Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân nhịp nhanh kịch phát trên thất trước và sau điều trị đốt điện bằng bộ câu hỏi ASTA

Nhịp nhanh kịch phát trên thất (NNKPTT) là rối loạn tim nhịp thường gặp, gây triệu chứng và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (CLCS) bệnh nhân. Triệt đốt cơn tim nhanh trên thất bằng năng lượng sóng có tần số radio qua đường ống thông (đốt điện) là phương pháp điều trị được lựa chọn hiện nay bởi nhiều ưu điểm: điều trị mang tính triệt để, tỉ lệ thành công cao và tỉ lệ biến chứng thấp.

pdf 7 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân nhịp nhanh kịch phát trên thất trước và sau điều trị đốt điện bằng bộ câu hỏi ASTA", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân nhịp nhanh kịch phát trên thất trước và sau điều trị đốt điện bằng bộ câu hỏi ASTA

Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân nhịp nhanh kịch phát trên thất trước và sau điều trị đốt điện bằng bộ câu hỏi ASTA
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 105
Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh 
nhân nhịp nhanh kịch phát trên thất trước và sau 
điều trị đốt điện bằng bộ câu hỏi ASTA
Phan Đình Phong*, Lê Chí Hướng**
Viện Tim mạch Việt Nam*
Khoa Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh**
TÓM TẮT
Nhịp nhanh kịch phát trên thất (NNKPTT) 
là rối loạn tim nhịp thường gặp, gây triệu chứng và 
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (CLCS) bệnh 
nhân. Triệt đốt cơn tim nhanh trên thất bằng năng 
lượng sóng có tần số radio qua đường ống thông 
(đốt điện) là phương pháp điều trị được lựa chọn 
hiện nay bởi nhiều ưu điểm: điều trị mang tính triệt 
để, tỉ lệ thành công cao và tỉ lệ biến chứng thấp. 
Mục đích: Đánh giá sự thay đổi CLCS ở bệnh 
nhân nhịp nhanh kịch phát trên thất trước và sau 
khi được điều trị đốt điện.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang có theo dõi dọc hiệu quả điều trị. Bệnh nhân 
được chẩn đoán NNKPTT, được thăm dò điện sinh 
lý tim và điều trị đốt điện tại Viện Tim mạch Việt 
Nam từ tháng 9/2014 đến tháng 11/2014. CLCS 
được đánh giá bằng bộ câu hỏi chuyên dụng ASTA 
(Arrhythmia-Specific questionnaire in Tachycardia 
and Arrhythmia) tại 2 thời điểm: trước và sau điều 
trị đốt điện 6 tháng.
Kết quả: 41 bệnh nhân nghiên cứu với 13 nam 
và 28 nữ, tuổi trung bình 45,6 ± 15,8 năm. Sau điều 
trị đốt điện, tỉ lệ xuất hiện các triệu chứng và sự ảnh 
hưởng của NNKPTT đến các hoạt động thể chất, 
tinh thần giảm rõ rệt. Có sự cải thiện chất lượng 
cuộc sống qua đánh giá bằng thang điểm ASTA, cụ 
thể: trước điều trị đốt điện, điểm ASTA về CLCS là 
12,2 ± 4,1, sau 6 tháng: 3,4 ± 4,4 (p < 0,05). 
Kết luận: Có sự cải thiện về gánh nặng triệu chứng 
và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân NNKPTT sau 
khi được triệt đốt bằng năng lượng sóng có tần số 
radio qua đường ống thông.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhịp nhanh kịch phát trên thất là một bệnh rối 
loạn nhịp tim thường gặp, trong cơn nhịp nhanh, 
bệnh nhân có cảm giác khó chịu, hồi hộp đánh trống 
ngực, đau ngực, có thể xỉu, ngất, nặng hơn có thể suy 
tim, tụt huyết áp [1],[2]. Bệnh thường không gây 
tử vong nhưng ảnh hưởng rất lớn đến CLCS người 
bệnh [3],[4]. Đốt điện là phương pháp điều trị hiệu 
quả với nhiều ưu điểm, trong khi việc điều trị bằng 
các thuốc chống rối loạn nhịp tim còn nhiều hạn chế 
[5],[6]. ASTA là một công cụ chuyên dụng, dùng để 
đánh giá CLCS bệnh nhân rối loạn nhịp tim [7],[8]. 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016106
Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với 
mục đích: Đánh giá CLCS bệnh nhân NNKPTT 
sau điều trị đốt điện bằng bộ câu hỏi ASTA, so sánh 
sự thay đổi CLCS trước và sau điều trị 6 tháng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi dọc 
hiệu quả điều trị.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn
Bệnh nhân được chẩn đoán NNKPTT, thăm dò 
điện sinh lý tim và điều trị đốt điện từ tháng 9/2014 
đến tháng 11/2014 tại Viện Tim mạch Việt Nam. 
Bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên, không phân 
biệt lứa tuổi, giới tính.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân NNKPTT điều trị đốt điện không 
thành công. Bệnh nhân mắc các bệnh lý mạn tính 
gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Bệnh 
nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Các bước tiến hành nghiên cứu
Bước 1: Lựa chọn đối tượng nghiên cứu.
Bước 2: Thu thập số liệu trước can thiệp. Các 
thông tin cá nhân, các thông số về tiền sử, lâm sàng 
được thu thập bằng phỏng vấn trực tiếp và hỏi 
bệnh. Các thông số về CLCS và gánh nặng triệu 
chứng của bệnh nhân trước can thiệp được thu thập 
qua phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi ASTA. Các 
thông số cận lâm sàng thu thập từ hồ sơ bệnh án.
Bước 3: Thu thập số liệu sau 6 tháng điều trị đốt 
điện. Các thông số về CLCS và gánh nặng triệu 
chứng được thu thập nhờ phỏng vấn qua điện thoại 
bằng bộ câu hỏi ASTA lần 2.
Bước 4: Phân tích và xử lý số liệu.
Các tiêu chí đánh giá chính
Gánh nặng triệu chứng, sức khỏe thể chất, sức 
khỏe tinh thần, chất lượng cuộc sống. Điểm ASTA 
càng cao, CLCS càng kém.
Phân tích và xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 16.0. Các biến định 
lượng được thể hiện dưới dạng trung bình và độ 
lệch chuẩn. Các biến định tính thể hiện dưới dạng 
tỉ lệ phần trăm. Sử dụng T-Test để so sánh các giá 
trị trung bình. 
BỘ CÂU HỎI ASTA: là bộ câu hỏi chuyên 
biệt cho những bệnh nhân có các rối loạn nhịp tim 
nói chung, đặc biệt là các rối loạn nhịp nhanh. Bộ 
câu hỏi đã được phát triển, thiết kế phù hợp với 
nhiều loại rối loạn nhịp tim. Mục đích chính của 
bộ câu hỏi là lượng giá gánh nặng triệu chứng và 
chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe của 
người bệnh. Bộ câu hỏi ASTA gồm 3 phần:
 - Phần 1: Mô tả những thông tin chung về 
nhân khẩu học.
 - Phần 2: Gánh nặng triệu chứng đặc hiệu 
liên quan tới rối loạn nhịp tim. Gồm 9 câu hỏi, 
mỗi câu cho 4 lựa chọn trả lời cho điểm 0, 1, 2, 3. 
Đó là “Không”, “Có, ở một chừng mực nào đó”, 
“Có, khá nhiều”, “Có, nhiều”. Điểm của tất cả 9 
mục câu hỏi được cộng tổng, người bệnh có tổng 
điểm càng cao thì triệu chứng liên quan đến rối 
loạn nhịp tim càng nặng và ngược lại. Tổng điểm 
của phần này thay đổi từ 0 đến 27 (từ mức độ nhẹ 
nhất tới nặng nhất của các triệu chứng). 
 - Phần 3: Chất lượng cuộc sống liên quan 
đến sức khỏe. Gồm 13 câu hỏi. Trong đó, có 7 
câu hỏi đánh giá về phần chất lượng cuộc sống về 
sức khỏe thể chất, 6 câu hỏi về sức khỏe tâm thần. 
Điểm của mỗi lựa chọn trả lời gồm có: “không” 
(0), “có, ở một chừng mực nào đó” (1), “có, khá 
nhiều” (2), “có, nhiều” (3). Điểm của phần đánh 
giá chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe 
thay đổi từ thấp nhất là 0 và cao nhất là 39 điểm. 
