Đánh giá tác dụng của ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân lên biến đổi vi khuẩn bề mặt và tế bào viêm tại chỗ vết thương mạn tính

TÓM TẮT

Mục tiêu: nghiên cứu vai trò của ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân lên biến đổi vi khuẩn và

tế bào viêm tại chỗ vết thương mạn tính. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu 30 bệnh nhân

có vết thương mạn tính điều trị nội trú tại Trung tâm Liền vết thương, Bệnh viện Bỏng Quốc gia

từ tháng 10 - 2016 đến 6 - 2017. Tuổi trung bình 53,53 ± 18,1; tỷ lệ nam/nữ là 2/3. Tất cả bệnh

nhân được ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân lên bề mặt vết thương mỗi 3 - 5 ngày. Trước

ghép, sau ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân 7 ngày, 15 ngày và 20 ngày, tiến hành cấy khuẩn

bề mặt vết thương, đếm số lượng vi khuẩn trên 1 cm2 bề mặt vết thương. Sinh thiết mô tại chỗ

vết thương, xác định số lượng tế bào viêm trên một vi trường trên tiêu bản nhuộm H.E. Kết

quả: tỷ lệ vết thương cấy khuẩn dương tính với vi khuẩn giảm dần sau ghép tế bào gốc mô mỡ

(từ 70% giảm xuống 30% sau ghép 15 ngày và 28% sau ghép 20 ngày). Số lượng các vi khuẩn

P. aeruginosa, S. aureus, Aci. baumanii, K. pneumoniae trên 1 cm2 diện tích bề mặt vết thương

giảm rõ rệt sau ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân. Số lượng tế bào viêm giảm dần có ý nghĩa

thống kê sau ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân. Kết luận: tế bào gốc từ mô mỡ tự thân hỗ trợ

làm giảm nhiễm khuẩn và tình trạng viêm tại chỗ vết thương mạn tính.

pdf 8 trang phuongnguyen 7060
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tác dụng của ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân lên biến đổi vi khuẩn bề mặt và tế bào viêm tại chỗ vết thương mạn tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tác dụng của ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân lên biến đổi vi khuẩn bề mặt và tế bào viêm tại chỗ vết thương mạn tính

