Đánh giá thực trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình

TÓM TẮT

Bài báo này nhằm mục đích đánh giá thực trạng lấn chiếm và quản lý sử dụng đất rừng

phòng hộ (RPH) tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2013-2018 thông qua

điều tra khảo sát các hộ gia đình đang sinh sống gần khu vực có diện tích rừng phòng hộ

cũng như tham vấn ý kiến của các cán bộ quản lý tại các cơ quan trên địa bàn huyện. Kết quả

nghiên cứu cho thấy, thực trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ trên địa bàn huyện Quảng Trạch

có xu hướng giảm dần qua các năm. Tình trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ diễn ra đặc biệt

nhiều từ năm 2013 trở về trước, từ năm 2014 đến nay nhờ vào việc chú trọng việc quản lý và bảo

vệ rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ của các cơ quan ban ngành trong huyện cũng như ý thức

người dân được nâng cao nên tình trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ đã giảm đi rất nhiều.

Nghiên cứu cũng đã xác định được nguyên nhân và những tồn tại trong công tác quản lý và sử

dụng đất rừng phòng hộ, đồng thời, đề xuất được các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

công tác quản lý và sử dụng đất rừng phòng hộ trên địa bàn huyện Quảng Trạch trong thời gian

tới.

Từ khóa: Huyện Quảng Trạch, Lấn chiếm, Quản lý, Rừng phòng hộ, Sử dụng

pdf 9 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá thực trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình

Đánh giá thực trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1688-1696 
1688 Nguyễn Văn Bình và cs. 
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG LẤN CHIẾM ĐẤT RỪNG PHÒNG HỘ 
TẠI HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH 
Nguyễn Văn Bình*, Trương Đỗ Minh Phượng, Nguyễn Văn Tiệp 
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế 
*Tác giả liên hệ: nguyenvanbinh@huaf.edu.vn 
Nhận bài: 11/09/2019 Hoàn thành phản biện: 26/11/2019 Chấp nhận bài: 04/12/2019 
TÓM TẮT 
Bài báo này nhằm mục đích đánh giá thực trạng lấn chiếm và quản lý sử dụng đất rừng 
phòng hộ (RPH) tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2013-2018 thông qua 
điều tra khảo sát các hộ gia đình đang sinh sống gần khu vực có diện tích rừng phòng hộ 
cũng như tham vấn ý kiến của các cán bộ quản lý tại các cơ quan trên địa bàn huyện. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy, thực trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ trên địa bàn huyện Quảng Trạch 
có xu hướng giảm dần qua các năm. Tình trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ diễn ra đặc biệt 
nhiều từ năm 2013 trở về trước, từ năm 2014 đến nay nhờ vào việc chú trọng việc quản lý và bảo 
vệ rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ của các cơ quan ban ngành trong huyện cũng như ý thức 
người dân được nâng cao nên tình trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ đã giảm đi rất nhiều. 
Nghiên cứu cũng đã xác định được nguyên nhân và những tồn tại trong công tác quản lý và sử 
dụng đất rừng phòng hộ, đồng thời, đề xuất được các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả 
công tác quản lý và sử dụng đất rừng phòng hộ trên địa bàn huyện Quảng Trạch trong thời gian 
tới. 
Từ khóa: Huyện Quảng Trạch, Lấn chiếm, Quản lý, Rừng phòng hộ, Sử dụng 
ASSESSING THE ENCROACHMENT ON PROTECTIVE FOREST LAND 
 IN QUANG TRACH DISTRICT, QUANG BINH PROVINCE 
Nguyen Van Binh, Truong Do Minh Phuong, Nguyen Van Tiep 
University of Agriculture and Forestry, Hue University 
ABSTRACT 
This paper aims to assess the encroachment and management of the use of protective 
forest land in Quang Trach district, Quang Binh province in the period of 2013-2018 by 
investigating households living near the protective forest area as well as consulting managers 
in agencies in the area. The research results showed that the encroachment of protective 
forest land in Quang Trach district has decreased over the years. The encroachment on 
protective forest land has occurred since 2013. From 2014 up to now, thanks to the emphasis 
of agencies in the district for managing and protecting forest, especially protective forests in 
the district as well as raising people's awareness, the encroachment on protective forest land 
has been greatly reduced. The research has also determined the causes and shortcomings in 
the management and use of protective forest land. At the same time, some solutions has 
been proposed to improve the effectiveness of the management and use of protective forest 
land in Quang Trach district in the coming time. 
Keywords: Quang Trach district, Encroachment, Management, Protective forest, Land use
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1688-1696 
 1689 
1. MỞ ĐẦU 
Trên thực tế, mặc dù tổng diện tích 
rừng của Việt Nam tăng từ 12,3 triệu ha 
năm 2004, đến năm 2016 tăng lên hơn 14 
triệu ha, nhưng rừng phòng hộ lại là đối 
tượng có nhiều biến động lớn về diện tích 
trong 3 loại rừng, với diện tích giảm trung 
bình khoảng 2%/năm. Có thể thấy được 
vai trò của rừng phòng hộ là rất quan trọng 
nhưng hiện nay vẫn còn nhiều người dân 
vẫn chưa hiểu hết được lợi ích của nó, do 
đó, đất rừng phòng hộ của Việt Nam ngày 
càng bị thu hẹp lại do hoạt động lấn chiếm 
ngang nhiên, công khai của người dân, 
doanh nghiệp sản xuất với mục đích trồng 
cây nông nghiệp, xây dựng nhà hàng, nuôi 
trồng thủy sản. Bên cạnh đó, việc quản lý 
đất rừng phòng hộ còn lỏng lẻo, các cán bộ 
đôi khi làm ngơ cùng với ý thức người dân 