Điểm số càng cao phản ánh sự ảnh hưởng càng 
xấu của rối loạn nhịp đến chất lượng cuộc sống. 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 107
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân
Đặc điểm Số lượng Tỉ lệ %
Đặc điểm
Tuổi 45,6 ± 15,8
Nam/Nữ 13/28 31,7/68,3
Tiền sử
Tăng huyết áp 7 17,1
Đái tháo đường 1 2,4
Bệnh mạch vành 0 0
Dùng thuốc chống RLNT 13 31,7
Tổng số 41 100
Bảng 2. Các triệu chứng thường gặp
Triệu chứng Số lượng Tỷ lệ %
Có triệu chứng 41 100
Cơn hồi hộp trống ngực 39 95,1
Tim đập nhanh, mạnh 36 87,8
Mệt lả, gần như ngất 38 92,7
Ngất 2 4,9
Bảng 3. Liên quan giữa gánh nặng triệu chứng với Sức khỏe thể chất (SKTC), Sức khỏe tinh thần (SKTT) và 
CLCS trước điều trị đốt điện
SKTC SKTT CLCS
Gánh nặng triệu chứng
r 0,644 0,540 0,658
p < 0,001 < 0,001 < 0,001
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 9/2014 đến tháng 5/2015, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 41 bệnh nhân.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016108
90,2 
68,3 
82,9 
63,4 
73,2 
46,3 
82,9 85,4 
90,2 
14,6 12,2 
17,1 
9,8 9,8 7,5 
19,5 22 
29,3 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Khó thở 
khi gắng 
sức 
Khó thở 
khi nghỉ 
ngơi 
Hoa mắt, 
chóng mặt 
Da tái, vã 
mồ hôi 
Mệt mỏi, 
ốm yếu 
Chán nản, 
buồn 
phiền 
Đau ngực Nặng ngực Lo lắng 
Trước đốt điện Sau 6 tháng
Biểu đồ 1. Gánh nặng triệu chứng trước và sau điều trị đốt điện (% xuất hiện)
Biểu đồ 2. Ảnh hưởng của NNKPTT đến sức khỏe thể chất, so sánh trước và sau điều trị đốt điện (% xuất hiện)
78 
65,9 
26,9 
51,2 
82,9 
43,9 
80,5 
26,8 
17,1 14,4 
22 
39,1 
14,6 
29,3 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Hạn chế công 
việc hàng 
ngày 
Giảm thời 
gian cho 
người thân 
Hạn chế quan 
hệ xã giao 
Hủy bỏ kế 
hoạch 
Hạn chế 
hoạt động 
thể lực 
Suy giảm tình 
dục 
Suy giảm 
chung về sức 
khỏe 
Trước đốt điện
Sau 6 tháng
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 109
56,1 
41,5 
19,5 
87,8 
36,6 
87,8 
14,6 14,6 
2,4 
31,7 
4,9 
34,1 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Giảm tập trung Lo âu buồn 
phiền 
Kích thích giận 
dữ 
Rối loạn giấc 
ngủ 
Lo sợ cái chết Lo sợ tái phát 
Trước đốt điện Sau 6 tháng
Bảng 4. Điểm ASTA gánh nặng triệu chứng và CLCS trước và sau điều trị đốt điện 6 tháng
Điểm triệu chứng Sức khỏe thể chất Sức khỏe tinh thần CLCS
Trước đốt điện 14,5 ± 3,9 6,6 ± 2,1 5,7 ± 2,5 12,2 ± 4,1
Sau 6 tháng 3,2 ± 4,3 2,0 ± 3,0 1,4 ± 1,6 3,4 ± 4,4
p < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung
Chúng tôi nghiên cứu trên 41 bệnh nhân, tuổi 
trung bình là 45,6 ± 15,8, trong đó bệnh nhất thấp 
nhất là 19 tuổi và cao nhất là 73 tuổi, nữ giới chiếm 
68,3%. Tỉ lệ NNKPTT ở nữ nhiều hơn nam cũng 
được đề cập trong nhiều nghiên cứu khác [9],[10]. 
Không có bệnh nhân nào mắc các bệnh van tim hay 
bệnh mạch vành trong nghiên cứu.