Đánh giá tác dụng của ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân lên biến đổi vi khuẩn bề mặt và tế bào viêm tại chỗ vết thương mạn tính
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2019 
 69 
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG CỦA GHÉP TẾ BÀO GỐC TỪ MÔ MỠ TỰ THÂN 
LÊN BIẾN ĐỔI VI KHUẨN BỀ MẶT VÀ TẾ BÀO VIÊM 
TẠI CHỖ VẾT THƢƠNG MẠN TÍNH 
Nguyễn Tiến Dũng1; Đinh Văn Hân1; Nguyễn Thành Chung2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: nghiên cứu vai trò của ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân lên biến đổi vi khuẩn và 
tế bào viêm tại chỗ vết thương mạn tính. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu 30 bệnh nhân 
có vết thương mạn tính điều trị nội trú tại Trung tâm Liền vết thương, Bệnh viện Bỏng Quốc gia 
từ tháng 10 - 2016 đến 6 - 2017. Tuổi trung bình 53,53 ± 18,1; tỷ lệ nam/nữ là 2/3. Tất cả bệnh 
nhân được ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân lên bề mặt vết thương mỗi 3 - 5 ngày. Trước 
ghép, sau ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân 7 ngày, 15 ngày và 20 ngày, tiến hành cấy khuẩn 
bề mặt vết thương, đếm số lượng vi khuẩn trên 1 cm
2
 bề mặt vết thương. Sinh thiết mô tại chỗ 
vết thương, xác định số lượng tế bào viêm trên một vi trường trên tiêu bản nhuộm H.E. Kết 
quả: tỷ lệ vết thương cấy khuẩn dương tính với vi khuẩn giảm dần sau ghép tế bào gốc mô mỡ 
(từ 70% giảm xuống 30% sau ghép 15 ngày và 28% sau ghép 20 ngày). Số lượng các vi khuẩn 
P. aeruginosa, S. aureus, Aci. baumanii, K. pneumoniae trên 1 cm
2
 diện tích bề mặt vết thương 
giảm rõ rệt sau ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân. Số lượng tế bào viêm giảm dần có ý nghĩa 
thống kê sau ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân. Kết luận: tế bào gốc từ mô mỡ tự thân hỗ trợ 
làm giảm nhiễm khuẩn và tình trạng viêm tại chỗ vết thương mạn tính. 
* Từ khoá: Vết thương mạn tính; Tế bào gốc từ mô mỡ; Vi khuẩn; Tế bào viêm. 
Studying the Effectiveness of Autologous Transplantation of 
Adipose-Derived Stem Cells on Bacterial and Inflammatory Cellular 
Changes of Chronic Wound 
Summary 
Objectives: Evaluating the effectiveness of autologous transplantation of adipose-derived 
stem cells on bacterial and inflammatory cellular changes of chronic wound. Subjects and methods: 
We studied 30 patients with chronic wound, who hospitalized at Wound Healing Center, 
National Institute of Burns from October, 2016 to June, 2017. The mean age was 53.53 ± 18.1, 
male/female ratio was 2/3. All patients were grafted the autologous adipose-derived stem cells 
once every 3 - 5 days. The bacterial culture and wound biopsy was done before and after the 
autologous transplantation of adipose-derived stem cells, 7 days, 15 days and 20 days for counting 
bacterial number per 1 cm
2
 of wound surface and inflammatory cellular number on H.E stain. 
1. Bệnh viện Bỏng Quốc gia 
2. Học viện Quân y 
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Tiến Dũng (ntzung_0350@yahoo.com) 
Ngày nhận bài: 26/02/2019; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 26/03/2019 
 Ngày bài báo được đăng: 10/04/2019 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2019 
 70 
