Đánh giá thực trạng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú điều trị tại Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên
Mục tiêu: Khảo sát thực trạng chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú và chỉ ra những yếu tố ảnh
hưởng tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân điều trị tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên từ tháng 4 năm 2017 đến tháng 9 năm 2017.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang 109 bệnh nhân được phỏng vấn qua bộ
câu hỏi chất lượng cuộc sống QLI (Quality of life index).
Kết quả: Tuổi trung bình 50,8 tuổi. Điểm số chất lượng cuộc sống tổng quát là ở mức trung bình
(15,73 ± 3,67). Điểm số sự hỗ trợ xã hội ở mức cao 62,8. Điểm số trung bình triệu chứng đơn theo ESAS là ở
mức trung bình. Có một sự tương quan thuận giữa sự hỗ trợ của xã hội và chất lượng cuộc sống (r=0,433,
p<0,01). triệu="" chứng="" đơn,="" tình="" trạng="" tái="" phát="" có="" tương="" quan="" nghịch="" với="" chất="" lượng="" cuộc="" sống="" (r="-">0,01).>
r= - 0,16, p<>
Kết luận: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú ở mức độ trung bình. Sự hỗ trợ của xã hội có
tác động tốt vào chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực trạng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú điều trị tại Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên
ĐIỀU DƯỜNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 397 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ ĐIỀU TRỊ TẠI TRUNG TÂM UNG BƯỚU THÁI NGUYÊN NGUYỄN ĐỨC THÀNH1, NGÔ THỊ TÍNH2, TRẦN BẢO NGỌC3 TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát thực trạng chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú và chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân điều trị tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 4 nĕm 2017 đến tháng 9 nĕm 2017. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang 109 bệnh nhân được phỏng vấn qua bộ câu hỏi chất lượng cuộc sống QLI (Quality of life index). Kết quả: Tuổi trung bình 50,8 tuổi. Điểm số chất lượng cuộc sống tổng quát là ở mức trung bình (15,73 ± 3,67). Điểm số sự hỗ trợ xã hội ở mức cao 62,8. Điểm số trung bình triệu chứng đơn theo ESAS là ở mức trung bình. Có một sự tương quan thuận giữa sự hỗ trợ của xã hội và chất lượng cuộc sống (r=0,433, p<0,01). Triệu chứng đơn, tình trạng tái phát có tương quan nghịch với chất lượng cuộc sống (r= - 0,233, r= - 0,16, p<0,01). Kết luận: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú ở mức độ trung bình. Sự hỗ trợ của xã hội có tác động tốt vào chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Từ khóa: Ung thư vú, chất lượng cuộc sống, sự hỗ trợ xã hội. ABSTRACT Objetives: To describe the quality of life of breast cancer survivors, who being treated in oncology center of Thai Nguyen National Hospital, In addition, to determine factors effected to quality of life among breast cancer survivors in Oncology center, Thai Nguyen National Hospital, Thai Nguyen province, Vietnam. Method: Using a descriptive cross-sectional study on 109 breast cancer survivors who selected by simple random technique. They were interviewed directly through three questionnaires on quality of life of (QLI), ESAS, social support. Results: The mean total score of quality of life among breast cancer survivors was 15,73 ± 3.67 in median level. The mean total score of symptom distress, social support and spirituality were 62,38 ± 9.89, 53,94 ± 14.21, 29,43 ± 4.5. There were significantly positive correlation between social support and quality of life (r=0,433, p<.001). Symptom distress, recurrence status had a significantly negative correlation with quality of life (r= -0,233, p<0,01). Conclusion: The quality of life breast cancer survivors was at median level. The social support had a positive effect, the symptom distress, recurrence status had a negative effect on quality of life.Therefore, and the breast cancer survivors should be monitored from the symptom distress, prevention from recurrence status and should get support to improve quality of life. Keywords: Quality of life, breast cancer survivors, social support. 