Đánh giá tác động hệ thống giám sát, xét nghiệm HIV sau 10 năm thực hiện luật phòng chống HIV/AIDS

Mục đích: Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động hệ thống giám sát xét nghiệm HIV sau 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống HIV/AIDS.

Phương pháp: Tập hợp các văn bản do các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền ban hành từ năm 2007 đến nay, có 13 văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành và hiện đang còn hiệu lực điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giám sát, theo dõi đánh giá và xét nghiệm HIV

pdf 5 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tác động hệ thống giám sát, xét nghiệm HIV sau 10 năm thực hiện luật phòng chống HIV/AIDS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tác động hệ thống giám sát, xét nghiệm HIV sau 10 năm thực hiện luật phòng chống HIV/AIDS

Đánh giá tác động hệ thống giám sát, xét nghiệm HIV sau 10 năm thực hiện luật phòng chống HIV/AIDS
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 175
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT, 
XÉT NGHIỆM HIV SAU 10 NĂM THỰC HIỆN LUẬT 
PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS
Lê Thị Hường1, Lưu Minh Châu2 
TÓM TẮT
Mục đích: Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động hệ thống 
giám sát xét nghiệm HIV sau 10 năm thực hiện Luật Phòng, 
chống HIV/AIDS.
Phương pháp: Tập hợp các văn bản do các cơ quan quản 
lý Nhà nước có thẩm quyền ban hành từ năm 2007 đến nay, 
có 13 văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành và hiện 
đang còn hiệu lực điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh 
trong lĩnh vực giám sát, theo dõi đánh giá và xét nghiệm HIV.
Kết quả: Sau 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống HIV/
AIDS, một số thành tựu trong công tác phòng, chống HIV/
AIDS được ghi nhận:
- Các văn bản đảm bảo tính kịp thời đầy đủ, tính thống 
nhất, đồng bộ và tính khả thi, phù hợp đối với Luật Phòng, 
chống HIV/AIDS.
- Công tác giám sát dịch tễ học HIV/AIDS được thực hiện 
tốt. Đến năm 2016, có 40 tỉnh/thành phố triển khai giám sát 
trọng điểm hàng năm và 63/63 tỉnh thực hiện giám sát phát 
hiện HIV. Thiết lập được hệ thống báo cáo ca bệnh để thu 
thập báo cáo các trường hợp nhiễm HIV trên toàn quốc. Số 
liệu về tình hình dịch HIV luôn được cập nhật liên tục và bảo 
đảm tính tin cậy.
- Chương trình tư vấn xét nghiệm tự nguyện của Việt 
Nam đã được mở rộng, số lượng điểm VCT và khách hàng 
VCT tăng từ 157 điểm năm 2005 lên 270 điểm trong năm 
2014. Các mô hình tư vấn xét nghiệm lưu động và tư vấn 
xét nghiệm do nhân viên y tế đề xuất ngày càng mở rộng. 
Số người nhận được các dịch vụ VCT trong năm 2014 là 
662.605, tăng nhẹ so với năm 2013 là 569.061 người.
- Về công tác xét nghiệm HIV: Đến nay, hệ thống phòng 
xét nghiệm HIV trên toàn quốc đã có hơn 1000 phòng xét ng-
hiệm sàng lọc HIV, 101 phòng xét nghiệm khẳng định HIV 
tại 62 tỉnh, thành phố, trong đó có 02 phòng xét nghiệm tham 
chiếu quốc gia đặt tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Hoạt động 
xét nghiệm HIV đã được triển khai dưới nhiều hình thức 
khác nhau từ xét nghiệm cố định đến lưu động, xét nghiệm 
tại cơ sở y tế đến tại cộng đồng và tự xét nghiệm. Xét nghiệm 
sàng lọc HIV bao phủ đến tuyến quận, huyện và hiện tại đã 
được triển khai tại tuyến xã.
Kết luận: Các văn bản về giám sát, xét nghiệm HIV 
nhằm cơ bản đáp ứng được yêu cầu của công tác phòng, 
chống HIV/AIDS, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập và chồng 
chéo do chưa được sửa đổi kịp thời. 