Results: The ratio of positive wound culture decreased gradually (70% at pre-grafting reduced to 
30% at the 15
th
 day and 28% at the 20
th
 day post-grafting). Compared to status before adipose-
derived stem cells grafting, bacterial number per 1 cm
2 
of P. aeruginosa, S. aureus, Aci. 
baumanii, K. pneumoniae and inflammatory cellular number after adipose-derived stem cells 
grafting decreased significantly. Conclusion: Autologous adipose-derived stem cells support to 
reduce bacterial contamination and inflammatory status of chronic wound. 
* Keywords: Chronic wound; Adipose-derived stem cells; Bacteria; Inflammatory cell. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong xã hội hiện đại, tỷ lệ bệnh nhân 
(BN) có vết thương mạn tính (VTMT) ngày 
càng gia tăng cùng với xuất hiện bệnh 
mạn tính như tim mạch, đái tháo đường, 
đột quỵ não... Đối với VTMT, tại chỗ vết 
thương tiết quá nhiều cytokine tiền viêm 
và các enzym phân huỷ protein, kèm theo 
tình trạng nhiễm trùng dai dẳng [1]. Tế 
bào gốc phân lập được từ mô mỡ là tế 
bào gốc trung mô có hình dáng nguyên 
bào sợi, có khả năng tạo colony và biệt 
hoá thành nhiều loại mô khác nhau hiện 
được sử dụng nhiều trong y học tái tạo, 
trong đó có điều trị VTMT. Trên thực 
nghiệm nhiều tác giả cho rằng tế bào gốc 
mỡ (TBGM) có tác dụng kháng khuẩn 
nhờ tiết ra peptid LL-37 có tác dụng ức 
chế phát triển vi khuẩn Gram âm (E. coli, 
P. aeruginosa) và vi khuẩn Gram dương 
như S. aurues, cũng như tiết ra các 
cytokine tiền viêm và cytokine kháng viêm 
làm giảm tình trạng nhiễm khuẩn và viêm 
tại chỗ vết thương [2; 3]. Do vậy, chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm 
làm sáng tỏ vai trò của ghép tế bào gốc 
từ mô mỡ tự thân lên biến đổi vi khuẩn bề 
mặt và tế bào viêm tại chỗ VTMT. 
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tƣợng nghiên cứu. 
30 BN với 38 VTMT, tuổi trung bình 
53,53 ± 18,1; tỷ lệ nam/nữ 2/3; BN điều trị 
nội trú tại Trung tâm Liền vết thương, 
Bệnh viện Bỏng Quốc gia từ tháng 10 - 
2016 đến 6 - 2017. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: BN có vết thương 
do xạ trị hoặc do ung thư. BN mắc các 
bệnh truyền nhiễm: HIV, viêm gan B, 
viêm gan C. 
2. Trang thiết bị, vật tƣ nghiên cứu. 
Tấm TBGM tự thân do Khoa Labo, 
Bệnh viện Bỏng Quốc gia cung cấp (tấm 
TBGM đạt tiêu chuẩn cơ sở: thế hệ tế 
bào từ P3-5, tế bào còn khả năng phân 
chia, hình dạng tế bào bình thường, giá 
đỡ là màng polycarbonat có kích thước lỗ 
3 µm, độ che phủ của tế bào trên giá đỡ 
5 x 104 tế bào/cm2, độ che phủ đạt 90%, 
tấm tế bào vô khuẩn, vô nấm). Kim sinh 
thiết (biopsy puch) đường kính 7 mm do 
Italia sản xuất. 
3. Phƣơng pháp nghiên cứu. 
Tất cả BN vào viện đều được xác định 
các chỉ tiêu: tuổi, giới tính, tiền sử bệnh, 
nguyên nhân gây VTMT, độ sâu và kích 
thước VTMT. 
* Ghép tấm tế bào gốc từ mô m tự 
thân: 
- Chuẩn bị nền vết thương phục vụ 
ghép TBGM: thay băng, lấy bỏ tổ chức 
hoại tử, giả mạc, đắp thuốc kháng khuẩn 
tại chỗ (mỡ betadine, silvirin 1%, askina 
Ag) hoặc phẫu thuật cắt ổ loét. 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2019 
 71 
* Chỉ định ghép: VTMT thỏa mãn các 
điều kiện sau: 
- Vết thương sạch hoại tử, không lộ 
xương, gân. 
- Vết thương không có dấu hiệu nhiễm 
khuẩn trên lâm sàng. 
