức về BHYT.
Từ khóa: Bảo hiểm y tế, tổ chức triển khai, Luật Bảo 
hiểm y tế, Việt Nam
SUMMARY:
THE CURRENT SITUATION OF THE 
DEVELOPMENT OF HEALTH INSURANCE 
PARTICIPANTS UNDER THE HEALTH 
INSURANCE LAW IN VIETNAM
One of the major objectives in health policy in 
Vietnam is to increase the proportion of health insurance 
coverage in all groups in community. This study aims to 
assess the current situation of the development of health 
insurance participants under the Health Insurance Law in 
Vietnam.
The study used secondary data and qualitative 
information collected from the Vietnam Social Insurance 
Agency and Social Insurance in 7 cities/provinces 
represented by ecological regions. The maining findings 
showed that about 13% (12.2 million people) had not yet 
participated in health insurance. The non-participating 
group was mainly focued on the informal workers who 
belong to the group of households (41.4% of households 
are not involved), the group of households working in 
agriculture, forestry and fishery had an average living 
standard, the group of students and groups of workers in 
enterprises. The main reason was due to lack of strictly 
punished regulations, not afford to pay for health insurance 
cards in some households, the quality of health services 
at the primary care level was still limite, the health 
insurance agency activities did not work effectively and 
lack of knowledge about health insurance among people 
in community.
Keywords: Health insurance, Health Insurance Law, 
implementation, Vietnam.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bảo hiểm y tế (BHYT) là cơ chế chia sẻ rủi ro (risk-
pooling) về tài chính khi khám chữa bệnh cho người có 
thẻ BHYT. BHYT xã hội là chương trình BHYT trong 
đó mức phí bảo hiểm thường được tính theo tỷ lệ thu 
nhập của người lao động, trong khi quyền lợi KCB được 
hưởng theo nhu cầu khám, chữa bệnh. Với định hướng 
thực hiện bao phủ chăm sóc sức khoẻ và BHYT toàn dân, 
Nghị quyết số 20 của Ban chấp hành Trung ương ban 
hành ngày 25/10/2017 [1] đã nêu rõ mục tiêu: Đến năm 
2025, tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số. Tính 
đến thời điểm tháng 8/2018, tỷ lệ bao phủ dân số đạt 
86,9%[2]. Tuy nhiên, việc tăng bao phủ BHYT cho các 
đối tượng còn lại (chủ yếu là lao động phi chính thức) 
đang là thách thức lớn, cần có chính sách phù hợp để thúc 
đẩy họ tham gia. Vì vậy, nghiên cứu được tiến hành với 
mục tiêu đánh giáthực trạng phát triển đối tượng tham 
gia bảo hiểm y tế, và phân tích những khó khăn – vướng 
mắc trong việc phát triển đối tượng BHYT khi thực hiện 
Luật BHYT.
Ngày nhận bài: 24/05/2019 Ngày phản biện: 31/05/2019 Ngày duyệt đăng: 07/06/2019
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỐI TƯỢNG THAM GIA 
BẢO HIỂM Y TẾ 
Nguyễn Thị Thúy Nga1, Bùi Thị Mỹ Anh1
1. Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội
Tác giả chính: Nguyễn Thị Thúy Nga, Điện thoại: 0966132466, Email: [email protected]
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn118
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, kết số liệu sẵn 
có và định tính. Nghiên cứu được thực hiện tại Hà Nội và 
6 tỉnh đại diện cho 6 vùng kinh tế xã hội gồm: Lai Châu, 
Bắc Ninh, Thanh Hóa, Đắc Lắk, Cần Thơ và Đồng Nai. 
Thu thập số liệu
Thời gian thu thập số liệu từ tháng 6-12/2018
Số liệu thứ cấp: Báo cáo tình hình thực hiện Luật 
BHYT và đề xuất sửa đổi, bổ sung của 63 tỉnh, thành phố; 
số liệu sẵn có tại các tỉnh thực hiện khảo sát.