Từ khóa: Giám sát, theo dõi và đánh giá, xét nghiệm 
HIV, Luật Phòng, chống HIV/AIDS.
SUMMARY
ASSESSING THE IMPACTS OF HIV/AIDS TESTING 
MONITORING SYSTEM AFTER 10 YEARS OF HIV/
AIDS LAWS IMPLETATION
Objective: The study assessed the impact of HIV testing 
monitoring system after 10 years of HIV/AIDS Laws 
implementation.
Methods: Gathering documents issued by the authority 
government agencies issued since 2007, there were 13 legal 
documents had been issued and currently in force with 
arising society relations in the field of surveillance, monitoring, 
evaluation and HIV testing.
Results: After 10 years implementing HIV/AIDS Laws, 
a number of achievements were recognized:
- The documents ensured adequate timeliness, consistency, 
integrated and feasible, consistent with HIV/AIDS Laws.
- The HIV/AIDS epidemiological surveillance was well 
implemented. By 2016, there were 40 provinces/cities 
implemented the annual sentinel surveillance and 60/60 
provinces implemented HIV detection monitoring. Established 
report system to collect HIV/AIDS case reports nationwide. 
HIV statu datas was updated continuously and reliability.
1. Cục Phòng, chống HIV/AIDS
2. Học Viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam. ĐT: 0963171071
Ngày nhận bài: 10/02/2017 Ngày phản biện: 16/02/2017 Ngày duyệt đăng: 20/02/2017
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn176
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- The voluntary counseling and testing voluntary program 
of Vietnam had been expanding, the number of VCT points 
and VCT clients increased from 157 points in 2005 to 270 
points in 2014. The mobile counseling models and testing 
counseling recommended by the medical staffs had been 
expanding. The number of people received VCT services in 
2014 was 662,605, slightly increased compared to 2013 was 
569,061 people.
- Regarding HIV test, until now HIV testing laboratory 
nationalwide system nationwide had more than 1,000 HIV 
screening laboratories, 101 comfirmatory laboratories HIV 
in 62 provinces and cities, including 02 national reference 
laboratories located in Hanoi and Ho Chi Minh City. HIV 
testing activities had been implemented in many different 
forms from fixed to mobile testing and from health facilities 
testing to community-testing and self-testing. HIV screening 
laboratories had expanded to the district and now had been 
implemented jn communes.
Conclusion: The HIV monitoring and testing basicly met 
the requirements of HIV HIV/AIDS prevention; however, 
there were still many gaps and overlaps because of not modify 
on time.
Keywords: Monitoring, monitoring and evaluation, HIV 
testing, HIV / AIDS Law.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xác định rõ HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm, là mối 
hiểm họa đối với tính mạng, sức khoẻ con người nên từ năm 
2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia 
về phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 
và tiếp đó ngày 12 tháng 07 năm 2006, Quốc hội đã ban hành 
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm 
miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) (sau đây gọi tắt là 
Luật Phòng, chống HIV/AIDS). Để tìm hiểu thực trạng, các 
mặt tích cực, tồn tại của hoạt động phòng, chống HIV/AIDS 
nói chung và lĩnh vực giám sát, xét nghiệm HIV nhằm phát 
hiện các tình huống nảy sinh trong quá trình quản lý giám 
sát, xét nghiệm HIVchúng tôi tiến hành “Đánh giá tác động 
hệ thống giám sát xét nghiệm HIV sau 10 năm thực hiện Luật 
Phòng, chống HIV/AIDS”. Kết quả đánh giá giúp phân tích 
xác định những nguyên nhân tồn tại và tìm ra giải pháp quản 
lý có hiệu lực, hiệu quả trong giám sát, xét nghiệm HIV. Việc 
đánh giá này cũng nhằm thực hiện đúng các quy định của 
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Các văn bản quy phạm pháp luật 
đã được ban hành và hiện đang còn hiệu lực điều chỉnh các 
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giám sát, theo dõi 
đánh giá và xét nghiệm HIV.