- Vết thương không có đường hầm, 
hàm ếch thông với các khoang. 
Ghép tấm TBGM tự thân: ghép sao 
cho tấm tế bào gốc phủ kín toàn bộ bề 
mặt vết thương, sau đó đắp gạc nhàu 
vaselin lên trên tấm tế bào gốc, đặt gạc 
vô khuẩn 6 lớp lên trên lớp gạc vaselin, 
băng ép vết thương. Thay tấm TBGM sau 
mỗi 3 - 5 ngày cho tới khi vết thương khỏi 
hoặc có chỉ định can thiệp bằng phẫu 
thuật. Sau ghép, tránh để BN tỳ đè lên 
trên bề mặt vết thương, luôn giữ cho vết 
thương khô, thay lớp gạc bên ngoài nếu 
vết thương tiết dịch nhiều mà chưa đến 
thời hạn ghép tấm tế bào. 
* Nghiên cứu biến đổi vi khuẩn bề mặt 
và tế bào viêm tại chỗ VTMT: 
Tại thời điểm nghiên cứu T1: trước khi 
ghép TBGM; T2: sau ghép TBGM 7 ngày; 
T3: sau ghép TBGM 15 ngày; T4: sau 
ghép TBGM 20 ngày tiến hành. 
* Cấy khuẩn để định danh và định 
lượng vi khuẩn trên 1 cm2 bề mặt VTMT: 
các kỹ thuật định danh và xác định số 
lượng vi khuẩn thực hiện tại Khoa Cận 
lâm sàng, Bệnh viện Bỏng Quốc gia. 
* Xác định biến đổi số lượng tế bào 
viêm trên tiêu bản nhuộm H.E tại các thời 
điểm nghiên cứu: tiến hành sinh thiết mô 
tại 3 vị trí vùng mép VTMT sao cho mẫu 
bệnh phẩm sinh thiết có 50% da lành và 
50% mô vết thương, bằng kim sinh thiết 
(biopsy punch) do Italia sản xuất. Cố định 
bệnh phẩm vào dung dịch formol 10% và 
làm tiêu bản nhuộm H.E. Khi soi tiêu bản 
nhuộm, tiến hành đếm toàn bộ số lượng 
tế bào viêm trên một vi trường ở vật kính 
x400 lần. Mỗi chỉ số nghiên cứu đếm trên 
6 vi trường ở 6 vị trí khác nhau. Tiến 
hành cộng số lượng tế bào viêm của cả 6 
vi trường, chia tổng số thu được cho 6, 
thu được số lượng tế bào viêm trung bình 
trên một vi trường. Thực hiện tại Bộ môn 
- Khoa Giải phẫu bệnh, Pháp y, Bệnh viện 
Quân y 103. 
* Đạo đức trong nghiên cứu: phương 
pháp điều trị ghép tấm TBGM tự thân 
được Hội đồng Đạo đức trong Nghiên 
cứu Y sinh học của Bệnh viện Bỏng Quốc 
gia cho phép thực hiện trên người bệnh. 
Tất cả BN khi tham gia nghiên cứu đều 
được giải thích rõ thủ thuật, những ưu 
điểm và biến chứng có thể xảy ra khi thực 
hiện. Nếu BN tình nguyên viết đơn tham 
gia nghiên cứu mới thực hiện ghép tấm tế 
bào gốc điều trị vết thương. 
* Xử lý số liệu: 
So sánh kết quả nghiên cứu thu được 
trước và sau điều trị để xác định hiệu quả 
của biện pháp điều trị. Xử lý số liệu bằng 
phần mềm Stata 12.0, giá trị p 0,05 
được coi có ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Một số đặc điểm của BN nghiên 
cứu. 
30 BN nghiên cứu có tuổi trung bình 
53,53 ± 18,1, tỷ lệ nam/nữ 2/3. 29/30 BN 
(96,67%) có bệnh lý kết hợp. Nguyên 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2019 
 72 
nhân gây VTMT gặp nhiều nhất là do 
nhiễm khuẩn (39,47%), tiếp theo là tỳ đè 
(31,58%), đái tháo đường (10,53%). Diện 
tích vết thương được ghép TBGM 23,73 
± 19,85 cm2. 100% VTMT có tổn thương 
toàn bộ lớp da. VTMT gặp nhiều nhất ở 
vùng chi dưới (60,53%), tiếp theo là vùng 
cùng cụt (31,58%), vùng đầu mặt cổ 
(5,26%) và vùng thân sau (2,63%). 
2. Biến đổi vi khuẩn bề mặt vết 
thƣơng trƣớc và sau ghép TBGM. 
Chúng tôi tiến hành cấy khuẩn 38 
VTMT tại các thời điểm T1 và T2, 35 vết 
thương ở thời điểm T3 và 28 vết thương 
ở thời điểm T4 nhận thấy: tỷ lệ vết 
thương không mọc vi khuẩn tăng cao 
theo thời gian, nếu ở thời điểm T1, tỷ lệ 
