Đánh giá sự tham gia của các bên liên quan trong quản lý rừng đặc dụng vùng Tây Bắc

TÓM TẮT

Trong giai đoạn hiện nay, việc quản lý tài nguyên rừng đặc dụng (RĐD) ở

các Vườn Quốc gia hay các Khu bảo tồn (VQG/KBT) đã có những thay đổi

theo hướng tích cực. Quan điểm về quản lý các khu RĐD đã chuyển từ “bảo

tồn nghiêm ngặt” sang “bảo tồn và phát triển” và “bảo tồn đa mục tiêu”.

Trách nhiệm quản lý không chỉ giới hạn ở Ban quản lý VQG/KBT mà từng

bước được xã hội hóa và thu hút nhiều bên liên quan cùng tham gia. Vai trò

của chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư được thể hiện rõ bên cạnh

vai trò chính của Ban quản lý VQG/KBT. Ngoài ra kiểm lâm huyện, công

an hay bộ đội, biên phòng đóng trên địa bàn có vai trò hỗ trợ rất lớn trong

công tác bảo vệ RĐD. Đây là một sự đổi mới và thay đổi theo xu hướng tất

yếu trong tiến trình bảo tồn bền vững gắn liền với phát triển, gắn bảo vệ tài

nguyên RĐD với phát triển đời sống cho cộng đồng dân cư địa phương, gắn

sự tham gia và lợi ích của cộng đồng với phát triển thể chế và các cơ chế

chính sách quản lý thích hợp

pdf 10 trang phuongnguyen 1660
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá sự tham gia của các bên liên quan trong quản lý rừng đặc dụng vùng Tây Bắc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá sự tham gia của các bên liên quan trong quản lý rừng đặc dụng vùng Tây Bắc