Số liệu sơ cấp: Thu thập qua phỏng vấn sâu và thảo 
luận nhóm các bên liên quan:
- Lãnh đạo Vụ BHYT (Bộ Y tế), Sở Y tế
- Cơ quan BHXH Việt Nam (Phòng Giám định bảo 
hiểm y tế, Phòng thu, Phòng cấp số/thẻ, Phòng Tài chính 
– Kế toán, Phòng Công nghệ thông tin, Bộ phận truyền 
thông) từ tuyến trung ương, tuyến tỉnh, huyện.
- Người dân tại cộng đồng (có thẻ và không có thẻ BHYT)
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu định lượng từ số liệu sẵn có của cơ quan 
BHXH, phiếu khảo sát 63 tỉnh thành phố: nhập số liệu 
bằng phần mềm Excel. Số liệu định tính từ các cuộc phỏng 
vấn sâu/thảo luận nhóm được gỡ băng và phân tích theo 
phương pháp mã mở có chủ đề.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Thực trạng đối tượng, mức đóng, trách nhiệm 
đóng BHYT
Đối tượng tham gia BHYT
Điều 12, Luật BHYT quy định đối tượng tham gia 
BHYT gồm 5 nhóm: 1) Nhóm do người lao động và sử 
dụng lao động đóng; 2) Nhóm do tổ chức BHXH đóng; 
3) Nhóm do NSNN đóng; 4) Nhóm được NSNN hỗ trợ; 
và 5) Nhóm tham gia BHYT theo HGD. Các nhóm đối 
tượng được quy định trong Luật đã tham gia BHYT theo 
đúng lộ trình mở rộng đối tượng bao phủ BHYT. Tỷ lệ 
tham BHYT tăng dần theo các năm, từ 71,5% năm 2014 
lên 87,6% (82,25 triệu người), năm 2018 [3] (Biều đồ 1).
Biểu đồ 1: Tỷ lệ tham gia BHYT, 2014 – 2018 [2]
Tính đến thời điểm tháng 8/2018, tỷ lệ bao phủ dân 
số đạt 86,9%, còn khoảng 12,2 triệu dân (13%) chưa 
tham gia. Nhóm chưa tham gia chủ yếu là lao động phi 
chính thức thức thuộc nhóm theo hộ gia đình (41,4% 
HGĐ chưa tham gia); nhóm HGĐ làm nông lâm ngư 
nghiệp có mức sống trung bình; Nhóm học sinh sinh 
viên và nhóm người lao động trong các doanh nghiệp 
[4] (Xem bảng 1).
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 119
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 1: Số người tham gia BHYT theo nhóm đối tượng, 9/20182
Đơn vị: Người
Nhóm đối tượng Đối tượng đích (ước tính) Thực hiện Tỷ lệ
1. Nhóm do người lao động và sử dụng lao động đóng 13.257.552 12.594.674 95,0%
2. Nhóm do cơ quan BHXH đóng 3.047.068 3.047.068 100,0%
3. Nhóm do NSNN đóng 34.215.442 34.215.442 100,0%
4. Nhóm do NSNN hỗ trợ 17.718.356 16.566.663 93,5%
5. Nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình 25.194.844 14.765.663 58,6%
Cộng 93.433.261 81.188.991 86,9%
2 Công văn số 3681/BHXH-CSYT bổ sung nội dung báo cáo tình hình thực hiện chế độ chính sách BHYT ngày 20/9/2018
Thực tiễn quá trình triển khai phát triển đối tượng 
tham gia BHYT cho thấy một số nguyên nhân dẫn đến tỷ 
lệ tham gia BHYT thấp của một số nhóm đối tượng.
Đối với doanh nghiệp: Tình trạng trốn đóng, chậm 
đóng BHYT xảy ra ở hầu hết các địa phương [2]. Nguyên 
nhân có thể là do chế tài xử lý vi phạm còn quá nhẹ, chưa 
có tác dụng răn đe, công tác truyền thông chính sách còn 
hạn chế (TLN, Bắc Ninh, Bình Định). Ví dụ, người lao 
động đã đóng rồi, nhưng cơ quan, chủ lao động chưa đóng 
cho cơ quan BHXH hoặc đóng chậm. Hoặc đối với các đối 
tượng được hỗ trợ mức đóng trong trường hợp nguồn quỹ 
Nhà nước đóng chậm (TLN, Đồng Nai). Theo đề xuất từ 
một số địa phương, cần có quy định cụ thể về việc chậm 
đóng quỹ BHYT và quy định xử phạt rõ ràng.