này là 30%, ở thời điểm T2 là 33,33%, T3 
là 70% và T4 là 72% 
Biểu đồ 1: Biến đổi chủng vi khuẩn bề mặt VTMT trước và sau ghép TBGM. 
Tỷ lệ vết thương mọc P. aeruginosa mặc dù tăng cao nhất ở thời điểm T2 (50%), 
nhưng sau đó giảm dần ở các thời điểm T3 (20%) và T4 (16%), tỷ lệ này thấp hơn so 
với thời điểm T1 (30%). Tỷ lệ vết thương dương tính với S. aureus cũng giảm dần theo 
thời gian sau ghép (từ 13,33% ở thời điểm T1 giảm xuống 6,67% ở thời điểm T2 và 
4% ở thời điểm T4). Đối với vi khuẩn Aci. baumanii và K. pneumoniae chỉ xuất hiện với 
tỷ lệ thấp tại thời điểm T1 và T2, không mọc tại thời điểm T3 và T4. Xuất hiện rải rác 
các vi khuẩn cơ hội ở thời điểm nghiên cứu với tỷ lệ thấp như S. saprophyticus, 
Pro. mirabilis. 
Vi khuẩn 
Tỷ lệ % 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2019 
 73 
0
100
200
300
400
500
600
700
T0 T1 T2 T3 T4
P.aeruginosa
S.aureus
Aci.baumani
K.pneumoniae
Thời điểm
Vi khuẩn
Biểu đồ 2: Biến đổi số lượng vi khuẩn/cm2 bề mặt vết thương trước 
và sau ghép TBGM. 
Số lượng vi khuẩn trên 1 cm2 diện tích bề mặt vết thương sau ghép TBGM giảm 
theo thời gian. Tại thời điểm T1, số lượng vi khuẩn 442 x 5 x 103 vi khuẩn/cm2, đến 
thời điểm T2 giảm xuống còn 211 x 5 x 103 vi khuẩn/cm2, thời điểm T3 là 122 x 5 x 103 
vi khuẩn/cm2 và thời điểm T4 chỉ còn 87 x 5 x 103 vi khuẩn/cm2. S. aureus tại thời điểm 
T0 là 358 x 5 x 103 vi khuẩn/cm2, T1 là 278 x 5 x 103 vi khuẩn/cm2, thời điểm T2 giảm 
xuống còn 138 x 5 x 103 vi khuẩn/cm2, thời điểm T3 là 84,5 x 5 x 103 vi khuẩn/cm2 và 
thời điểm T4 chỉ còn 50 x 5 x 103 vi khuẩn/cm2. Số lượng vi khuẩn khác như 
Aci. baumanii và K. pneumoniae đều giảm dần theo thời gian sau ghép TBGM. 
3. Số lƣợng tế bào viêm trƣớc và sau ghép TBGM. 
Thời điểm 
T1 (1) 
(n = 38) 
T2 (2) 
(n = 38) 
T3 (3) 
(n = 35) 
T4 (4) 
(n = 28) 
Số lượng tế bào viêm 
(tế bào/vi trường) 
69,07 ± 15,18 62,87 ± 12,58 56,53 ± 11,62 52,36 ± 13,07 
p p1-2 < 0,05; p2-3 < 0,05; p3-4 < 0,05; p1-3 < 0,001; p1-4 < 0,001 
Sau ghép TBGM, số lượng tế bào viêm giảm dần. Ở thời điểm T1 là 69,07 tế bào/vi 
trường. Ở các thời điểm T2, T3 và T4 lần lượt là 62,87 tế bào/vi trường; 56,53 tế 
bào/vi trường và 52,36 tế bào/vi trường (sự khác biệt giữa các thời điểm sau ghép có ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05 và 0,001). 
Vi khuẩn x 5 x 103/cm2 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2019 
 74 
BÀN LUẬN 
1. Đặc điểm nhiễm khuẩn tại chỗ 
VTMT sau ghép TBGM. 
Các vết thương da là nơi cư trú lý 
tưởng đối với vi khuẩn ái khí hoặc kỵ khí. 
Vai trò của vi khuẩn lên quá trình liền vết 
thương đã được bàn luận trong nhiều 
năm qua. Một vài ý kiến cho rằng mật độ 
vi khuẩn là yếu tố giúp tiên lượng quá 
trình liền vết thương của một vết thương 
và tình trạng nhiễm khuẩn, một số ý kiến 
khác lại cho rằng chủng vi khuẩn quan 
trọng hơn. Các yếu tố như hoạt lực của vi 
khuẩn, khả năng đề kháng của vật chủ và 
chất lượng mô tại chỗ vết thương cũng 
cần được xem xét một cách tổng thể 
trong đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn. 
Do các VTMT đều được chăm sóc để đạt 
tiêu chuẩn ghép TBGM, đó là không có 
triệu chứng nhiễm khuẩn trên lâm sàng. 
Tuy nhiên, ở thời điểm T1 chúng tôi vẫn 
nhận thấy có đến 70% số mẫu dương 