chưa cao nên rừng phòng hộ bị mất rất 
nhiều trong những năm qua (Thạch Thảo, 
2017). 
Huyện Quảng Trạch là một huyện 
thuộc phía Bắc tỉnh Quảng Bình có tổng 
diện tích đất rừng phòng hộ theo số liệu 
thống kê năm 2018 là 11.063,29 ha, chiếm 
24,7% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. 
Huyện có rất nhiều tiềm năng để phát triển 
kinh tế - xã hội, tuy nhiên, những năm trở 
lại đây, nơi đây phải hứng chịu không ít 
trận lũ lụt, sạt lở đất, đất rừng bị bạc màu, 
xói mòn do tình trạng phá rừng lấn chiếm 
đất rừng đặc biệt là đất rừng phòng hộ diễn 
ra ngang nhiên mà chưa có sự quản lý chặt 
chẽ của chính quyền địa phương dẫn đến 
thiệt hại rất lớn về tài sản của người dân, 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống 
của họ (UBND huyện Quảng Trạch, 2018). 
Vì vậy, để người dân hiểu biết được những 
tác hại của việc lấn chiếm đất rừng phòng 
hộ là việc làm hết sức cần thiết. Cần có 
những nghiên cứu, đánh giá được thực 
trạng cũng như tìm hiểu các nguyên nhân, 
và đưa các giải pháp khắc phục cho vấn đề 
này. Từ đó, không những bảo vệ được đất 
rừng phòng hộ mà còn tránh được các mâu 
thuẫn gay gắt trong sử dụng đất của người 
dân. 
Bài báo là kết quả nghiên cứu về 
thực trạng lấn chiếm đất rừng phòng hộ tại 
huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình 
trong giai đoạn 2013-2018, trong đó tập 
trung làm rõ tình hình lấn chiếm rừng 
phòng hộ trên địa bàn, những tồn tại về 
công tác quản lý và sử dụng đất rừng 
phòng hộ để thấy được những nguyên nhân 
cũng như đưa ra các giải pháp khắc phục 
cho các cơ quan quản lý trên địa bàn 
nghiên cứu. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Phương pháp thu thập số liệu 
2.1.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ 
cấp 
Nghiên cứu tiến hành thu thập số 
liệu thứ cấp gồm: Số liệu về điều kiện tự 
nhiên, kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên 
cứu, số liệu về tình hình quản lý, hiện 
trạng sử dụng đất, số liệu về các vụ giải 
quyết lấn chiếm đất rừng phòng hộ qua các 
năm, số liệu về hiện trạng sử dụng đất rừng 
phòng hộ và diện tích bị lấn chiếm qua các 
năm, các định hướng, giải pháp chính sách 
của địa phương trong năm tới. Các số liệu 
được thu thập tại các cơ quan ban ngành 
chuyên môn ở huyện Quảng Trạch, tỉnh 
Quảng Bình như Chi cục thống kê, 
Phòng tài nguyên môi trường, Ban quản 
lý rừng phòng hộ huyện Quảng Trạch, 
Hạt kiểm lâm huyện Quảng Trạch. 
2.1.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 
Nghiên cứu đã thiết kế bảng hỏi để 
đi điều tra phỏng vấn 60 người dân tại 3 xã 
có diện tích rừng phòng hộ lớn, có các hộ 
gia đình sinh sống ven rừng và bị lấn 
chiếm nhiều là xã Quảng Thạch, Quảng 
Hợp, Quảng Kim (mỗi xã 20 hộ dân). 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1688-1696 
1690 Nguyễn Văn Bình và cs. 
Ngoài ra, nghiên cứu còn tham khảo 
ý kiến của các cán bộ quản lý (6 cán bộ 
cấp huyện và 9 cán bộ cấp xã) về những 
tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng 
đất RPH gồm Ban quản lý RPH huyện 
Quảng Trạch, Hạt kiểm lâm, Phòng tài 
nguyên môi trường để tổng hợp thông tin 
và giải quyết các đến mục tiêu nghiên cứu. 
2.2. Phương pháp xử lý số liệu 
Trên cơ sở các tài liệu, số liệu thu 
thập từ kết quả điều tra, phỏng vấn, tiến 
hành lựa chọn, phân tích, tổng hợp những 
thông tin liên quan để xử lý số liệu theo 
các nội dung nghiên cứu trên phần mềm 
EXCEL 2013 gồm: Tình trạng lấn chiếm 
đất rừng phòng hộ trên địa bàn huyện, 
những tồn tại của các cấp về công tác quản 
lý và sử dụng đất rừng phòng hộ, tình hình 
giải quyết lấn chiếm đất rừng phòng hộ và 
ý kiến của người dân về công tác giải 
quyết lấn chiếm diện tích đất rừng phòng 
hộ. Từ đó, nghiên cứu đưa ra các nhận xét, 
đánh giá về tình hình sử dụng, lấn chiếm 
và giải quyết đất rừng phòng hộ cũng như 
hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý 
rừng phòng hộ thông qua các bảng và biểu 
đồ. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO 
LUẬN. 
3.1. Tình hình lấn chiếm đất rừng phòng 
hộ trên địa bàn huyện Quảng Trạch 