Phương pháp nghiên cứu: Tập hợp 60 văn bản do các 
cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền ban hành từ năm 
2006 đến nay về phòng, chống HIV/AIDS thuộc tất cả các 
lĩnh vực giám sát, can thiệp giảm hại, điều trị ARV Sau đó 
nhóm nghiên cứu tiến hành rà soát 13 văn bản về lĩnh vực 
giám sát, xét nghiệm HIV và phân tích các nội dung hướng 
dẫn trong văn bản với các kết quả đạt được và những bất cập 
còn tồn tại hiện nay đối với hệ thống giám sát, xét nghiệm 
HIV và sự kết nối của hệ thống giám sát, xét nghiệm HIV với 
các hệ thống khác.
Bảng 1. Thống kê số lượng văn bản ban hành qua các năm
STT Năm ban hành Tổng cộng Tỷ lệ %
1 2007 11 18.33
2 2008 5 8.34
3 2009 2 3.33
4 2010 8 13.33
5 2011 6 10.00
6 2012 6 10.00
7 2013 8 13.33
8 2014 5 8.33
9 2015 7 11.67
10 2016 2 3.34
Cộng 60 100
Bảng 2. Thống kê các văn bản thuộc lĩnh vực giám sát và 
xét nghiệm
TT Tên văn bản, cơ quan ban hành
1.
Luật số 64/2006/QH11 Ngày 29/6/2006 của Quốc 
hội quy định Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội 
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
2.
Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của 
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính 
trong lĩnh vực y tế.
3.
Nghị định số 75/2016/NĐ-CP Ngày 01/7/2016 của 
Chính phủ Quy định điều kiện thực hiện xét nghiệm 
HIV.
4.
Quyết định số 08/2007/QĐ-BYT Ngày 19/01/2007 của 
Bộ trưởng Bộ Y tế về việc phê duyệt Chương trình 
hành động giám sát HIV/AIDS theo dõi, đánh giá 
chương trình.
5.
Thông tư số 01/2010/TT-BYT Ngày 06/01/2010 của 
Bộ trưởng Bộ Y tế quy định trách nhiệm, trình tự 
thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính.
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 177
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
TT Tên văn bản, cơ quan ban hành
6.
Thông tư số 33/2011/TT-BYT Ngày 26/8/2011 của 
Bộ trưởng Bộ Y tế quy định việc xét nghiệm HIV bắt 
buộc trong một số trường hợp cần thiết để chẩn đoán 
và điều trị cho người bệnh.
7.
Thông tư số 06/2012/TT-BYT Ngày 20/4/2012 của 
Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về điều kiện thành lập và 
nội dung hoạt động đối với tổ chức tư vấn về phòng, 
chống HIV/AIDS.
8.
Thông tư số 09/2012/TT-BYT Ngày 24/5/2012 của 
Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn giám sát dịch tễ học 
HIV/AIDS và giám sát các nhiễm trùng lây truyền 
qua đường tình dục.
9.
Thông tư sô 15/2013/TT-BYT Ngày 24/5/2013 của 
Bộ trưởng Bộ Y tế Hướng dẫn bảo đảm chất lượng 
thực hiện kỹ thuật xét nghiệm HIV.
10.
Thông tư số 42/2013/TT-BYT Ngày 29/11/2013 của 
Bộ trưởng Bộ Y tế Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 
15/2013/TT-BYT ngày 24/5/2013 của Bộ Y tế hướng 
dẫn bảo đảm chất lượng thực hiện kỹ thuật xét ng-
hiệm HIV.
11.
Thông tư số 32/2013/TT-BYT Ngày 17/10/2013 của 
Bộ trưởng Bộ Y tế Hướng dẫn quản lý, theo dõi điều 
trị người nhiễm HIV và người phơi nhiễm với HIV.
12.
Thông tư số 01/2015/TT-BYT ngày 27/02/2015 của 
Bộ Y tế về việc hướng dẫn tư vấn phòng, chống HIV/
AIDS tại cơ sở y tế.
13.
