Đánh giá thực trạng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú điều trị tại Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên

Mục tiêu: Khảo sát thực trạng chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú và chỉ ra những yếu tố ảnh

hưởng tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân điều trị tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái

Nguyên từ tháng 4 năm 2017 đến tháng 9 năm 2017.

Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang 109 bệnh nhân được phỏng vấn qua bộ

câu hỏi chất lượng cuộc sống QLI (Quality of life index).

Kết quả: Tuổi trung bình 50,8 tuổi. Điểm số chất lượng cuộc sống tổng quát là ở mức trung bình

(15,73 ± 3,67). Điểm số sự hỗ trợ xã hội ở mức cao 62,8. Điểm số trung bình triệu chứng đơn theo ESAS là ở

mức trung bình. Có một sự tương quan thuận giữa sự hỗ trợ của xã hội và chất lượng cuộc sống (r=0,433,

p<0,01). triệu="" chứng="" đơn,="" tình="" trạng="" tái="" phát="" có="" tương="" quan="" nghịch="" với="" chất="" lượng="" cuộc="" sống="" (r="-">

r= - 0,16, p<>

Kết luận: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú ở mức độ trung bình. Sự hỗ trợ của xã hội có

tác động tốt vào chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

pdf 5 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá thực trạng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú điều trị tại Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực trạng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú điều trị tại Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên

Đánh giá thực trạng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú điều trị tại Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên
ĐIỀU DƯỜNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
397 
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG 
CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ ĐIỀU TRỊ 
TẠI TRUNG TÂM UNG BƯỚU THÁI NGUYÊN 
NGUYỄN ĐỨC THÀNH1, NGÔ THỊ TÍNH2, TRẦN BẢO NGỌC3 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát thực trạng chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú và chỉ ra những yếu tố ảnh 
hưởng tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân điều trị tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái 
Nguyên từ tháng 4 nĕm 2017 đến tháng 9 nĕm 2017. 
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang 109 bệnh nhân được phỏng vấn qua bộ 
câu hỏi chất lượng cuộc sống QLI (Quality of life index). 
Kết quả: Tuổi trung bình 50,8 tuổi. Điểm số chất lượng cuộc sống tổng quát là ở mức trung bình 
(15,73 ± 3,67). Điểm số sự hỗ trợ xã hội ở mức cao 62,8. Điểm số trung bình triệu chứng đơn theo ESAS là ở 
mức trung bình. Có một sự tương quan thuận giữa sự hỗ trợ của xã hội và chất lượng cuộc sống (r=0,433, 
p<0,01). Triệu chứng đơn, tình trạng tái phát có tương quan nghịch với chất lượng cuộc sống (r= - 0,233, 
r= - 0,16, p<0,01). 
Kết luận: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú ở mức độ trung bình. Sự hỗ trợ của xã hội có 
tác động tốt vào chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. 
Từ khóa: Ung thư vú, chất lượng cuộc sống, sự hỗ trợ xã hội. 
ABSTRACT 
Objetives: To describe the quality of life of breast cancer survivors, who being treated in oncology center 
of Thai Nguyen National Hospital, In addition, to determine factors effected to quality of life among breast 
cancer survivors in Oncology center, Thai Nguyen National Hospital, Thai Nguyen province, Vietnam. 
Method: Using a descriptive cross-sectional study on 109 breast cancer survivors who selected by simple 
random technique. They were interviewed directly through three questionnaires on quality of life of (QLI), 
ESAS, social support. 
Results: The mean total score of quality of life among breast cancer survivors was 15,73 ± 3.67 in median 
level. The mean total score of symptom distress, social support and spirituality were 62,38 ± 9.89, 
53,94 ± 14.21, 29,43 ± 4.5. There were significantly positive correlation between social support and quality of 
life (r=0,433, p<.001). Symptom distress, recurrence status had a significantly negative correlation with quality 
of life (r= -0,233, p<0,01). 
Conclusion: The quality of life breast cancer survivors was at median level. The social support had a 
positive effect, the symptom distress, recurrence status had a negative effect on quality of life.Therefore, and 
the breast cancer survivors should be monitored from the symptom distress, prevention from recurrence status 
and should get support to improve quality of life. 
Keywords: Quality of life, breast cancer survivors, social support. 
1
 ThS.ĐD. Khoa Khám bệnh-Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên 
2
 TS.BS. Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên 
3
 TS.BS. Bộ môn Ung Bướu-Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
398 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư vú là một trong những bệnh ung thư 
phổ biến nhất đối với phái nữ[4]. Tại Việt Nam, 
43/100.000 phụ nữ được chẩn đoán với ung thư vú. 
Ung thư vú chiếm khoảng 34% trong tất cả các 
trường hợp ung thư ở nữ giới được báo cáo ở Việt 
Nam. Tỷ lệ mắc phải của bệnh ngày càng gia tĕng, 
nĕm 2005 là 15/100.000 phụ nữ với độ tuổi trung 