Để đánh giá tình hình lấn chiếm đất 
rừng phòng hộ trên địa bàn huyện Quảng 
Trạch qua giai đoạn nghiên cứu, nhóm tác 
giả tiến hành đánh giá dựa trên các số liệu 
về diện tích lấn chiếm trên địa bàn huyện 
cũng như tại 3 xã tiến hành điều tra là xã 
Quảng Hợp, Quảng Kim và Quảng Thạch. 
Đồng thời tiến hành tham vấn và khảo sát 
ý kiến của các cán bộ quản lý tại địa bàn 
nghiên cứu, những tồn tại trong công tác 
quản lý và sử dụng đất RPH. 
3.1.1. Tình trạng lấn chiếm đất rừng phòng 
hộ trên địa bàn huyện 
Hình 1. Thống kê diện tích đất rừng phòng hộ qua các năm của huyện Quảng Trạch. 
 Nguồn: Phòng TNMT huyện Quảng Trạch 
Số liệu ở Hình 1 cho thấy diện tích 
đất rừng phòng hộ giảm mạnh ở giai đoạn 
2013 - 2014 với diện tích đất RPH bị mất 
đi là 1.357,81 ha chiếm 12,27% đất RPH 
hiện nay. Đây là một con số rất lớn về diện 
tích RPH bị mất đi do tình trạng lấn chiếm 
trong giai đoạn này diễn ra khá nhiều. 
Nguyên nhân là do giai đoạn này, mặc dù 
được các cấp lãnh đạo chú trọng việc bảo 
vệ và phát triển rừng đặc biệt là đất rừng 
phòng hộ, tuy nhiên vẫn chưa có các văn 
bản hướng dẫn thi hành một cách cụ thể. 
Việc rà soát và xác định ranh giới đất rừng 
phòng hộ còn gặp nhiều khó khăn, người 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1688-1696 
 1691 
dân vẫn tiến hành khai hoang và trồng cây 
kinh tế rất nhiều. Giai đoạn này người dân 
trên địa bàn huyện phụ thuộc nhiều vào 
rừng để sinh sống và có thu nhập. Đến cuối 
năm 2013 thì luật pháp mới quy định rõ về 
đất rừng phòng hộ cũng như cách giải 
quyết các vi phạm liên quan đến đất RPH. 
Từ giai đoạn 2014 - 2016, diện tích đất 
RPH giảm đi rất ít chỉ gần bằng 0,01% so 
với 2013 - 2014. Đến giai đoạn 2016 - 
2018 thì diện tích RPH vẫn giữ nguyên 
11.063,29 ha. Điều này chứng tỏ công tác 
quản lý, bảo vệ cũng như xử lý các vụ xâm 
phạm đất RPH đã được chú trọng trong 
thời gian gần đây. 
Bảng 1. Tình hình lấn chiếm đất rừng phòng hộ của 3 xã điều tra 
Năm 
Số vụ 
Diện tích bị 
lấn chiếm (ha) 
Số tiền phạt 
(triệu đồng) 
Quảng 
Hợp 
Quảng 
Thạch 
Quảng 
Kim 
Quảng 
Hợp 
Quảng 
Thạch 
Quảng 
Kim 
Quảng 
Hợp 
Quảng 
Thạch 
Quảng 
Kim 
2014 2 3 4 5 7 8,5 - - - 
2015 - 2 2 - 2 1,5 - - - 
2016 1 2 3 0,5 0,7 0,6 2 10 10 
2017 - - 2 - - 0,2 - 2 
Tổng 3 7 11 5,5 9,7 10,8 2 12 10 
Nguồn: Hạt kiểm lâm huyện Quảng Trạch (2018) 
Qua số liệu ở Bảng 1 cho thấy, số vụ 
và diện tích lấn chiếm xảy ra ở các xã 
nhiều nhất ở năm 2014, các năm sau này 
thì số vụ và diện tích đất RPH bị lấn chiếm 
ít hơn dần và đến năm 2018 thì không có 
vụ lấn chiếm nào. Điều này chứng tỏ càng 
ngày công tác quản lý, sử dụng đất và giải 
quyết lấn chiếm đất RPH được chú trọng 
và có hiệu quả hơn. 
Trong các xã điều tra thì xã Quảng 
Kim là địa phương xảy ra nhiều vụ lấn 
chiếm và diện tích RPH bị lấn chiếm lớn 
nhất, sau đó là xã Quảng Thạch và cuối 
cùng là xã Quảng Hợp. Qua quá trình điều 
tra, nghiên cứu đã tìm ra được nguyên 
nhân của sự khác biệt này: 
+ Xã Quảng Kim là xã có diện tích 
đất nuôi trồng thủy sản và đất trồng lúa 
nhiều nhưng hiệu quả kinh tế mang lại của 
2 loại hình sử dụng đất này theo đánh giá 
người dân địa phương và cán bộ chuyên 
môn là chưa cao. Trong khi đó, diện tích 
đất rừng sản xuất và cây lâu năm của xã lại 
ít hơn 2 xã còn lại, nhưng đây lại là 2 loại 
hình sử dụng đất đem lại hiệu quả kinh tế 
cao hơn. Vì vậy, một số hộ dân ở đây đã 
lợi dụng ranh giới giữa đất rừng sản xuất 
và RPH để lấn thêm đất để sản xuất. Hơn 
nữa, đất RPH rất gần với các hộ dân, một 
số ranh giới chưa được phân chia rõ ràng 
nên dẫn đến tình trạng lấn chiếm xảy ra 
nhiều như vậy. 
+ Xã Quảng Thạch là xã có diện tích 
đất trồng cây lâu năm lớn nhất trong 3 xã, 
đất rừng sản xuất cũng tương đối lớn. Tuy 
nhiên đất trồng lúa và trồng cây hằng năm 
khác lại ít nhất. Nên người dân lấn đất 
phần lớn là để trồng cây hằng năm khác và 
cây rừng. 
+ Xã Quảng Hợp là xã có diện tích 
đất RPH, đất hằng năm khác, đất rừng sản 
xuất lớn nhất trong 3 xã do đó lợi ích kinh 
tế mang lại rất lớn, nên tình trạng lấn 