Thông tư số 03/2015/TT-BYT ngày 16/3/2015 của 
Bộ Y tế về việc quy định chế độ báo cáo công tác 
phòng, chống HIV/AIDS.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
1. Kết quả đánh giá hệ thống văn bản về giám sát, xét 
nghiệm HIV 
Tính kịp thời đầy đủ của việc ban hành văn bản hướng 
dẫn thực hiện Luật Phòng, chống HIV/AIDS liên quan đến 
lĩnh vực giám sát, theo dõi đánh giá và xét nghiệm HIV cơ 
bản đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống HIV/AIDS. 
Tuy nhiên vẫn còn có văn bản chậm sửa đổi ví dụ như Quyết 
định số 3052/2002/QĐ-BYT hướng dẫn ban hành tiêu chuẩn 
của phòng xét nghiệm khẳng định HIV dương tính được ban 
hành năm 2002 trước khi Luật ra đời tuy nhiên đến năm 2013 
mới có văn bản thay thế.
Tính thống nhất, đồng bộ: Văn bản hướng dẫn thi hành 
Luật Phòng, chống HIV/AIDS về lĩnh vực giám sát, theo dõi 
đánh giá và xét nghiệm HIV được ban hành với nhiều hình 
thức và cấp có thẩm quyền ban hành khác nhau. Tuy nhiên, 
tính nhất quán, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật khá 
cao. Các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/
AIDS được xây dựng bảo đảm tính thống nhất pháp lý theo 
trình tự hiệu lực pháp lý trên cơ sở của đạo luật gốc là Hiến 
pháp để quy định, điều chỉnh các quan hệ xã hội về lĩnh vực 
phòng, chống HIV/AIDS không có văn bản nào mâu thuẫn 
với Hiến pháp tức là không xuất hiện các xung đột pháp luật. 
Luật Phòng, chống HIV/AIDS được ban hành là cơ sở pháp 
lý quan trọng để Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, 
Bộ Y tế, Liên tịch ban hành các văn bản quy phạm pháp luật 
nhằm cụ thể hoá những quy định mang tích nguyên tắc của 
Luật. Có thể nói, về cơ bản hệ thống pháp luật về phòng, 
chống HIV/AIDS bảo đảm tính thống nhất pháp lý, hoàn 
chỉnh và đồng bộ.
Tính khả thi, phù hợp: Hệ thống văn bản quy phạm pháp 
luật về phòng, chống HIV/AIDS về lĩnh vực giám sát, theo 
dõi đánh giá và xét nghiệm HIV gồm Luật Phòng, chống 
HIV/AIDS và các văn bản dưới luật về cơ bản đã bảo đảm 
tính phù hợp, khả thi và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. 
Trong đó nổi lên hai nội dung chính là hệ thống pháp luật về 
phòng, chống HIV/AIDS đã tạo điều kiện thuận lợi cho các 
hoạt động phòng, chống HIV/AIDS được triển khai đồng bộ, 
hiệu quả và quyền của người nhiễm HIV đã được bảo đảm 
tương đối tốt. Nhưng vẫn tồn tại một số những điểm chưa 
phù hợp giữa các Thông tư, Quyết định ra sau với các Thông 
tư, Quyết định cũ như: Quyết định 3047/QĐ-BYT ngày 22 
tháng 07 năm 2015 về “Hướng dẫn quản lý, điều trị và chăm 
sóc HIV/AIDS” ra đời thay thế cho Quyết định 3003/
QĐ-BYT và QĐ 4139/QĐ-BYT, đã đưa ra 1 số thay đổi cập 
nhật tình hình mới của thế giới. Tuy nhiên các Quyết định 
liên quan như 1053/QĐ-BYT ngày 02 tháng 04 năm 2010 về 
“Hướng dẫn xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV cho trẻ dưới 
18 tháng tuổi”, 1921/QĐ-BYT ngày 05 tháng 06 năm 2013 
về “Hướng dẫn thực hiện xét nghiệm tải lượng HIV 1 trong 
theo dõi điều trị HIV/AIDS” vẫn giữ nguyên những trích dẫn 
và các hướng dẫn điều trị cũ của Quyết định 3003. Điều này 
đã gây tranh cãi nhiều cho các bác sỹ điều trị và cần được sửa 
đổi lại Quyết định 1053 và 1921. 