1 ThS.ĐD. Khoa Khám bệnh-Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên 2 TS.BS. Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên 3 TS.BS. Bộ môn Ung Bướu-Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 398 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư vú là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất đối với phái nữ[4]. Tại Việt Nam, 43/100.000 phụ nữ được chẩn đoán với ung thư vú. Ung thư vú chiếm khoảng 34% trong tất cả các trường hợp ung thư ở nữ giới được báo cáo ở Việt Nam. Tỷ lệ mắc phải của bệnh ngày càng gia tĕng, nĕm 2005 là 15/100.000 phụ nữ với độ tuổi trung bình 51,3. Đến nĕm 2008, tỉ lệ này là 18-27/100.000 mỗi nĕm[3]. Phụ nữ chẩn đoán với ung thư vú bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, bao gồm những ảnh hưởng tới thể chất, nỗi sợ bị tái phát, thay đổi hình ảnh của bản thân sau phẫu thuật vú, thay đổi trong mối quan hệ gia đình và thay đổi trong quan hệ vợ chồng[1]. Mặc dù ung thư vú có thể được chữa khỏi và kéo dài sự sống cho người bệnh, chất lượng sống của bệnh nhân ung thư vú vẫn bị giảm sút rõ rệt so với người bình thường. Mặc dù tại các nước phát triển chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú cao, tuy nhiên vẫn có những nhóm nhỏ hơn bệnh nhân ung thư vú ở các nước đang phát triển có chất lượng cuộc sống thấp[14]. Chất lượng cuộc sống là đánh giá chủ quan của người bệnh về sức khỏe của bản thân nó bao gồm các thành phần như: sức khỏe và hoạt động chức nĕng, kinh tế xã hội, tâm lý và gia đình. Cùng với sự tiến bộ của các phương pháp điều trị mới đã và đang kiểm soát được các triệu chứng nhưng nó cũng gây ra các ảnh hưởng lên tình cảm, tâm lý, và thể chất, tất cả những ảnh hưởng này phối hợp và tương tác lẫn nhau dẫn đến sự giảm chất lượng cuộc sống[4]. Bệnh viện Đa khoa trung ương Thái Nguyên là nơi điều trị cho rất nhiều bệnh nhân ung thư vú ở khu vực miền núi phía Bắc. Với điều kiện kinh tế xã hội đặc thù như tỷ lệ đồng bào dân tộc nhiều, thu nhập chưa thực sự cao, khả nĕng tiếp cận với dịch vụ y tế hạn chế, vấn đề chất lượng cuộc sống của người bệnh sau điều trị rất cần được quan tâm. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào về nội dung này được tiến hành ở đây. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm: Khảo sát chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú còn sống đã được điều trị tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên và tìm ra những yếu tố quan trọng liên quan tới chất lượng cuộc sống của họ. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Gồm 109 bệnh nhân ung thư vú được điều trị tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Tiêu chuẩn chọn mẫu Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú đã được điều trị từ 5 nĕm trở lên và trên 18 tuổi, bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu có đủ khả nĕng nghe nói hiểu tiếng việt, không mắc các bệnh tâm thần. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân Bệnh nhân dưới 18 tuổi, bệnh nhân vừa hoàn thành phẫu thuật can thiệp hoặc bệnh nhân giai đoạn cuối, bệnh nhân quá yếu không trả lời được phỏng vấn, bệnh nhân không hợp tác và từ chối trả lời. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang, cỡ mẫu có chủ đích lựa chon toàn bộ bệnh nhân nghiên cứu. Chỉ tiêu nghiên cứu Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu: Tình trạng nhân khẩu học. Tình trạng hôn nhân, phương pháp điều trị. Điểm chất lượng cuộc sống trung bình ở bệnh nhân nghiên cứu. Cách thu thập số liệu Thực hiện phỏng vấn trực tiếp các bệnh nhân ngoại trú tái khám và cấp thuốc với các thông tin hành chính và bảng câu hỏi về chất lượng cuộc sống, tình trạng tái phát, mức độ trầm trọng của bệnh. Công cụ thu thập số liệu Bảng câu hỏi về chất lượng cuộc sống của giáo sư Ferren’s (QLI. Đây là bảng câu hỏi chung cho tất cả các các loại ung thư gồm 70 câu hỏi. Bộ đo chất lượng cuộc sống gồm hai phần: Phần thứ nhất hỏi bệnh nhân về bạn cảm thấy thỏa mãn về sức khỏe và thể chất, kinh tế xã hội, tâm lý và gia đình, phần thứ hai với cùng những chủ đề như vậy bệnh nhân vẫn sẽ được hỏi những lĩnh vực đó quan trọng với bạn như thế nào. Đây là bộ công cụ đã được chuẩn hóa, nghiên cứu thĕm dò cho thấy bộ công cụ đảm bảo chất lượng để sử dụng ở đối tượng nghiên cứu là người Việt. Bảng câu hỏi ESAS hỏi về các triệu chứng hay gặp của bệnh nhân ung thư chia ra từ 0 đến 10 điểm. Bảng câu hỏi về sự hỗ trợ xã hội gồm 23 câu hỏi chia làm 3 phần hỏi về sự hỗ trợ của gia đình, của bạn bè, của các tổ chức khac mỗi câu hỏi trong bộ câu hỏi chia từ 1 - 4 điểm. ĐIỀU DƯỜNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 399 Đạo đức nghiên cứu Đề cương nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng đạo đức Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên và được phê duyệt thông qua quyết định của Bệnh viện. Đối tượng nghiên cứu được giải thích kỹ lưỡng và chỉ thực hiện khi có sự đồng thuận. Người nghiên cứu chỉ sử dụng các số liệuphục vụ cho mục đích nghiên cứu. Xử lý số liệu Theo chương trình SPSS version 17.0. Pearson’s correlation coefficient được thực hiện để kiểm tra mối liên hệ giữa (mức độ ảnh hưởng của triệu trứng, sự hỗ trợ của xã hội, yếu tố tâm linh) và biến phụ thuộc chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú. Point biserial correlation coefficient được sử dụng để kiểm tra mối liên hệ giữa tình trạng bệnh tật và chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân ung thư vú tại Thái Nguyên, Việt Nam. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1. Tuổi bệnh nhân nghiên cứu Độ tuổi Tuổi trung bình Độ lệch chuẩn Số bệnh nhân Tỉ lệ % 20-30 50,8 8,11 2 1,8 31-40 9 8,2 41-50 38 33,9 51-60 54 50,5 > 60 6 5,6 Nhận xét: Độ tuổi bệnh nhân ung thư vú hay gặp nhất là 41-60. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân ung thư vú tham gia trong nghiên cứu này là 50,81 ± 8,1. Bảng 2. Đặc điểm tình trạng hôn nhân, giai đoạn bệnh, kết quả điều trị Đặc điểm bệnh nhân Số bệnh nhân Tỉ lệ phần % Tái phát 30 27,5 Không tái phát 79 72,5 I 5 4,6 II 74 67,9 III 30 27,5 Độc thân, li dị, góa bụa 17 16 Đã kết hôn 92 84 Nhận xét: Bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi đa số không tái phát 72,5%. Hầu hết bệnh nhân nghiên cứu được chẩn đoán giai đoạn II của bệnh 67,9%. Bảng 3. Đặc điểm tôn giáo và nghề nghiệp của bệnh nhân Đặc điểm bệnh nhân Số bệnh nhân Tỉ lệ phần % Phật giáo 75 68,8 Thiên chúa giáo 28 25,7 Khác 6 5,5 Lao động 38 34,9 Công chức 18 16,5 Buôn bán 12 11,0 Nông dân 28 25,7 Khác 13 11,9 Nhận xét: Bệnh nhân nghiên cứu hầu hết phật giáo 68,8%, nông dân chiếm tỉ lệ lớn hơn 25,7%. Người tham gia là người lao động chiếm 34,9%, trong khi người buôn bán chiếm tỉ lệ thấp nhất (11%). Bảng 4. Các phương pháp đã điều trị Đặc điểm bệnh nhân Số bệnh nhân Tỉ lệ phần trĕm Hóa trị 1 0,9 Xạ trị 3 2,8 Phẫu thuật 3 2,8 Hóa trị và xạ trị 1 0,9 Hóa trị và phẫu thuật 17 15,6 Hóa trị, xạ trị và phẫu thuật 84 77 Nhận xét: Phần lớn người tham gia trải qua phẫu thuật, hóa trị liệu, và xạ trị (77%). Bảng 5. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (n = 109) Chất lượng cuộc sống Điểm số trung bình Độ lệch chuẩn của điểm số Mức độ Người bình thường Bệnh nhân nghiên cứu Sức khỏe và hoạt động chức nĕng 20,9 14,19 4,31 TB Kinh tế xã hội 22,9 16,40 3,58 TB Tâm lý 22,5 16,08 4,64 TB Gia đình 24,5 18,16 3,71 TB Tổng 22,1 15,73 3,67 TB Nhận xét: Điểm số trung bình chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú còn sống sót ở mức ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 400 độ trung bình (15,73 ± 3,67). Khi xem xét từng phần riêng biệt, điểm số trung bình của sức khỏe và chức nĕngở mức độ trung bình (14,19 ± 4,31), điểm số trung bình của kinh tế xã hội ở mức độ trung bình (16,40 ± 3,58), điểmsố trung bình của tâm lý ở mức độ trung bình (16,08 ± 4,46), điểm số trung bình của gia đình ở mức độ trung bình (18,16 ± 3,71). Bảng 6. Yếu tố tâm linh, mức độ ảnh hưởng của triệu chứng, sự hỗ trợ của xã hội (n = 109) Chỉ tiêu nghiên cứu Điểm thấp nhất, cao nhất Điểm trung bình Độ lệch chuẩn điểm trung bình Mức độ Giới hạn Trung bình Yếu tố tâm linh 10-40 19-39 29,43 4,50 Cao Triệu chứng đơn 0-110 21-95 53,94 14,21 TB Sự hỗ trợ xã hội 12-84 9,89 62,38 9,89 Cao Gia đình 4-28 13-28 22,15 3,5 Cao Bạn bè 4-28 12-28 20,11 3,84 Cao Khác 4-28 4-28 20,1 3,99 Cao Nhận xét: Tổng số điểm của yếu tố tâm linh là cao hơn ít so với điểm số trung bình yếu tố tâm linh có thể đạt được (29,43 ± 4.5). Điểm số trung bình của triệu chứng đơn thấp hơn ít so với khoảng điểm trung bình (53,94 ± 14,21). Điểm số trung bình của sự hỗ trợ xã hội của bệnh nhân ung thư vú còn sống cao hơn điểm số trung bình của sự hỗ trợ xã hội có thể đạt được. Bảng 7. Mối tương quan giữa tình trạng tái phát, yếu tố tâm linh, mức độ ảnh hưởng của triệu chứng, sự hỗ trợ của xã hội và chất lượng cuộc sống trong số bệnh nhân ung thư vú (n=109). Chỉ tiêu nghiên cứu Hệ số tương quan Tình trạng tái phát -0,16* Yếu tố tâm linh 0,12 Mức độ ảnh hưởng của triệu chứng -0,23* Sự hỗ trợ của xã hội 0, 43** *p<0,05 **p<0,01 Nhận xét: Mức độ ảnh hưởng của triệu chứng có mối tương quan nghịch với chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân ung thư vú (r= -0,233, p<0,05). Sự hỗ trợ của xã hội của những người xung quanh có mối tương quan khá chặt chẽ với chất lượng cuộc sống. Tình trạng tái phát có mối tương quan nghịch với chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân. Yếu tố tâm linh có mối tương quan chưa có ý nghĩa thống kê đến chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân ung thư vú. BÀN LUẬN Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú tại tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam Kết quả đã chỉ ra rằng điểm chất lượng cuộc sống tổng quát ở mức độ trung bình (15,73 ± 3,67). Điểm số trung bình của sự hỗ trợ gia đình ở mức trung bình (18,16 ± 3,71) nhưng cao hơn sự hỗ trợ về kinh tế xã hội và tâm lý. Điều này có thể giải thích rằng: 95,4% bệnh nhân ung thư vú còn sống ở giai đoạn I và II của bệnh tại thời gian chẩn đoán. Người tham gia chịu đựng tác dụng phụ của chu trình điều trị, họ không chỉ có những thay đổi về chức nĕng sức khỏe mà còn cả về tâm lý và gia đình. Kết quả trên đã phù hợp với các nghiên cứu trước đây về mức trung bình của chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân ung thư vú còn sống. Những nghiên cứu khác cũng đã sử dụng bộ câu hỏi đo chất lượng cuộc sống đã chứng tỏ rằng điểm số trung bình chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân ung thư vú còn sống sót tại Thái Nguyên, Việt Nam thấp hơn so với điểm số trung bình chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân ung thư vú còn sống sót tại các nước phát triển. Mối liên hệ giữa tình trạng bệnh tật, triệu chứng đơn, sự hỗ trợ của xã hội, tâm linh, và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú sống sót tại tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam Kết quả nghiên cứu chỉ ra triệu chứng đơn có mối tương quan nghịch với chất lượng cuộc sống r= - 0,233, p<0,05). Nhận định này phù hợp với những nghiên cứu trước đã chỉ ra triệu chứng đơn có liên