Đối với học sinh, sinh viên (HSSV): Tỷ lệ tham gia 
BHYT của nhóm học sinh, sinh viên của các trường đại 
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề chưa 
cao (Ví dụ, 64% tại Bình Định). Nguyên nhân có thể là do 
mức phí của HSSV còn cao, trong khi phần hỗ trợ 30% 
từ ngân sách nhà nước như hiện nay là thấp, đặc biệt đối 
với hộ gia đình đông con (Gia Lai). Tỉnh Bắc Ninh đề 
xuất nên tăng mức hỗ trợ đóng từ 30% - 50% cho nhóm 
HSSV vì đây là nhóm phụ thuộc, tỷ lệ sử dụng BHYT 
cũng không cao. Tại Thanh Hóa, HSSV có thể lựa chọn 
tham gia BHYT tại trường hoặc theo hộ gia đình. Lý do 
là tham gia theo HGĐ để được giảm trừ với mức phí thấp 
hơn đóng tại trường. 
Hộ gia đình NLN diêm nghiệp có mức sống trung 
bình: Nhà nước hỗ trợ các HGĐ làm nông lâm ngư diêm 
nghiệp có mức sống trung bình 30% nhưng lại không được 
giảm trừ mức đóng, nên tổng mức đóng vẫn cao. Ngoài ra, 
việc xác định được chính xác đối tượng này cũng rất khó 
khăn (TLN, Lai Châu, Thanh Hóa). Ví dụ tại Bình Định, tỷ 
lệ hộ gia định NLN có mức sống trung bình mới đạt 8.3% 
so với đối tượng phải tham gia. Tại Hải Phòng, ngoài ngân 
sách trung ương, thành phố hỗ trợ nhóm này thêm 20% 
cũng chỉ mới đạt 50,5%. 
BHYT theo hộ gia đình: Điều 13, Luật BHYT quy 
định: “Tất cả thành viên thuộc hộ gia đình... phải tham 
gia bảo hiểm y tế. Mức đóng được giảm dần từ thành viên 
thứ hai trở đi” [5]. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia BHYT theo 
hộ gia đình còn thấp do một số nguyên nhân. Thứ nhất là 
chất lượng dịch vụ y tế tại tuyến cơ sở còn hạn chế, nhất 
là đội ngũ y, bác sĩ còn thiếu dẫn đến chưa thu hút được 
người dân tham gia BHYT [6]. Thứ hai, do điều kiện kinh 
tế của một số gia đình, đặc biệt hộ gia đình đông người 
còn khó khăn, chưa đủ khả năng tham gia cả hộ cùng một 
thời điểm [2]. Theo kết quả điều tra hộ gia đình tại huyện 
Sóc Sơn, Hà Nội, tỷ lệ HGĐ sẵn sàng chi trả với mức đóng 
hiện tại là 48,8% [7]. Ngoài ra, hoạt động đại lý thu BHYT 
chưa thực sự hiệu quả, còn thụ động. Đa số cán bộ làm 
nhân viên đại lý thu là cán bộ kiêm nhiệm của bưu điện 
hoặc của UBND phường, xã, thị trấn, thiếu kỹ năng truyền 
thông, vận động chính sách BHYT (TLN, Đồng Nai, Gia 
Lai, Quảng trị). Hơn nữa, nhận thức của nhiều hộ gia đình 
về chính sách BHYT còn hạn chế [2]. Nhiều địa phương 
phản ánh về tình trạng vượt quỹ KCB của nhóm BHYT 
theo HGĐ do lựa chọn ngược khi mua BHYT, tức là khi có 
người ốm, hoặc có dấu hiệu bệnh tật thì mới đi mua BHYT 
(TLN, Bắc Ninh, Đồng Nai, Hải Phòng). 