Một số nội dung không còn khả thi: Về cơ sở xét nghiệm 
HIV đủ điều kiện khẳng định các trường hợp HIV dương 
tính (Điều 29- Luật 64/2006/QH11 ngày 29/6/2006), hiện 
nay chỉ quy định thẩm quyền là Bộ trưởng Bộ Y tế tuy nhiên 
xu hướng đang mở rộng việc khẳng định các trường hợp HIV 
dương tính đến các cơ sở y tế tuyến huyện nên việc chỉ quy 
định thẩm quyền là Bộ trưởng Bộ Y tế sẽ gây khó khăn cho 
việc bố trí thời gian và nhân lực để tiến hành thẩm định. 
Đồng thời hiện nay, Luật Phòng, chống HIV/AIDS chưa tiến 
hành phân loại các loại hình xét nghiệm HIV nên việc hướng 
dẫn còn khó khăn. Việc quy định điều kiện và thẩm quyền 
đối với phòng tham chiếu HIV tại Thông tư không còn phù 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn178
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
hợp với Luật đầu tư nên cần thiết phải có cơ chế pháp lý đối 
với nội dung này.
Các biểu mẫu xét nghiệm hiện nay còn nhiều vấn đề chưa 
phù hợp với thực tế hiện nay (868/2005/QĐ-BYT – 7 Biểu 
mẫu dành cho phòng xét nghiệm HIV) gây ra khó khăn và 
chồng chéo trong việc sử dung tại các tuyến Bệnh viện hoặc 
giữa các Biểu mẫu trong giám sát trọng điểm. Việc thay đổi 
quyết định này là cần thiết để giảm bớt gánh nặng giấy tờ và 
việc sao chép sai lệch kết quả của bệnh nhân. 
2. Các kết quả chuyên môn đạt được:
Công tác giám sát dịch tễ học HIV/AIDS được thực hiện 
nhằm mục đích xác định tỷ lệ nhiễm HIV và phân bố nhiễm 
HIV trong các nhóm dân cư, theo dõi chiều hướng tỷ lệ nhiễm 
HIV theo thời gian, xác định nhóm có nguy cơ nhiễm HIV 
cao, xác định sự thay đổi các hình thái lây truyền HIV và dự 
báo tình hình nhiễm HIV. Đến năm 2016, có 40 tỉnh/thành 
phố triển khai giám sát trọng điểm hàng năm và 63/63 tỉnh 
thực hiện giám sát phát hiện HIV. Một số tỉnh đã triển khai 
giám sát trọng điểm kết hợp với giám sát hành vi và giám sát 
STI. Song song với đó là hệ thống báo cáo ca bệnh để thu 
thập báo cáo các trường hợp nhiễm HIV trên toàn quốc. Phần 
mềm HIV Info 2.1 được cập nhật thành phiên bản HIV Info 
3.0 giúp các cán bộ TD-ĐG báo cáo chính xác hơn về các 
trường hợp HIV ở địa phương. Các hoạt động theo dõi, đánh 
giá được triển khai định kỳ.
Với ban hành các quy định về quy trình giám sát và 
phương pháp giám sát góp phần nâng cao chất lượng của 
công tác giám sát, từ đó bảo đảm xác định chính xác tình 
hình dịch HIV/AIDS. Qua đó, số liệu về tình hình dịch HIV 
luôn được cập nhật liên tục và bảo đảm tính tin cậy không 
chỉ được sử dụng trong công tác chuyên môn phòng, chống 
HIV/AIDS mà còn là cơ sở thực tiễn quan trọng cho công tác 
hoạch định chính sách.