bình 51,3. Đến nĕm 2008, tỉ lệ này là 18-27/100.000 
mỗi nĕm[3]. Phụ nữ chẩn đoán với ung thư vú bị ảnh 
hưởng bởi rất nhiều yếu tố, bao gồm những ảnh 
hưởng tới thể chất, nỗi sợ bị tái phát, thay đổi hình 
ảnh của bản thân sau phẫu thuật vú, thay đổi trong 
mối quan hệ gia đình và thay đổi trong quan hệ vợ 
chồng[1]. Mặc dù ung thư vú có thể được chữa khỏi 
và kéo dài sự sống cho người bệnh, chất lượng 
sống của bệnh nhân ung thư vú vẫn bị giảm sút rõ 
rệt so với người bình thường. Mặc dù tại các nước 
phát triển chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư 
vú cao, tuy nhiên vẫn có những nhóm nhỏ hơn bệnh 
nhân ung thư vú ở các nước đang phát triển có chất 
lượng cuộc sống thấp[14]. 
Chất lượng cuộc sống là đánh giá chủ quan của 
người bệnh về sức khỏe của bản thân nó bao gồm 
các thành phần như: sức khỏe và hoạt động chức 
nĕng, kinh tế xã hội, tâm lý và gia đình. Cùng với sự 
tiến bộ của các phương pháp điều trị mới đã và 
đang kiểm soát được các triệu chứng nhưng nó 
cũng gây ra các ảnh hưởng lên tình cảm, tâm lý, và 
thể chất, tất cả những ảnh hưởng này phối hợp và 
tương tác lẫn nhau dẫn đến sự giảm chất lượng 
cuộc sống[4]. 
Bệnh viện Đa khoa trung ương Thái Nguyên là 
nơi điều trị cho rất nhiều bệnh nhân ung thư vú ở 
khu vực miền núi phía Bắc. Với điều kiện kinh tế xã 
hội đặc thù như tỷ lệ đồng bào dân tộc nhiều, thu 
nhập chưa thực sự cao, khả nĕng tiếp cận với dịch 
vụ y tế hạn chế, vấn đề chất lượng cuộc sống của 
người bệnh sau điều trị rất cần được quan tâm. Tuy 
nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào về nội dung 
này được tiến hành ở đây. Vì vậy, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này nhằm: 
Khảo sát chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung 
thư vú còn sống đã được điều trị tại Trung tâm Ung 
bướu - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên và tìm ra 
những yếu tố quan trọng liên quan tới chất lượng 
cuộc sống của họ. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 109 bệnh nhân ung thư vú được điều trị 
tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Trung ương 
Thái Nguyên. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú đã 
được điều trị từ 5 nĕm trở lên và trên 18 tuổi, 
bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu có đủ khả 
nĕng nghe nói hiểu tiếng việt, không mắc các bệnh 
tâm thần. 
Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân 
Bệnh nhân dưới 18 tuổi, bệnh nhân vừa 
hoàn thành phẫu thuật can thiệp hoặc bệnh nhân 
giai đoạn cuối, bệnh nhân quá yếu không trả lời 
được phỏng vấn, bệnh nhân không hợp tác và 
từ chối trả lời. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, cỡ mẫu có chủ 
đích lựa chon toàn bộ bệnh nhân nghiên cứu. 
Chỉ tiêu nghiên cứu 
Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu: Tình trạng 
nhân khẩu học. Tình trạng hôn nhân, phương pháp 
điều trị. 
Điểm chất lượng cuộc sống trung bình ở bệnh 
nhân nghiên cứu. 
Cách thu thập số liệu 
Thực hiện phỏng vấn trực tiếp các bệnh nhân 
ngoại trú tái khám và cấp thuốc với các thông tin 
hành chính và bảng câu hỏi về chất lượng 
cuộc sống, tình trạng tái phát, mức độ trầm trọng 
của bệnh. 
Công cụ thu thập số liệu 
Bảng câu hỏi về chất lượng cuộc sống của giáo 
sư Ferren’s (QLI. Đây là bảng câu hỏi chung cho tất 
cả các các loại ung thư gồm 70 câu hỏi. Bộ đo chất 
lượng cuộc sống gồm hai phần: Phần thứ nhất hỏi 
bệnh nhân về bạn cảm thấy thỏa mãn về sức khỏe 
và thể chất, kinh tế xã hội, tâm lý và gia đình, phần 
thứ hai với cùng những chủ đề như vậy bệnh nhân 
vẫn sẽ được hỏi những lĩnh vực đó quan trọng với 
bạn như thế nào. Đây là bộ công cụ đã được chuẩn 