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn120
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
Kinh nghiệm quốc tế 
Hỗ trợ mức phí tham gia BHYT từ nguồn NSNN: 
Đa số các nước thành công trong bao phủ BHYT đến 
nhóm khó tiếp cận như lao động phi chính thức bằng việc 
áp dụng tham gia bắt buộc và hỗ trợ đóng phí từ NSNN, 
có thể toàn bộ hay một phần. Ví dụ, Trung Quốc, chương 
trình BHYT nông thôn mới cho người dân nông thôn trợ 
cấp 85% mức đóng BHYT và đạt tỷ lệ bao phủ trên 90%. 
Tại Thái Lan, chương trình “BHYT toàn dân” dành cho 
toàn bộ dân số chưa có thẻ BHYT (chủ yếu là đối tượng 
phi chính thức) bao phủ 49 triệu người (76% dân số) với 
nguồn quỹ trích từ NSNN; Hàn Quốc cũng sử dụng NSNN 
để hỗ trợ một phần mức đóng BHYT cho người lao động 
phi chính thức [8]. Dùng NSNN để bao phủ khu vực lao 
động phi chính thức thức có nhiều lợi ích, bao gồm giảm 
bớt công việc hành chính về phân loại, xác định thu nhập, 
thu đóng và tránh nguy cơ lựa chọn ngược. Tuy nhiên, cần 
xem xét tác động tới NSNN. Philipines giải quyết vấn đề 
này thông qua việc tăng NSNN từ nguồn thu thuế các hàng 
hóa như rượu, bia, thuốc lá để hỗ trợ mức đóng BHYT [8]. 
Tham gia BHYT theo hộ gia đình cũng là giải pháp 
được nhiều nước áp dụng để tăng nhanh độ bao phủ 
BHYT, tăng tính chia sẻ rủi ro và giải quyết vấn đề lựa 
chọn ngược. Thông thường, trong mô hình này có sự tham 
gia của các thành viên chính của người lao động, gồm vợ, 
chồng và con. Ví dụ như tại Philippines, thành viên hộ gia 
đình bao gồm vợ/chồng, con dưới 21 tuổi, bố/mẹ trên 60 
tuổi và con hoặc bố mẹ ở bất kỳ tuổi nào nếu bị tàn tật [9]. 
Nhờ giảm tỷ lệ dân số tham gia tự nguyện mà mô 
hình này giảm được rủi ro lựa chọn ngược. Ví dụ ở Nhật, 
chế độ bảo hiểm được mở rộng cho người phụ thuộc của 
người lao động chính thức ngay từ đầu năm 1939. Hàn 
Quốc cũng áp dụng hình thức tham gia theo gia đình từ rất 
sớm. Ở Thái Lan, chương trình BHYT cho công chức và 
người phụ thuộc [8, 9]. 
Tăng cường hệ thống thông tin quản lý và đóng phí: 
Trốn đóng BHYT cũng là một vấn đề ở Philipines trong 
khối doanh nghiệp nhỏ, với tỷ lệ chỉ có 30% doanh nghiệp 
đóng BHYT. Hệ thống thông tin tốt, quản trị và tổ chức tốt 
khâu thu đóng phí có ý nghĩa sống còn với việc tuân thủ 
BHYT [9].
Thông tin, giáo dục và truyền thông: Quyết định 
tham gia và sử dụng BHYT bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các 
yếu tố nhận thức, giáo dục và văn hóa. Ví dụ tại Indonesia, 
rào cản chính trong việc tham gia BHYT là do thiếu thông 
tin về BHYT. Do đó, việc truyền bá thông tin và tiếp thị 
xã hội đóng vai trò thực sự quan trọng trong việc mở rộng 
BHYT ở một số nước như Trung Quốc và Thái Lan [9].
IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 
Để tăng cường tuân thủ tham gia BHYT đối với nhóm 
doanh nghiệp và do NSSNN đóng, nên có quy định rõ 
khái niệm trốn đóng, chậm đóng BHYT, chế tài rõ ràng 
và đủ mạnh để xử phạt trường hợp này. Ngoài ra, cần có 
hệ thống thông tin để quản lý, kiểm tra tình trạng tham gia 
BHYT và tổ chức tốt khâu thu đóng phí. 
Đối với nhóm tham gia BHYT theo HGĐ: Để khuyến 
khích tài chính, thúc đẩy hộ gia đình tham gia BHYT tại 
cùng một một thời điểm, NSNN nên xem xét hỗ trợ mức 
đóng BHYT cho đối tượng tham gia theo hộ gia đình. 
Cần có những nghiên cứu sâu hơn về mức hỗ trợ và tăng 
nguồn NSNN hỗ trợ mức đóng BHYT cho đối tượng này 
từ nguồn thuế của những hàng hóa như rượu, bia và thuốc 
lá. Để đảm bảo chia sẻ rủi ro giữa các thành viên trong hộ 
gia đình vẫn nên giữ nguyên quy định bắt buộc cả hộ gia 
đình tham gia cùng một thời điểm. 
Cần có nghiên cứu thêm về việc thống nhất các nhóm 
hiện đang tham gia theo hộ gia đình (Hộ gia đình nghèo, 
hộ gia đình cận nghèo, hộ gia đình NLN diêm nghiệp và 
nhóm tham gia theo hộ gia đình) thành một nhóm tham gia 
theo hộ gia đình vì bản chất giống nhau, chỉ khác về nguồn 
kinh phí đóng.
Ngoài ra, cần nghiên cứu thêm về khái niệm “hộ gia 
đình” để xác định thành viên tham gia BHYT theo hộ gia 
đình được cụ thể và rõ ràng hơn. 
Để tăng mức độ bao phủ BHYT đối với nhóm HSSV, 
nên nâng mức hỗ trợ mức đóng từ NSNN.Theo kinh 
nghiệm quốc tế, đối tượng HSSV là đối tượng phụ thuộc và 
tham gia theo hộ gia đình. Bởi vậy, Việt Nam nên nghiên 
cứu thêm về khả năng cho phép học sinh, sinh viên được tự 
chọn tham gia theo trường học hoặc theo hộ gia đình. Từng 
bước, chuyển đối tượng học sinh, sinh viên sang tham gia 
theo hộ gia đình (kể cả đối tượng chính thức và phi chính 
thức) vì đây cũng là đối tượng phụ thuộc. Thay đổi phương 
thức đóng BHYT HGĐ theo hướng người lao động đóng 
cho người phụ thuộc trong gia đình [2]. 
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 121
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết 20/NQ-TƯ về tăng cường công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân. 2017.
2. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Luật BHYT giai đoạn 2015-2018. 2018.
3. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Báo cáo số 5265/BC-BHXH kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành năm 2018. 2018.
4. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Báo cáo tình hình thực hiện chế độ, chính sách BHYT. 2018.
5. Assembly, V.N., Amended Health Insurance Law. 2014.
6. Nguyễn Thị Thúy Nga, G. FitzGeral, and M. Dunne, Family-Based Health Insurance for Informal Sector 
Workers in Vietnam: Why Does Enrolment Remain Low? Asia-Pacific Journal of Public Health, 2018.
7. Nguyễn Thị Thúy Nga, G. FitzGerald, and M. Dunne, Family-Based Social Health Insurance for Informal 
Workers in Vietnam: Willingness to Pay and Its Determinants. Asia-Pacific Journal of Public Health, 2018. 30(6): p. 
512-520.
8. Bonfert, A., A. Martin, and J. Langenbrunner, Closing the Gap – The Global Experience Providing Health 
Insurance Coverage for Informal Sector Workers, in The Informal Sector Conference. 2013: Yogyakarta, Indonesia.
9. World Bank, Moving Towards Universal Coverage of Social Health Insurance in Vietnam: Assessment and 
Options. 2014.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_thuc_trang_phat_trien_doi_tuong_tham_gia_bao_hiem_y.pdf