Chương trình tư vấn xét nghiệm tự nguyện của Việt Nam 
đã được mở rộng trong những năm gần đây, với số lượng 
điểm VCT và khách hàng VCT tăng từ 157 điểm năm 2005 
lên 244 điểm trong năm 2008, 256 điểm trong năm 2009, 
317 điểm trong năm 2011, 485 điểm trong năm 2013 và giảm 
xuống còn 270 điểm trong năm 2014. Trong năm 2014, các 
điểm VCT hoạt động thiếu hiệu quả với số khách hàng thấp 
đã bị đóng cửa nhưng các mô hình tư vấn xét nghiệm lưu 
động và tư vấn xét nghiệm do nhân viên y tế đề xuất ngày 
càng mở rộng. Số người nhận được các dịch vụ VCT trong 
năm 2014 là 662.605, tăng nhẹ so với năm 2013 là 569.061 
người. Các nỗ lực nhằm tăng diện bao phủ và hiệu suất của 
dịch vụ xét nghiệm HIV đã làm tăng số người biết được tình 
trạng nhiễm HIV của mình.
Về việc triển khai công tác xét nghiệm HIV: Đến nay, 
hệ thống phòng xét nghiệm HIV trên toàn quốc đã có hơn 
1000 phòng xét nghiệm sàng lọc HIV, 101 phòng xét nghiệm 
khẳng định HIV tại 62 tỉnh, thành phố, trong đó có 02 phòng 
xét nghiệm tham chiếu quốc gia đặt tại Hà Nội và TP. Hồ Chí 
Minh. Nhằm tăng độ bao phủ dịch vụ, các hoạt động xét 
nghiệm HIV đã được triển khai dưới nhiều hình thức khác 
nhau từ xét nghiệm cố định đến lưu động, xét nghiệm tại cơ 
sở y tế đến tại cộng đồng và tự xét nghiệm. Xét nghiệm HIV 
tại Việt Nam được thực hiện theo khuyến cáo của Tổ chức Y 
tế thế giới (WHO), bao gồm 3 chiến lược: (1) sàng lọc HIV, 
(2) giám sát dịch và (3) chẩn đoán các trường hợp nhiễm 
HIV. 
Xét nghiệm sàng lọc HIV bao phủ đến tuyến quận, huyện 
và hiện tại đã được triển khai tại tuyến xã. Trung bình hằng 
năm trên toàn quốc thực hiện 2 triệu mẫu xét nghiệm. Công 
tác quản lý đảm bảo chất lượng xét nghiệm cũng đã được 
quan tâm triển khai và thực hiện ở tất cả các cơ sở xét nghiệm 
chuyên sâu, Công tác quản lý, đánh giá chất lượng sinh phẩm 
xét nghiệm đã và đang được chuẩn hóa đồng bộ từ việc xây 
dựng ngân hàng mẫu, đánh giá sinh phẩm trước thị trường, 
xây dựng phương cách xét nghiệm HIV. Năm 2014, Bộ Y tế 
đã phê duyệt phương cách xét nghiệm HIV mới, theo đó áp 
dụng 3 xét nghiệm nhanh để chẩn đoán sơ bộ nhiễm HIV và 
cho kết quả trong cùng ngày. Phương cách này sẽ được triển 
khại tại các tuyến cung cấp dịch vụ. Kết quả xét nghiệm HIV 
sẽ được khẳng định tại phòng xét nghiệm tuyến quận huyện. 
Để tăng cường tính tiếp cận, xét nghiệm HIV được giới thiệu 
qua nhiều cách thức như: cán bộ y tế đề xuất, người sử dụng 
dịch vụ tự đề xuất, và xét nghiệm di động. Các tổ chức xã hội 
cũng được huy động tham gia giới thiệu người có nguy cơ 
cao tới các dịch vụ xét nghiệm HIV.
Theo các nghiên cứu được triển khai từ năm 2004-2014, 
tỷ lệ người có hành vi nguy cơ cao được xét nghiệm HIV 
trong 12 tháng qua và biết kết quả xét nghiệm tăng từ 10% 
trong năm 2004 lên 30-40% trong năm 2014. 