hóa, nghiên cứu thĕm dò cho thấy bộ công cụ đảm 
bảo chất lượng để sử dụng ở đối tượng nghiên cứu 
là người Việt. 
Bảng câu hỏi ESAS hỏi về các triệu chứng hay 
gặp của bệnh nhân ung thư chia ra từ 0 đến 10 
điểm. 
Bảng câu hỏi về sự hỗ trợ xã hội gồm 23 câu 
hỏi chia làm 3 phần hỏi về sự hỗ trợ của gia đình, 
của bạn bè, của các tổ chức khac mỗi câu hỏi trong 
bộ câu hỏi chia từ 1 - 4 điểm. 
ĐIỀU DƯỜNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
399 
Đạo đức nghiên cứu 
Đề cương nghiên cứu đã được thông qua 
Hội đồng đạo đức Bệnh viện Trung ương Thái 
Nguyên và được phê duyệt thông qua quyết định 
của Bệnh viện. 
Đối tượng nghiên cứu được giải thích kỹ lưỡng 
và chỉ thực hiện khi có sự đồng thuận. Người nghiên 
cứu chỉ sử dụng các số liệuphục vụ cho mục đích 
nghiên cứu. 
Xử lý số liệu 
Theo chương trình SPSS version 17.0. 
Pearson’s correlation coefficient được thực hiện 
để kiểm tra mối liên hệ giữa (mức độ ảnh hưởng của 
triệu trứng, sự hỗ trợ của xã hội, yếu tố tâm linh) và 
biến phụ thuộc chất lượng cuộc sống của bệnh nhân 
ung thư vú. 
Point biserial correlation coefficient được sử 
dụng để kiểm tra mối liên hệ giữa tình trạng bệnh tật 
và chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân ung 
thư vú tại Thái Nguyên, Việt Nam. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1. Tuổi bệnh nhân nghiên cứu 
Độ tuổi Tuổi trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Số bệnh 
nhân 
Tỉ lệ % 
20-30 50,8 8,11 2 1,8 
31-40 9 8,2 
41-50 38 33,9 
51-60 54 50,5 
> 60 6 5,6 
Nhận xét: Độ tuổi bệnh nhân ung thư vú hay 
gặp nhất là 41-60. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân 
ung thư vú tham gia trong nghiên cứu này là 
50,81 ± 8,1. 
Bảng 2. Đặc điểm tình trạng hôn nhân, giai đoạn 
bệnh, kết quả điều trị 
Đặc điểm bệnh nhân Số bệnh nhân Tỉ lệ phần % 
Tái phát 30 27,5 
Không tái phát 79 72,5 
I 5 4,6 
II 74 67,9 
III 30 27,5 
Độc thân, li dị, góa bụa 17 16 
Đã kết hôn 92 84 
Nhận xét: Bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi 
đa số không tái phát 72,5%. Hầu hết bệnh nhân 
nghiên cứu được chẩn đoán giai đoạn II của bệnh 
67,9%. 
Bảng 3. Đặc điểm tôn giáo và nghề nghiệp của 
bệnh nhân 
Đặc điểm bệnh nhân Số bệnh nhân Tỉ lệ phần % 
Phật giáo 75 68,8 
Thiên chúa giáo 28 25,7 
Khác 6 5,5 
Lao động 38 34,9 
Công chức 18 16,5 
Buôn bán 12 11,0 
Nông dân 28 25,7 
Khác 13 11,9 
Nhận xét: Bệnh nhân nghiên cứu hầu hết phật 
giáo 68,8%, nông dân chiếm tỉ lệ lớn hơn 25,7%. 
Người tham gia là người lao động chiếm 34,9%, 
trong khi người buôn bán chiếm tỉ lệ thấp nhất 
(11%). 
Bảng 4. Các phương pháp đã điều trị 
Đặc điểm bệnh nhân Số bệnh nhân Tỉ lệ phần 
trĕm 
Hóa trị 1 0,9 
Xạ trị 3 2,8 
Phẫu thuật 3 2,8 
Hóa trị và xạ trị 1 0,9 
Hóa trị và phẫu thuật 17 15,6 
Hóa trị, xạ trị và phẫu thuật 84 77 
Nhận xét: Phần lớn người tham gia trải qua 
phẫu thuật, hóa trị liệu, và xạ trị (77%). 
Bảng 5. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân 
(n = 109) 
Chất lượng 
cuộc sống 
Điểm số trung bình Độ lệch 
chuẩn 
của điểm 
số 
Mức 
độ 
Người 
bình 
thường 
Bệnh 
nhân 
nghiên 
cứu 
Sức khỏe và 
hoạt động 
chức nĕng 
20,9 14,19 4,31 TB 
Kinh tế xã hội 22,9 16,40 3,58 TB 
Tâm lý 22,5 16,08 4,64 TB 
Gia đình 24,5 18,16 3,71 TB 
Tổng 22,1 15,73 3,67 TB 
Nhận xét: Điểm số trung bình chất lượng cuộc 
sống của bệnh nhân ung thư vú còn sống sót ở mức 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
400 
độ trung bình (15,73 ± 3,67). Khi xem xét từng phần 
riêng biệt, điểm số trung bình của sức khỏe và chức 
nĕngở mức độ trung bình (14,19 ± 4,31), điểm số trung 
bình của kinh tế xã hội ở mức độ trung bình 
(16,40 ± 3,58), điểmsố trung bình của tâm lý ở mức độ 