tính với vi khuẩn. Mặc dù số lượng vi 
khuẩn/cm2 của một số chủng vi khuẩn 
như P. aeruginosa, S. aureus và K. 
pneumoniae giảm hơn so với khi mới vào 
viện, nhưng các chủng vi khuẩn có mặt 
trên bề mặt VTMT vẫn rất phong phú với 
hầu hết các chủng vi khuẩn xuất hiện ở 
thời điểm T1 như P. aeruginosa, S. 
aureus, K. pneumoniae, Aci. baumanii, E. 
coli. Sau ghép TBGM, hầu hết số lượng vi 
khuẩn/cm2 cũng như tỷ lệ xuất hiện các 
chủng vi khuẩn đều giảm dần theo thời 
gian. Đến thời điểm T3 và T4, một số 
chủng vi khuẩn không xuất hiện như Aci. 
baumanii, K. pneumoniae. Kết quả nghiên 
cứu này phù hợp với nhận định của Anna 
Krasnodembskaya và CS (2010) cho rằng 
tế bào gốc trung mô của người có tác 
dụng kháng khuẩn nhờ tiết ra peptid LL-
37 có tác dụng ức chế phát triển vi khuẩn 
Gram âm (E. coli, P. aeruginosa) và vi 
khuẩn Gram dương như S. aurues [3]. 
Theo Amy L. Strong và CS (2015), TBGM 
trong quá trình biệt hóa còn tiết ra 
cytokine tiền viêm và cytokine kháng viêm 
như IL-6, IL-10, IL-11, IL-12, IL-13, IL-17, 
IL-18, IL-35, TNF, cylooxygenase 2 
(COX2), stanniocalcin 1 (STC-1) tham gia 
thúc đẩy khả năng thực bào và giết vi 
khuẩn [2]. Tuy nhiên, ngoài các yếu tố 
trên về mặt lâm sàng chúng tôi nhận thấy 
tỷ lệ nhiễm khuẩn kèm theo số lượng vi 
khuẩn/cm2 giảm sau ghép TBGM còn 
chịu tác động của nhiều yếu tố. Như tình 
trạng toàn thân của BN khi các bệnh kết 
hợp diễn biến ổn định, BN ổn định sẽ tác 
động đến khả năng đề kháng của cơ thể 
với vi khuẩn tại chỗ VTMT. Hay việc duy 
trì tấm TBGM liên tục trên bề mặt VTMT 
có tác dụng làm giảm ô nhiễm từ môi 
trường, từ băng gạc lên VTMT. 
2. Số lƣợng tế bào viêm sau ghép 
TBGM. 
Xác định số lượng tế bào viêm trên 
một vi trường ở độ phóng đại 400 lần. 
Trên tiêu bản vi thể VTMT, tại thời điểm 
T1, dày đặc tế bào viêm. Tế bào viêm 
xuất hiện tại chỗ VTMT chủ yếu là tế bào 
lympho, ngoài ra còn có bạch cầu đa 
nhân trung tính và đại thực bào. Vai trò 
của bạch cầu đa nhân trung tính và đại 
thực bào trong quá trình liền vết thương 
được cho có sự tham gia của thực bào vi 
khuẩn, dị vật, mô hoại tử, cũng như tiết ra 
yếu tố tăng trưởng. Tuy nhiên, khi bạch 
cầu đa nhân trung tính hiện diện tại chỗ 
vết thương trong một thời gian dài, số 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2019 
 75 
lượng lớn, nó lại tiết ra các enzym phân 
hủy protein, làm tổn thương chất nền 
ngoại bào [4]. Vai trò của tế bào lympho 
đối với quá trình liền vết thương, chủ yếu 
đề cập đến vai trò của tế bào lympho T. 
Ở chuột, tế bào lympho T có mặt ở lớp 
biểu bì da dưới kiểu hình γδ và được 
cho có vai trò ổn định nội mô cũng như 
tham gia tái tạo da nhờ tiết ra các yếu tố 
tăng trưởng. Ở lớp biểu bì của người 
chứa cả 2 dạng của tế bào lympho T đó 
là lympho T αβ và γδ . Các tế bào này 
tiết yếu tố tăng trưởng giống insulin-1 
(IGF-1) tham gia vào thúc đẩy quá trình 
liền vết thương. Đối với vết thương cấp 
tính, các tế bào lympho T sẽ tiết ra IGF-1, 
được kích hoạt ngay khi da bị tổn thương 
và tham gia sửa chữa mô. Trái lại ở 
VTMT, lympho T không tiết IGF-1, tế bào 
lympho T tại chỗ VTMT thường trơ, 
không đáp ứng với kích thích [5]. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, sau ghép 
TBGM số lượng tế bào viêm giảm rõ rệt 