quan đến giảm chất lượng cuộc sống. Triệu chứng đơn được biểu hiện sự thay đổi trong chức nĕng sinh lý liên quan tới bệnh của bệnh nhân. Những bệnh nhân ung thư còn sống sót được chẩn đoán với ung thư vú hơn 5 nĕm, đã phải trải qua phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, có thể dẫn đến những thay đổi về tâm sinh lý. Đánh giá tốt các triệu chứng đơn giúp tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú. Nhận định này phù hợp với những nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng triệu chứng đau khổ có mối tương quan nghịch với chất lượng cuộc sống. Kết quả đã chỉ ra mối tương quan thuận giữa sự hỗ trợ của xã hội và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú còn sống sót (r= 0,433, p<0,01). Sự hỗ trợ của xã hội là sự chia sẻ, động viên, giúp đỡ từ gia đình, bạn bè và nhân viên y tế. Kết quả chỉ ra rằng của những bệnh nhân ung thư vú còn sống sót được nhận nhiều hơn sự giúp đỡ và bảo vệ sẽ được nâng cao hơn trong chất lượng cuộc ĐIỀU DƯỜNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 401 sống. Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng sự hỗ trợ của xã hội có mối quan hệ tích cực tới chất lượng cuộc sống (r = 0,388, p<0,01). Hơn nữa, trong một nghiên cứu thực hiện bởi Sammarco (2009)6 chỉ ra rằng có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa sự hỗ trợ xã hội với chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú. Tình trạng tái phát có mối tương quan nghịch tới chất lượng cuộc sống (r = -0,16, p<0,05), Yếu tố tâm linh là chưa có mối tương quan có ý nghĩa thống kê tới chất lượng cuộc sống những bệnh nhân ung thư vú trong nghiên cứu này (r = 0,115, p>0,01).Một lý do thỏa đáng giải thích kết quả nghiên cứu là sự khác nhau về vĕn hóa và phong tục tập quán dẫn tới sự khác nhau về kết quả nghiên cứu. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 109 bệnh nhân ung thư vú còn sống sót sau điều trị tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên chúng tôi thấy: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ở mức trung bình (điểm số trung bình: 15,73 ± 3,67). - Mức độ ảnh hưởng triệu chứng, tình trạng tái phát có ảnh hưởng xấu tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Sự hỗ trợ của xã hội có tác động tốt tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Kết quả của nghiên cứu cung cấp sự hiểu biết về chất lượng cuộc sống trong số bệnh nhân ung thư vú. Từ đó giúp cho thầy thuốc, cộng đồng có phương pháp, kế hoạch nhằm tĕng cường sự hỗ trợ xã hội, hạn chế tái phát, giảm mức độ ảnh hưởng của triệu chứng để nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anh, P.T.H. & Duc, N.B (2008), “The situation with cancer control in Vietnam”. National Cancer Institute.1837-1846. 2. Levine, E. G., Yoo, G., Aviv, C., Ewing, C., & Au, A, (2007), “Ethnicity and spirituality in breast cancer survivors”. Journa of cancer survivorship Research and practice. 212-225. 3. Paraskevi, T, (2012), “Quality of life outcomes in patients with breast cancer” Oncology review.7- 10. 4. Ganz, P. A., Desmond, K. A., Leedham, B., Rowland, J. H., Meyerowitz, B. E., & Belin, T. R, (2002), “Quality of life in long-term, disease-free survivors of breast cancer: a follow-up study”. Journal Of The National Cancer Institute. 39-49. 5. Sammarco, A., & Konecny, L. M, (2008), “Quality of life, social support, and uncertainty among Latina breast cancer survivors”. Oncology Nursing Forum.844-849. 6. McMillian, S., & Brent, J, (2002), “Symptom distress and quality of life in patients with cancer newly admitted to hospice care”. Oncology Nursing Fourm.1421-1428 7. Ferrans, C.E, (1990), “Quality of life: Conceptual issues”. Seminars in Oncology Nursing. 248-250.
File đính kèm:
danh_gia_thuc_trang_chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_ung_t.pdf