trung bình (16,08 ± 4,46), điểm số trung bình của gia 
đình ở mức độ trung bình (18,16 ± 3,71). 
Bảng 6. Yếu tố tâm linh, mức độ ảnh hưởng của 
triệu chứng, sự hỗ trợ của xã hội (n = 109) 
Chỉ tiêu 
nghiên cứu 
Điểm thấp nhất, 
cao nhất Điểm 
trung 
bình 
Độ 
lệch 
chuẩn 
điểm 
trung 
bình 
Mức 
độ Giới 
hạn 
Trung 
bình 
Yếu tố tâm 
linh 
10-40 19-39 29,43 4,50 Cao 
Triệu chứng 
đơn 0-110 21-95 53,94 14,21 TB 
Sự hỗ trợ xã 
hội 12-84 9,89 62,38 9,89 Cao 
Gia đình 4-28 13-28 22,15 3,5 Cao 
Bạn bè 4-28 12-28 20,11 3,84 Cao 
Khác 4-28 4-28 20,1 3,99 Cao 
Nhận xét: Tổng số điểm của yếu tố tâm linh là 
cao hơn ít so với điểm số trung bình yếu tố tâm linh 
có thể đạt được (29,43 ± 4.5). Điểm số trung bình 
của triệu chứng đơn thấp hơn ít so với khoảng điểm 
trung bình (53,94 ± 14,21). Điểm số trung bình của 
sự hỗ trợ xã hội của bệnh nhân ung thư vú còn sống 
cao hơn điểm số trung bình của sự hỗ trợ xã hội có 
thể đạt được. 
Bảng 7. Mối tương quan giữa tình trạng tái phát, yếu 
tố tâm linh, mức độ ảnh hưởng của triệu chứng, sự 
hỗ trợ của xã hội và chất lượng cuộc sống trong số 
bệnh nhân ung thư vú (n=109). 
Chỉ tiêu nghiên cứu Hệ số tương quan 
Tình trạng tái phát -0,16* 
Yếu tố tâm linh 0,12 
Mức độ ảnh hưởng của triệu chứng -0,23* 
Sự hỗ trợ của xã hội 0, 43** 
*p<0,05 **p<0,01 
Nhận xét: Mức độ ảnh hưởng của triệu chứng 
có mối tương quan nghịch với chất lượng cuộc sống 
của những bệnh nhân ung thư vú (r= -0,233, 
p<0,05). Sự hỗ trợ của xã hội của những người xung 
quanh có mối tương quan khá chặt chẽ với chất 
lượng cuộc sống. Tình trạng tái phát có mối tương 
quan nghịch với chất lượng cuộc sống của những 
bệnh nhân. Yếu tố tâm linh có mối tương quan chưa 
có ý nghĩa thống kê đến chất lượng cuộc sống của 
những bệnh nhân ung thư vú. 
BÀN LUẬN 
Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân 
ung thư vú tại tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam 
Kết quả đã chỉ ra rằng điểm chất lượng cuộc 
sống tổng quát ở mức độ trung bình (15,73 ± 3,67). 
Điểm số trung bình của sự hỗ trợ gia đình ở mức 
trung bình (18,16 ± 3,71) nhưng cao hơn sự hỗ trợ 
về kinh tế xã hội và tâm lý. Điều này có thể giải thích 
rằng: 95,4% bệnh nhân ung thư vú còn sống ở giai 
đoạn I và II của bệnh tại thời gian chẩn đoán. Người 
tham gia chịu đựng tác dụng phụ của chu trình điều 
trị, họ không chỉ có những thay đổi về chức nĕng 
sức khỏe mà còn cả về tâm lý và gia đình. Kết quả 
trên đã phù hợp với các nghiên cứu trước đây về 
mức trung bình của chất lượng cuộc sống của 
những bệnh nhân ung thư vú còn sống. Những 
nghiên cứu khác cũng đã sử dụng bộ câu hỏi đo 
chất lượng cuộc sống đã chứng tỏ rằng điểm số 
trung bình chất lượng cuộc sống của những bệnh 
nhân ung thư vú còn sống sót tại Thái Nguyên, Việt 
Nam thấp hơn so với điểm số trung bình chất lượng 
cuộc sống của những bệnh nhân ung thư vú còn 
sống sót tại các nước phát triển. 
Mối liên hệ giữa tình trạng bệnh tật, triệu chứng 
đơn, sự hỗ trợ của xã hội, tâm linh, và chất 
lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú 
sống sót tại tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam 
Kết quả nghiên cứu chỉ ra triệu chứng đơn có 
mối tương quan nghịch với chất lượng cuộc sống 
r= - 0,233, p<0,05). Nhận định này phù hợp với 
những nghiên cứu trước đã chỉ ra triệu chứng đơn 
có liên quan đến giảm chất lượng cuộc sống. Triệu 
chứng đơn được biểu hiện sự thay đổi trong chức 
nĕng sinh lý liên quan tới bệnh của bệnh nhân. 
Những bệnh nhân ung thư còn sống sót được chẩn 
đoán với ung thư vú hơn 5 nĕm, đã phải trải qua 
phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, có thể dẫn đến những thay 
đổi về tâm sinh lý. Đánh giá tốt các triệu chứng đơn 