chiếm đất RPH xảy ra khá ít. Mặt khác, do 
xã có đất RPH lớn nên các cơ quan chính 
quyền sẽ chú trọng việc bảo vệ và phát 
triển bởi họ nhận biết được vai trò to lớn 
của RPH. 
3.1.2. Những tồn tại về công tác quản lý và 
sử dụng đất rừng phòng hộ. 
Qua tham vấn và khảo sát ý kiến của 
các cán bộ quản lý tại địa bàn nghiên cứu, 
những tồn tại trong công tác quản lý và sử 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1688-1696 
1692 Nguyễn Văn Bình và cs. 
dụng đất RPH được thể hiện ở Bảng 2 như 
sau: 
Bảng 2. Những tồn tại của các cấp về công tác quản lý và sử dụng đất rừng phòng hộ 
Những tồn tại của các cấp về công tác quản lý và sử dụng đất rừng phòng hộ 
Tỉ lệ ý kiến 
đồng ý (%) 
Về cấp chính quyền 
BQLRPH không thường xuyên rà soát, thanh tra, kiểm tra đất RPH. 50,2 
Các cơ quan quản lý còn đùn đẩy trách nhiệm, chưa liên kết chặt chẽ với nhau. 48,3 
Công tác giao đất cho người dân còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng lấn chiếm nhiều. 85,4 
Trình độ chuyên môn chưa cao, còn hạn chế trong việc áp dụng công nghệ thông tin 
vào quản lý. 
91,5 
Một số cán bộ lợi dụng chức quyền và sự thiếu hiểu biết về pháp luật của người dân để 
bao che tiếp tay cho hành vi phạm pháp. 
51,2 
Về phía người dân 
Một số người dân lợi dụng sự quen biết cán bộ quản lý để lấn chiếm đất RPH. 52,6 
Trình độ dân trí thấp chưa hiểu biết về pháp luật đất đai, thiếu hợp tác với chính quyền. 86,9 
Sử dụng đất không đúng mục đích, thiếu trình độ canh tác và trồng trọt. 89,5 
Người dân ven rừng sống còn phụ thuộc vào rừng 93,7 
 Nguồn: Số liệu điều tra (2018) 
Qua Bảng 2 cho thấy, tỷ lệ ý kiến 
đồng ý của các cán bộ về những tồn tại của 
các cấp về công tác quản lý và sử dụng đất 
RPH tương đối cao, cụ thể: 
- Về cấp chính quyền, các cán bộ 
quản lý đa số đồng ý với những tồn tại như 
do trình độ chuyên môn chưa cao, còn hạn 
chế áp dụng công nghệ thông tin vào quản 
lý; Công tác giao đất cho người dân còn 
nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng lấn chiếm 
nhiều. 
- Về phía người dân, các cán bộ 
quản lý đa số đồng ý với những tồn tại như 
do trình độ dân trí thấp chưa hiểu biết về 
pháp luật; sử dụng đất không đúng mục 
đích, thiếu trình độ canh tác và trồng trọt; 
đặc biệt là người dân ven rừng sống còn 
phụ thuộc vào rừng. 
3.2. Đánh giá tình hình giải quyết lấn 
chiếm đất rừng phòng hộ 
3.2.1. Tình hình giải quyết lấn chiếm đất 
rừng phòng hộ 
Bảng 3. Tình hình giải quyết lấn chiếm đất rừng phòng hộ của huyện Quảng Trạch 
Năm Tổng 
Diện tích đất 
thu hồi được 
(ha) 
Diện tích đất đã 
xử lí nhưng 
không thu hồi 
được (ha) 
Diện tích đất bị lấn 
chiếm nhưng 
không phát hiện 
được (ha) 
Số tiền phạt 
thu được 
(triệu đồng) 
2013-2014 1.357,81 271,56 407,34 678,91 - 
2014-2015 0,21 0,042 0,063 0,105 - 
2015-2016 1,14 0,456 0,513 0,456 8 
2016-2017 1,2 1,2 - - 10 
 Nguồn: Phòng TNMT huyện Quảng Trạch 
Từ Bảng 3 cho thấy, các năm càng 
trở về trước số diện tích đất rừng phòng hộ 
bị lấn chiếm là rất cao. Nhưng điều đáng 
nói ở đây là diện tích bị lấn chiếm nhưng 
chưa được phát hiện hoặc không xử lý rất 
lớn, tiếp đó là diệnt ích đất đã xử lý nhưng 
không thu hồi được, cuối cùng diện tích 
đất thu hồi được là ít nhất; số tiền phạt để 
nộp ngân sách nhà nước là không đáng kể. 
Cụ thể là: 
- Giai đoạn 2013 – 2014, đất RPH bị 
mất rất nhiều. Diện tích đất thu hồi được 
chiếm 20% tổng số đất bị lấn chiếm, số 
diện tích thu hồi này chủ yếu rơi vào 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1688-1696 
 1693 
những trường hợp phát hiện kịp thời nên 
xử lý được. Diện tích đất đã xử lý nhưng 
không thu hồi được chiếm 30%. Số diện 
tích không thu hồi được rơi vào các trường 
hợp đã xây dựng nhà ở, công trình trên đất 
rừng phòng hộ do đó rất khó để thu hồi vì 
những vấn đề nhạy cảm như người dân 
không còn nơi nào để ở, thiệt hại của 
người dân về kinh tế. Diện tích đất bị lấn 
chiếm chưa phát hiện được chiếm 70%, 
những diện tích không phát hiện được là 
do nhiều người dân lẻn vào rừng sâu để 
khai hoang đất rừng nhằm xây dựng lán 