Biểu đồ 1. Độ bao phủ xét nghiệm HIV trong nhóm 
nguy cơ cao
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 179
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
3. Tồn tại, bất cập:
Bên cạnh kết quả đã đạt được thì mức độ tiếp cận với dịch 
vụ xét nghiệm HIV ở một số nhóm quần thể có hành vi nguy 
cơ cao hoặc ở quần thể khó tiếp cận vẫn ở mức thấp. Theo 
thống kê của WHO năm 2010, tỷ lệ bao phủ dịch vụ tư vấn 
xét nghiệm HIV tại Việt Nam cho 100.000 dân là 1,3 thấp 
hơn Thái Lan (3,5) và Campuchia (3,2).
Công tác bảo đảm chất lượng xét nghiệm HIV phần lớn 
phụ thuộc vào chương trình ngoại kiểm của các nước trên thế 
giới và trong khu vực. Việt Nam chỉ cung cấp được chương 
trình ngoại kiểm về huyết thanh học HIV đối với 100% cơ sở 
xét nghiệm khẳng định HIV, 37,8% cơ sở xét nghiệm sàng 
lọc HIV.
Công tác tư vấn mặc dù đã được triển khai rộng khắp tuy 
nhiên tại nhiều nơi, đặc biệt là các cơ sở khám bệnh, chữa 
bệnh thì việc tư vấn trước và sau xét nghiệm HIV còn chưa 
được thực hiện hoặc thực hiện còn mang tính hình thức.
IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Cần bổ sung phân loại các loại xét nghiệm bao gồm: xét 
nghiệm sàng lọc và xét nghiệm khẳng định HIV. Từ đó, quy 
định hoặc ủy quyền cho Chính phủ quy định về điều kiện 
thực hiện các loại xét nghiệm này.
Bổ sung quy định về phòng xét nghiệm tham chiếu quốc 
gia về HIV và quy định về điều kiện và thủ tục công nhận 
phòng xét nghiệm tham chiếu quốc gia.
Về cơ sở xét nghiệm HIV đủ điều kiện khẳng định các 
trường hợp HIV dương tính (Điều 29): Sửa đổi về thẩm 
quyền cấp giấy chứng nhận cơ sở xét nghiệm HIV đủ điều 
kiện khẳng định các trường hợp HIV dương tính. Theo đó, 
mở rộng thẩm quyền cho các Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực 
thuộc Trung ương để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với xu 
hướng mở rộng việc khẳng định các trường hợp HIV dương 
tính đến các cơ sở y tế tuyến huyện.
Cần sửa đổi lại Quyết định 1053/QĐ-BYT, quyết định 
1921/QĐ-BYT cho phù hợp với những điều đã được sửa đổi 
trong Quyết định 3047/QĐ-BYT ngày 22/7/2015 của Bộ 
trưởng Bộ Y tế về việc Hướng dẫn quản lý chăm sóc và điều 
trị HIV/AIDS.
Cần sửa lại các Biểu mẫu xét nghiệm (Quyết định 868/
QĐ-BYT ngày 29/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Y tế) cho phù 
hợp và thuận tiện theo thực tế.
Xem xét lại Thông tư 15/2013/TT-BYT ngày 24/5/2013 
của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc Hướng dẫn đảm bảo chất 
lượng thực hiện kỹ thuật xét nghiệm có sự chồng chéo về 
các tiêu chuẩn, điều kiện với nghị định 75/2016/NĐ-CP ngày 
1/7/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc Quy định điều 
kiện thực hiện xét nghiệm HIV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Báo cáo công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2008, 2009, 2010, 2011, 2012 và 2013 của Bộ Y tế.
2. Báo cáo UNGASS lần 4, lần 5 của Việt Nam.
3. Điều tra đánh giá các chỉ số mục tiêu (MICS4).Tổng cục Thống kê, 2010 và 20114. 4. Điều tra Quốc gia về Vị thành 
niên và Thanh niên tại Việt Nam từ 14-25 tuổi (SAVY). Tổng cục Thống kê, 2009.
5. Quyền lao động của người nhiễm HIV/AIDS và quyền của người sử dụng lao động ở Việt Nam hiện nay – PGS.TS 
Nguyễn Chí Dũng.
6. Đánh giá cuối kỳ dự án phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam.
7. Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế năm 2013

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tac_dong_he_thong_giam_sat_xet_nghiem_hiv_sau_10_na.pdf