Gánh nặng triệu chứng trước và sau điều trị 
đốt điện
Trước điều trị đốt điện, các triệu chứng thường 
gặp như đau ngực, khó thở, hồi hộp trống ngực 
gặp ở hầu hết bệnh nhân, chiếm tỉ lệ cao. 2/41 
bệnh nhân nghiên cứu (4,9%) bị ngất ít nhất một 
lần khi lên cơn nhịp nhanh. Gần như tất cả các 
bệnh nhân (92,7%) luôn sống trong cảm giác lo 
lắng, sợ hãi cơn nhịp nhanh sẽ tái phát bất cứ lúc 
nào. Như vậy, hầu hết các bệnh nhân NNKPTT 
phải chịu đựng các triệu chứng của cơn nhịp 
nhanh một cách nặng nề, các triệu chứng này gây 
ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe người bệnh cả về 
mặt thể chất cũng như tinh thần. Do vậy, gây cản 
trở người bệnh trong các công việc hàng ngày, tăng 
cảm giác lo lắng sợ hãi khiến cho bệnh nhân không 
Biểu đồ 3. Ảnh hưởng của NNKPTT đến sức khỏe tinh thần, so sánh trước và sau điều trị đốt điện (% xuất hiện)
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016110
thể làm việc được hoặc ngại tiếp xúc, tự cô lập mình.
Có mối tương quan tương đối chặt chẽ giữa 
gánh nặng triệu chứng với CLCS của bệnh nhân r = 
0,658, p < 0,001: những bệnh nhân có triệu chứng 
càng nặng nề, thì sức khỏe thể chất và tinh thần 
cũng như chất lượng cuộc sống đều bị ảnh hưởng 
khá lớn và ngược lại [11].
Sau điều trị đốt điện 6 tháng, tỉ lệ xuất hiện và 
mức độ các triệu chứng giảm rõ. Điểm ASTA trung 
bình về triệu chứng trước đốt điện là 14,5 ± 3,9, sau 
6 tháng giảm xuống còn 3,2 ± 4,3 (p < 0,05). Phần 
lớn các bệnh nhân cảm thấy các cơn hồi hộp trống 
ngực, cảm giác tim đập nhanh và mạnh không còn 
nữa. Đặc biệt, không còn bệnh nhân nào xuất hiện 
triệu chứng ngất như trước.
Sự thay đổi CLCS và điểm ASTA sau đốt điện
Với bộ công cụ ASTA, chúng tôi đã đánh giá 
cả 2 mặt về gánh nặng triệu chứng và chất lượng 
cuộc sống liên quan đến sức khỏe của bệnh nhân 
NNKPTT trước và sau điều trị đốt điện. Trong đó, 
phần CLCS bao gồm cả sức khỏe thể chất và sức 
khỏe tinh thần. Kết quả cho thấy có sự cải thiện rõ 
rệt một cách tích cực về tất cả các lĩnh vực ở hầu hết 
bệnh nhân nghiên cứu.
Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân nghiên 
cứu được cải thiện rõ. Đa số bệnh nhân có thể 
thực hiện được các công việc hàng ngày như học 
tập, lao động điều mà trước đây họ không dám 
làm vì sợ xuất hiện cơn nhịp nhanh. Điều đáng 
chú ý là cảm giác lo lắng sợ hãi tái phát ở các bệnh 
nhân nghiên cứu cũng đã giảm đi rất nhiều. Điểm 
ASTA về CLCS chung sau 6 tháng điều trị đốt 
điện chỉ còn lại 3,4 ± 4,4, trong khi trước đó là 
12,2 ± 4,1 (p<0,05).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương 
tự với kết quả nghiên cứu của Murali N.Bathina về 
đánh giá chất lượng cuộc sống và chi phí điều trị ở 
bệnh nhân nhịp nhanh kịch phát trên thất giữa 2 
nhóm bệnh nhân dùng thuốc và điều trị đốt điện, 
nghiên cứu này cho thấy cả việc dùng thuốc và điều 
trị đốt điện đều cho những cải thiện tốt, làm giảm 
gánh nặng triệu chứng và tăng chất lượng cuộc sống 
cho bệnh nhân, tuy nhiên điều trị đốt điện cho kết 
quả toàn diện và lâu dài hơn, trong khi đó thì điều trị 
bằng thuốc còn nặng nề về sự tái phát các cơn nhịp 
nhanh [11]. Nghiên cứu này còn chỉ ra rằng việc sử 
dụng thuốc còn có thể gây nên nhiều tác dụng phụ 
khác, và phải dùng suốt đời. Qua đó, chúng ta nhận 
thấy việc điều trị đốt điện có nhiều ưu điểm hơn, 
đặc biệt là bệnh nhân không phải lo lắng việc tái 
phát cơn nhịp nhanh và tránh được việc phải dùng 
thuốc suốt đời.