trại, nhà ở và canh tác trên đất đó. Mặt 
khác, các cán bộ quản lý giai đoạn này 
không thường xuyên tuần tra, giám sát, 
công tác thống kê, kiểm kê đất đai hằng 
năm không trùng khớp với thực tế nên 
không phát hiện được số đất bị lấn chiếm. 
- Giai đoạn 2014 - 2015, diện tích 
đất thu hồi được chiếm 20% tổng số đất bị 
lấn chiếm. Diện tích đất đã xử lý nhưng 
không thu hồi được chiếm 35%. Diện tích 
đất bị lấn chiếm chưa phát hiện được 
chiếm 65%. Giai đoạn này tuy số vụ lấn 
chiếm có giảm hơn so với trước do công 
tác quản lý được tăng cường hơn nhưng 
cũng chưa cải thiện được nhiều do các cán 
bộ chưa áp dụng đúng theo quy định của 
pháp luật trong xử phạt vi phạm lấn chiếm 
nên người dân không thấy sợ, họ vẫn lấn 
chiếm nhiều. 
- Giai đoạn 2015 - 2016, diện tích 
thu hồi được chiếm 40% tổng số đất bị lấn 
chiếm. Diện tích đất đã xử lý nhưng không 
thu hồi được chiếm 45%. Diện tích đất bị 
lấn chiếm chưa phát hiện được chiếm 15%. 
Giai đoạn này thì ranh giới đất RPH được 
xác định tương đối rõ ràng, các cán bộ thắt 
chặt quản lý hơn, xử phạt theo pháp luật 
đối với các vi phạm nên tình trạng lấn 
chiếm ít hơn. 
- Giai đoạn 2016 - 2018, đất RPH 
được sử dụng ổn định nhờ sự quản lý 
nghiêm ngặt nên tình trạng lấn chiếm xảy 
ra ít nhưng được phát hiện kịp thời nên thu 
hồi được đất. 
Như vậy các năm sau này số diện 
tích đất bị lấn chiếm ít hơn rất nhiều cụ thể 
là 2014-2018 tổng diện tích bị lấn chiếm 
chỉ bằng 0,008 - 0,015% tổng diện tích bị 
lấn chiếm 2013 - 2014. Và công tác tuần 
tra được tăng cường nên phát hiện kịp thời 
vì vậy mà thu hồi được đất. 
3.2.2. Ý kiến của người dân về công tác 
giải quyết lấn chiếm diện tích đất rừng 
phòng hộ 
Công tác lấn chiếm đất rừng phòng 
hộ trong những năm qua còn tồn tại nhiều 
bất cập do đó số người dân đồng tình với 
quá trình giải quyết vi phạm rất ít. Qua quá 
trình điều tra, phỏng vấn người dân trên 
địa bàn huyện Quảng Trạch, tôi đã tổng 
hợp những ý kiến từ người dân cụ thể như 
sau: 
- Trong quá trình giải quyết lấn 
chiếm đất RPH phần lớn người vi phạm 
đồng tình với cách xử lý của các ban quản 
lý. Nhưng một số ý kiến cho rằng cách xử 
lý của các cán bộ còn chậm, không kịp thời 
hay giải quyết theo cảm giác. Các cán bộ 
xử lý lấn chiếm đất RPH còn nhẹ tay, hầu 
như chỉ lập biên bản phạt tiền mà không 
khởi tố, đặc biệt là đối với những vụ vi 
phạm nghiêm trọng. Một số trường hợp xử 
lý cùng một loại đất và cùng diện tích 
nhưng xử phạt lại chênh lệch nhau về số 
tiền phạt, điều này chứng tỏ các cán bộ xử 
lý không đúng pháp luật qui định. 
- Các vụ giải quyết lấn chiếm hầu 
hết đều tái vi phạm vì liên quan đến sinh 
kế của người dân. 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1688-1696 
1694 Nguyễn Văn Bình và cs. 
Hình 2. Tỷ lệ ý kiến người dân về công tác giải quyết lấn chiếm đất rừng phòng hộ 
 Nguồn: Số liệu điều tra (2018) 
Qua số liệu Hình 2 cho thấy, trong 
số 60 người được phỏng vấn thì số người 
đồng tình với ý kiến giải quyết lấn chiếm 
đất rừng phòng hộ kịp thời chiếm tỉ lệ cao 
nhất và giải quyết chậm có số người đồng 
tình thấp nhất. 
Những người đồng tình với ý kiến 
giải quyết kịp thời và giải quyết theo cảm 
giác lấn chiếm đất rừng phòng hộ phần lớn 
là những người từng vi phạm lấn chiếm đất 
rừng. Bởi vì theo họ các cán bộ đi tuần tra 
sau khi phát hiện hành vi chặt phá rừng để 
lấn chiếm thì họ chỉ nhắc nhở nhưng 
không phạt tiền, còn đối với những trường 
hợp đã trồng cây kinh tế lên phần đất lấn 
chiếm thì sẽ đem về UBND xã, hoặc trạm 
kiểm lâm gần nhất để xử lý chủ yếu là phạt 
tiền và bắt buộc nhổ cây đã trồng ra khỏi 
đất lấn chiếm. 
Những người không vi phạm phần 
lớn đồng tình với ý kiến giải quyết chậm 
và né tránh lấn chiếm đất rừng phòng hộ. 
Bởi vì theo họ thì những trường hợp vi 
phạm sau khi đã bị xử phạt nhưng họ 
không nhổ cây đi hoặc còn tiếp tục canh 
tác trên đất lấn chiếm đó. Các cơ quan 
quản lý biết nhưng chỉ nhắc nhở hoặc lảng 
tránh trách nhiệm dẫn đến quá trình giải 
quyết dứt điểm các vụ lấn chiếm đất rừng 
phòng hộ diễn ra chậm. Đặc biệt là những 