theo thời gian, từ 69,07 tế bào ở thời 
điểm T1 xuống 62,87 tế bào ở thời điểm 
T2. Ở thời điểm T3 và T4 còn 56,53 tế 
bào và 52,36 tế bào/vi trường. Thông 
thường, các tế bào viêm giảm xuống là 
do tình trạng nhiễm khuẩn tại chỗ vết 
thương được cải thiện, tình trạng tuần 
hoàn và mô tại chỗ vết thương tốt lên. Về 
khía cạnh ảnh hưởng của TBGM lên 
chức năng tế bào viêm, theo Cionne N 
Manning và CS (2015), TBGM có tác 
dụng làm đại thực bào chuyển từ kiểu 
hình M1 (kiểu hình tham gia kích thích 
phản ứng viêm) sang kiểu hình M2 (tham 
gia kháng viêm) [6]. Hay trong nghiên cứu 
của Gonzalez R.E về vai trò của TBGM 
lên đáp ứng viêm và vai trò của tế bào 
lympho T trên thực nghiệm. Nhóm tác giả 
nhận thấy TBGM ức chế phản ứng kháng 
nguyên đặc hiệu của tế bào lympho T. 
Ngoài ra, TBGM còn có tác dụng tăng sản 
xuất IL-10, vai trò huy động bạch cầu đơn 
nhân tham gia vào phản ứng chống viêm 
của tế bào lympho T [7]. Tuy nhiên, việc 
xác định số lượng tế bào viêm trên một vi 
trường tuy đơn giản, dễ thực hiện nhưng 
còn có những sai số nhất định. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu biến đổi vi khuẩn bề 
mặt và tế bào viêm tại chỗ 38 VTMT 
trước và sau ghép TBGM tự thân của 
30 BN vào điều trị nội trú tại Trung tâm 
Liền vết thương, Bệnh viện Bỏng Quốc gia 
từ tháng 10 - 2016 đến 6 - 2017, chúng 
tôi rút ra một số kết luận: 
- Tỷ lệ vết thương cấy khuẩn dương 
tính với vi khuẩn giảm dần sau ghép 
TBGM (từ 70% giảm xuống 30% sau 
ghép 15 ngày và 28% sau ghép 20 ngày). 
Số lượng các vi khuẩn P. aeruginosa, S. 
aureus, Aci. baumanii, K. pneumoniae 
trên 1 cm2 diện tích bề mặt vết thương 
giảm rõ rệt sau ghép TBGM tự thân. 
- Số lượng tế bào viêm giảm dần có ý 
nghĩa thống kê sau ghép TBGM tự thân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Robert G. Frykberg, Jaminelli Banks. 
Challenges in the treatment of chronic 
wounds. Advances in Wound Care. 2015, 4 
(9), pp.560-582. 
2. Strong A.L, Gimble J.M, Bunnell B.A. 
Analysis of the pro-and anti-Inflammatory 
cytokines secreted by adult stem cells during 
differentiation. Stem Cells International. Article 
ID 412467. 2015, p.12. 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2019 
 76 
3. Krasnodembskaya A, Song Y, Fang X et 
al. Antibacterial effect of human mesechymal 
stem cells is mediated in part from secretion 
of the antimicrobial peptide LL-37. Stem Cells. 
2010, 28 (12), pp.2229-2238. 
4. Grice E.A, Segre J.A. Interaction of 
microbiome and the innate immune response 
in chronic wounds. Adv Exp Med Biol. 2012, 
946, pp.55-68. 
5. HavranW.L, Jameson J.M. Epidermal T 
cells and wound healing. J Immunol. 2010, 
184 (10), pp.5423-5428. 
6. Cionne N Manning, Catherine M, Shelly 
E S-E et al. Adipose-derived mesenchymal 
stromal cells modulate tendon fibroblast 
responses to macrophage-induced inflammation 
in vitro. Stem Cell Research and Therapy. 
2015, 6 (1), pp.74-88. 
7. Gonzalez R.E, Gonzalez MA, Varala N 
et al. Human adipose-derived mesenchymal 
stem cells reduce inflammatory and T cell 
responses and induce regulatory T cells in 
vitro in rheumatoid arthritis. Ann Rheum Dis. 
2010, 69 (1), pp.241-248. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tac_dung_cua_ghep_te_bao_goc_tu_mo_mo_tu_than_len_b.pdf