KẾT LUẬN
Điểm ASTA trung bình trước điều trị đốt điện: 
12,2 ± 4,1 điểm.
Điểm ASTA trung bình sau điều trị 6 tháng: 
3,4 ± 4,4 điểm.
Sự thay đổi điểm ASTA sau điều trị đốt điện 
có ý nghĩa thống kê chỉ ra rằng có sự cải thiện về 
các triệu chứng cũng như CLCS của bệnh nhân 
NNKPTT.
ABSTRACT
Background: Supraventricular tachycardias (SVT) are very common and can cause a profoundly 
negative impact on a person's daily life, leading to impaired health-related quality of life (HRQOL). 
Radiofrequency catheter ablation remains the treatment of choice for SVT.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 111
Objective and methods: The aim was to assess of HRQOL in patients with SVT using the ASTA 
(Arrhythmia-Specific questionnaire in Tachycardia and Arrhythmia) and the change of HRQOL after 
radifrequency catheter ablation 6 months. 
Results: 41 consecutive patients (13 male and 28 female) with SVT underwent RF catheter ablation at 
the Vietnam Heart Institute. Mean age: 45.6 ± 15.8 years. There were a improvement in ASTA symptom 
scale and HRQOL 6 months after successful catheter ablation. ASTA score was 12.2 ± 4.1 and 3.4 ± 4.4, 
before and after treatment, respectively (p < 0.05). 
Conclusions: Successful radiofrequency catheter ablation can improve HRQOL in patients 
with SVT.
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1. Leonard I. Ganz and Peter L. Friedman (1995), Supraventricular tachycardia, New England journal of 
medicine. Jan. 19, 1995, p. 162-174.
2. Nguyễn Lân Việt (2003), Điều trị một số rối loạn nhịp tim thường gặp, Thực hành bệnh tim mạch, NXB 
Y học Hà Nội. p. 194-199.
3. Steven R. Lowenstein, Blair D. Halperin and Micheal J. Reiter, (1996), Paroxysmal supraventricular 
tachycardias. The Journal of Emergency Medicine, 14(1): p. 39-51.
4. John A. Kastor (2000), Supraventricular Tachyarrhythmias, Arrhythmias, W.P. Saunders publishing 
company. p. 198-269.
5. Nguyễn Hồng Hạnh, Phạm Quốc Khánh và Trần Văn Đồng (2008), Nghiên cứu hiệu quả điều 
trị một số rối loạn nhịp thất bằng năng lượng sóng có tần số radio. Tạp chí Y học thực hành, (1), p. 
92-93.
6. Phạm Quốc Khánh (2001), Nghiên cứu điện sinh lý học tim qua đường mạch máu trong chẩn đoán và 
điều trị một số rối loạn nhịp tim. Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện Quân y.
7. Ulla Walfridsson (2011), Assessing Symptom Burden and Health-Related Quality of Life in patients 
living with arrhythmia and ASTA: Arrhythmia-Specific questionnaire in Tachycardia and Arrhythmia, 
Linköping.
8. Ulla Walfridsson (2012), Kristofer Arestedt and Anna Stromberg (2012), Development and validation 
of a new Arrhythmia-Specific questionnaire in Tachycardia and Arrhythmia (ASTA) with focus on symptom 
burden. Health Qual Life Outcome, 10(44).
9. Leonardo A. Orejarena et al (1998), Paroxysmal Supraventricular Tachycardia in the General 
Population. JACC, 31(1), p. 150-157.
10. Phan Đình Phong (2005), Nghiên cứu điện tâm đồ bề mặt và trong buồng tim của cơn tim nhanh vào 
lại nút nhĩ thất và vào lại nhĩ thất. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú, Đại học Y Hà Nội.
11. Murali N. Bathina et al (1998), Radiofrequency catheter ablation versus Medical therapy for inital 
treatment of supraventricular tachycardia and its impact on quality of life and healthcare costs. The 
American Journal of Cardiology , 82(5), p. 589-593.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_su_thay_doi_chat_luong_cuoc_song_o_benh_nhan_nhip_n.pdf