vụ lấn chiếm đất rừng phòng hộ để xây 
dựng nhà ở, nhà hàng, cơ sở kinh doanh thì 
quá trình giải quyết rất chậm, các cán bộ 
đùn đẩy trách nhiệm cho nhau và cuối 
cùng không giải quyết được vấn đề. 
3.2.3. Minh họa vụ lấn chiếm đất rừng 
phòng hộ nổi bật trên địa bàn huyện 
Quảng Trạch 
Trường hợp: “Vụ nhà hàng xây 
dựng trái phép ở xã Quảng Tùng, huyện 
Quảng Trạch”. 
Đây là vụ lấn chiếm đất rừng phòng 
hộ nhận được nhiều phản ánh của người 
dân năm 2015. Nhà hàng tiệc cưới Lĩnh 
Tiền, trên địa bàn thôn Di Luân, xã Quảng 
Tùng huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng 
Bình xây dựng không phép, vi phạm 
nghiêm trọng hành lang giao thông đường 
bộ và giao thông đường thủy. Cụ thể, trong 
biên bản xác minh thực địa ngày 4/5/2015, 
do UBND xã Quảng Tùng có nêu rõ: “Hộ 
gia đình ông Bùi Quang Phú (chủ nhà hàng 
Lĩnh Tiền) đã tự ý xâm lấn, san lấp một số 
diện tích đất rừng trồng cây mắm ước tính 
20 năm tuổi, thuộc rừng phòng hộ sông 
Loan với diện tích 595 m2và đã tự ý đổ đất 
pha cát trong diện tích trên, ước tính 
khoảng 1550 m3 để xây dựng hạng mục 
phụ, bếp.” 
Những hành vi này, UBND xã 
Quảng Tùng đã lập biên bản và ban hành 
quyết định xử phạt nhưng quá trình xử lý 
chưa quyết liệt, tới nơi tới chốn. Cụ thể, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1688-1696 
 1695 
ngày 3/6/2015, UBND xã Quảng Tùng ra 
quyết định xử phạt hành chính ông Bùi 
Quang Phú 4 triệu đồng, buộc nhà hàng 
phải khôi phục lại hiện trạng diện tích rừng 
bị san lấp, cơi nới lấn chiếm như ban đầu 
và yêu cầu khắc phục trong 20 ngày kể từ 
ngày nhận được quyết định. 
Trong quá trình xử lý thì UBND xã 
Quảng Tùng đã xử phạt hành chính bằng 
cách phạt tiền lấn chiếm đất rừng phòng hộ 
và hành lang giao thông, còn các hạng mục 
công trình thì không xử lý được. Các cơ 
quan quản lý đùn đẩy trách nhiệm như vị 
chủ tịch xã cho rằng: Việc lấn chiếm hành 
lang giao thông thuộc quản lý của đường 
bộ và đường sông; phó trưởng phòng Tài 
nguyên và Môi trường huyện Quảng Trạch 
lại cho rằng: “Đây là trách nhiệm của địa 
phương chứ không thể đổ lỗi cho cơ quan 
cấp trên được. Đúng ra xã khi phát hiện 
phải ngăn chặn, kịp thời báo lên Quản lý 
đường bộ để xử lý, chứ anh không thể chối 
bỏ trách nhiệm của mình”. 
Tuy vậy, hiện nay các hạng mục xây 
dựng trái phép, lấn chiếm đất rừng phòng 
hộ vẫn đang tồn tại, không những thế còn 
xây dựng thêm cổng nhà gây ảnh hưởng 
lớn đến hành lang an toàn giao thông Quốc 
lộ 1A. Từ vụ lấn chiếm trên cho thấy ngay 
việc lấn chiếm xây dựng trái phép trên đất 
RPH không được các cán bộ quản lý ngăn 
ngừa ngay từ đầu, để đến khi xây xong và 
bị người dân phản ánh thì mới xử lý thì 
quá muộn. 
3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng 
cao hiệu quả trong công tác quản lý, sử 
dụng đất và giải quyết lấn chiếm diện 
tích đất rừng phòng hộ trên địa bàn 
huyện Quảng Trạch trong thời gian tới 
3.3.1. Giải pháp về quản lý 
- Củng cố mở rộng làm giàu hệ 
thống RPH hiện có đồng thời cân nhắc các 
hoạt động chuyển đổi rừng phòng hộ sang 
các mục đích sử dụng khác. 
- Mỗi năm cần phải thống kê, kiểm 
kê chính xác đất RPH so với thực địa. 
- Tổ chức lại các tổ bảo vệ rừng hiện 
có ở các thôn và xây dựng mô hình “Tổ 
lâm nghiệp cộng đồng” do UBND xã trực 
tiếp quản lý và giám sát, cùng với sự hỗ trợ 
của các đơn vị chủ rừng. 
- Báo cáo số hộ gia đình, cá nhân, 
tổ chức đang dựng nhà ở, các công trình 
dân sinh trái phép trong khu vực rừng 
phòng hộ hiện nay (số hộ, cá nhân dựng 
nhà, thực trạng nhà cấp 3, cấp 4, nhà tạm, 
lán trại các biện pháp đã và đang thực hiện 
hiện nay) chi tiết tại các, xã, thôn trên địa 
bàn huyện. 
- Tập huấn về kĩ năng tuần tra bảo 
vệ rừng, sử dụng thiết bị kỹ thuật tuần tra 
bảo vệ rừng, sử dụng thiết bị kỹ thuật trong 
quản lý rừng, báo cáo vi phạm rừng, nâng 
cao hiểu biết về pháp luật bảo vệ rừng, kết 
hợp với giám sát đa dạng sinh học. 
- Muốn giữ được rừng phòng hộ 
phải tạo được sinh kế bền vững cho người 
dân. Mức chi trả dịch vụ môi trường rừng 
tăng lên hằng năm. Tuy nhiên tại nhiều nơi 