giúp tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng cuộc 
sống bệnh nhân ung thư vú. Nhận định này phù hợp 
với những nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng triệu 
chứng đau khổ có mối tương quan nghịch với chất 
lượng cuộc sống. 
Kết quả đã chỉ ra mối tương quan thuận giữa 
sự hỗ trợ của xã hội và chất lượng cuộc sống của 
bệnh nhân ung thư vú còn sống sót (r= 0,433, 
p<0,01). Sự hỗ trợ của xã hội là sự chia sẻ, động 
viên, giúp đỡ từ gia đình, bạn bè và nhân viên y tế. 
Kết quả chỉ ra rằng của những bệnh nhân ung thư 
vú còn sống sót được nhận nhiều hơn sự giúp đỡ và 
bảo vệ sẽ được nâng cao hơn trong chất lượng cuộc 
ĐIỀU DƯỜNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
401 
sống. Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu 
trước đã chỉ ra rằng sự hỗ trợ của xã hội có mối 
quan hệ tích cực tới chất lượng cuộc sống 
(r = 0,388, p<0,01). Hơn nữa, trong một nghiên cứu 
thực hiện bởi Sammarco (2009)6 chỉ ra rằng có mối 
tương quan có ý nghĩa thống kê giữa sự hỗ trợ xã 
hội với chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú. 
Tình trạng tái phát có mối tương quan nghịch 
tới chất lượng cuộc sống (r = -0,16, p<0,05), 
Yếu tố tâm linh là chưa có mối tương quan có ý 
nghĩa thống kê tới chất lượng cuộc sống những 
bệnh nhân ung thư vú trong nghiên cứu này 
(r = 0,115, p>0,01).Một lý do thỏa đáng giải thích kết 
quả nghiên cứu là sự khác nhau về vĕn hóa và 
phong tục tập quán dẫn tới sự khác nhau về kết quả 
nghiên cứu. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 109 bệnh nhân ung thư vú còn 
sống sót sau điều trị tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh 
viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên chúng tôi 
thấy: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ở mức 
trung bình (điểm số trung bình: 15,73 ± 3,67). 
- Mức độ ảnh hưởng triệu chứng, tình trạng tái 
phát có ảnh hưởng xấu tới chất lượng cuộc sống 
của bệnh nhân. Sự hỗ trợ của xã hội có tác động tốt 
tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. 
Kết quả của nghiên cứu cung cấp sự hiểu biết 
về chất lượng cuộc sống trong số bệnh nhân ung 
thư vú. Từ đó giúp cho thầy thuốc, cộng đồng có 
phương pháp, kế hoạch nhằm tĕng cường sự hỗ trợ 
xã hội, hạn chế tái phát, giảm mức độ ảnh hưởng 
của triệu chứng để nâng cao chất lượng cuộc sống 
của bệnh nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Anh, P.T.H. & Duc, N.B (2008), “The situation 
with cancer control in Vietnam”. National Cancer 
Institute.1837-1846. 
2. Levine, E. G., Yoo, G., Aviv, C., Ewing, C., & Au, 
A, (2007), “Ethnicity and spirituality in breast 
cancer survivors”. Journa of cancer survivorship 
Research and practice. 212-225. 
3. Paraskevi, T, (2012), “Quality of life outcomes in 
patients with breast cancer” Oncology review.7-
10. 
4. Ganz, P. A., Desmond, K. A., Leedham, B., 
Rowland, J. H., Meyerowitz, B. E., & Belin, T. R, 
(2002), “Quality of life in long-term, disease-free 
survivors of breast cancer: a follow-up study”. 
Journal Of The National Cancer Institute. 39-49. 
5. Sammarco, A., & Konecny, L. M, (2008), “Quality 
of life, social support, and uncertainty among 
Latina breast cancer survivors”. Oncology 
Nursing Forum.844-849. 
6. McMillian, S., & Brent, J, (2002), “Symptom 
distress and quality of life in patients with cancer 
newly admitted to hospice care”. Oncology 
Nursing Fourm.1421-1428 
7. Ferrans, C.E, (1990), “Quality of life: Conceptual 
issues”. Seminars in Oncology Nursing. 248-250. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_thuc_trang_chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_ung_t.pdf