số tiền bị chia nhỏ nên mức chi vẫn còn 
thấp, chưa đảm bảo đời sống cho người 
dân làm nghề rừng và không tạo thành 
động lực để bảo vệ rừng. Do vậy cần tăng 
cường đôn đốc thu các loại dịch vụ mới 
tránh để tình trạng nợ đọng và lồng ghép 
các nguồn vốn để nâng cao thu nhập đảm 
bảo cho người dân sống được bằng nghề 
rừng. 
3.3.2. Giải pháp về sử dụng đất rừng 
phòng hộ 
- Triển khai giao khoán bảo vệ rừng 
cho các hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng 
dân cư để họ quản lý, trồng và chăm sóc 
cây sẽ đạt hiệu quả rất cao. 
- Hạn chế thấp nhất việc chuyển 
mục đích sử dụng đất RPH thành các loại 
đất khác, đặc biệt là RPH đầu nguồn. 
- Đối với những khu vực đất RPH bị 
đốt, chặt phá cây cần tiến hành trồng rừng 
ngay để tránh đất bị bạc màu, sạt lở. 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1688-1696 
1696 Nguyễn Văn Bình và cs. 
- RPH ven biển cần được sử dụng 
đúng mục đích là chắn sóng, lấn biển bằng 
cách trồng các cây ngập mặn. 
3.3.3. Giải pháp về giải quyết lấn chiếm 
đất rừng phòng hộ 
- Nhanh chóng cấp giấy chứng nhận 
quyền sử dụng đất theo quy định tại điều 
22, Nghị định 43/2014/NĐ-CP. 
- Các cán bộ giải quyết lấn chiếm 
cần phải nắm rõ luật và xử lý mạnh tay 
hơn nữa đối với những trường hợp vi 
phạm. 
- Các trình tự xử phạt phải ngắn 
gọn, nhanh chóng tránh mất nhiều thời 
gian. 
- Khuyến khích người dân kiểm tra 
tình trạng tái lấn chiếm sau khi xử lý bằng 
cách trao phần thưởng cho họ khi họ báo 
kịp thời cho các cán bộ để xử lý. 
4. KẾT LUẬN 
Qua quá trình nghiên cứu, một số kết 
luận được rút ra như sau: 
- Thực trạng lấn chiếm đất rừng 
phòng hộ trên địa bàn huyện Quảng Trạch có 
xu hướng giảm dần qua các năm. Tình trạng 
lấn chiếm đất rừng phòng hộ diễn ra đặc biệt 
nhiều từ năm 2013 trở về trước vì giai đoạn 
này ranh giới đất rừng phòng hộ chưa được 
xác định rõ ràng cho nên người dân lợi dụng 
để khai hoang đất rừng để trồng cây kinh tế. 
Giai đoạn 2014 đến nay nhờ vào việc chú 
trọng việc quản lý và bảo vệ rừng, đặc biệt là 
rừng phòng hộ của các cơ quan ban ngành 
trong huyện cũng như ý thức người dân được 
nâng cao nên tình trạng lấn chiếm đất rừng 
phòng hộ giảm rất nhiều. Bên cạnh đó công 
tác giải quyết lấn chiếm đất rừng phòng hộ 
trong những năm qua đã được thực thi theo 
quy định pháp luật, tăng cường công tác tuần 
tra, giám sát nên phát hiện và xử lý kịp thời 
hành vi vi phạm nhờ vậy mà hạn chế được số 
vụ lấn chiếm. 
- Nhằm bảo vệ và phát triển rừng 
phòng hộ bền vững và đạt hiệu quả cao thì 
trong thời gian tới huyện Quảng Trạch cần 
có những biện pháp quản lý, sử dụng đất và 
giải quyết lấn chiếm đất rừng phòng hộ như: 
các cơ quan quản lý rừng phòng hộ cần phải 
liên kết chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau trong quản 
lý nhằm phát hiện và xử lý kịp thời; triển 
khai giao khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia 
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư để họ quản 
lý, trồng và chăm sóc cây sẽ đạt hiệu quả 
cao. Ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp 
luật về xử lý các hành vi lấn chiếm đất rừng 
phòng hộ; khuyến khích người dân tham gia 
công tác giải quyết rừng phòng hộ thông qua 
việc báo cáo các hành vi lấn chiếm lên cơ 
quan quản lý bằng cách trao phần thưởng 
cho họ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam (11/11/2013). Nghị định 
157/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 
2013 về quy định xử phạt vi phạm hành 
chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo 
vệ rừng và quản lý lâm sản. Khai thác từ 
goc.aspx?ItemID=32584 
Thạch Thảo và Ngọc Thăng. (07/12/2017). 
Rừng phòng hộ tại Việt Nam, thực trạng và 
thách thức, Tạp chí điện tử Bảo vệ rừng và 
Môi trường. Khai thác từ 
https://baovemoitruong.org.vn/rung-phong-
ho-tai-viet-nam-hien-trang-va-thach-
thuc/24 
UBND huyện Quảng Trạch (2018), Báo cáo 
kết quả thống kê đất đai huyện Quảng 
Trạch năm 2018. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_thuc_trang_lan_chiem_dat_rung_phong_ho_tai_huyen_qu.pdf