Đánh giá sự tham gia của các bên liên quan trong quản lý rừng đặc dụng vùng Tây Bắc
Tạp chí KHLN 1/2015 (3717-3726) 
©: Viện KHLNVN - VAFS 
ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: www.vafs.gov.vn 
3717 
ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN 
TRONG QUẢN LÝ RỪNG ĐẶC DỤNG VÙNG TÂY BẮC 
Vũ Thị Bích Thuận 
Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và PTNT 1 
Từ khóa: Các bên liên 
quan, rừng đặc dụng, quản 
lý rừng, sự tham gia, vùng 
Tây Bắc 
TÓM TẮT 
Trong giai đoạn hiện nay, việc quản lý tài nguyên rừng đặc dụng (RĐD) ở 
các Vườn Quốc gia hay các Khu bảo tồn (VQG/KBT) đã có những thay đổi 
theo hướng tích cực. Quan điểm về quản lý các khu RĐD đã chuyển từ “bảo 
tồn nghiêm ngặt” sang “bảo tồn và phát triển” và “bảo tồn đa mục tiêu”. 
Trách nhiệm quản lý không chỉ giới hạn ở Ban quản lý VQG/KBT mà từng 
bước được xã hội hóa và thu hút nhiều bên liên quan cùng tham gia. Vai trò 
của chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư được thể hiện rõ bên cạnh 
vai trò chính của Ban quản lý VQG/KBT. Ngoài ra kiểm lâm huyện, công 
an hay bộ đội, biên phòng đóng trên địa bàn có vai trò hỗ trợ rất lớn trong 
công tác bảo vệ RĐD. Đây là một sự đổi mới và thay đổi theo xu hướng tất 
yếu trong tiến trình bảo tồn bền vững gắn liền với phát triển, gắn bảo vệ tài 
nguyên RĐD với phát triển đời sống cho cộng đồng dân cư địa phương, gắn 
sự tham gia và lợi ích của cộng đồng với phát triển thể chế và các cơ chế 
chính sách quản lý thích hợp. 
Keyword: Stakeholders, 
special use forests, forest 
management, 
participation, Northwest 
Assessment of stakeholders of special use forest management in 
Northwest Region 
In the current period, the management of special use forest resources in 
national parks or protected areas has changed in a positive direction. The 
idea of managing the SUF has moved from "strict conservation" to 
"conservation and development" and "conservation objectives". 
Management responsibilities are not limited to the Management Board or 
the National Park conservation area which gradually socialized and 
attracted many stakeholders involved. The role of local government, local 
communities can be seen beside the main role of the Management Board of 
the National Park or reserve. Also ranger district, police or army, border 
closed in areas with large supporting role in the protection of special-use 
forests. This is an innovation and change with the inevitable trend of 
sustainable conservation processes associated with the development, 
protection of natural resources associated SUF to develop life for local 
communities, linking the participation and benefit of the community to 
develop institutional mechanisms and appropriate management policies. 
Tạp chí KHLN 2015 Vũ Thị Bích Thuận, 2015(1) 
3718 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hoạt động bảo tồn bao giờ cũng gắn chặt với 
các tổ chức, thể chế từ trung ương tới địa 
phương và với các bên liên quan, hoạt động 
này không chỉ do VQG hay KBT đảm nhận và 
mối quan hệ với các bên liên quan đóng vai trò 
quan trọng trong quản lý bảo tồn. Tuy nhiên 
nhận thức về tầm quan trọng của sự tham gia 
giữa các bên trong quản lý bảo tồn hiện nay 
không đồng đều ở các nơi, đôi khi còn bị mờ 
nhạt và chưa được coi trọng. Thực tế cho thấy 
việc kết hợp bảo tồn với phát triển trong quản 
lý tài nguyên rừng đặc dụng là nhu cầu bức 
thiết trong bối cảnh hiện nay. 
Về quản lý Nhà nước, chúng ta vẫn còn quan 
niệm rừng đặc dụng thường được luật pháp 
quy định một cơ quan nhà nước được giao 
quản lý, bảo tồn và phát triển nó. Như vậy 
những chủ thể khác như chính quyền địa 
phương, cộng đồng dân cư sống trong 
VQG/KBT, các doanh nghiệp, cơ quan, tổ 
chức hoạt động trong và ngoài ranh giới đã bị 
loại ra khỏi quyền quản lý và sử dụng những 
tài nguyên đó. Điều này dẫn đến những mâu 
thuẫn khó giải quyết là sinh kế của người dân 
với công tác bảo tồn. 
Với đặc thù về hệ sinh thái - nhân văn của 
khu vực Tây Bắc Việt Nam, quản lý bảo tồn ở 
đây cũng gặp nhiều thách thức do yếu tố kinh 
tế, xã hội mang lại. Mặc dù đây là vùng có 
diện tích rộng và dân số lại ít hơn nhiều so 
với vùng đồng bằng, cuộc sống của người dân 
phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, vào nguồn 
tài nguyên rừng. Cuộc sống của dân cư vùng 
Tây Bắc còn nhiều khó khăn, nhất là nhân 
dân các dân tộc thuộc các vùng sâu, vùng xa 
(Võ Quý, 2012). Trong những năm qua, chính 
quyền địa phương cũng như các tổ chức, 
VQG hay KBT đều đã nỗ lực trong việc bảo 
vệ hệ sinh thái tự nhiên nhưng vẫn không 
tránh khỏi những tác động ngoài ý muốn, đa 
dạng sinh học bị suy giảm, diện tích rừng tự 
nhiên ngày càng bị thu hẹp, nhiều loài động 
thực vật quý hiếm có nguy cơ cạn kiệt trong 
tự nhiên. Nguyên nhân của những vấn đề trên 
một phần là do chưa có những đánh giá một 
cách cụ thể vai trò của các bên liên quan 
chính trong quản lý rừng đặc dụng hiện nay, 
do vậy chưa có những chính sách, cách tiếp 
cận và sự phối hợp một cách có hiệu quả 
trong hoạt động bảo tồn. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Địa điểm nghiên cứu 
Lựa chọn 3 điểm nghiên cứu là VQG Hoàng 
Liên (tỉnh Lào Cai), Khu BTTN Mường Nhé 
(tỉnh Điện Biên), Khu BTTN Xuân Nha (tỉnh 
Sơn La) dựa trên các tiêu chí sau: 
- Đặc trưng của tài nguyên rừng tự nhiên vùng 
Tây Bắc. 
- Văn hóa của người dân tộc bản địa phong 
phú, tập trung chủ yếu là các dân tộc thiểu số. 
- Diện tích khu bảo tồn lớn so với các KBT 
khác trong khu vực: 
Bảng 1. Cơ cấu phân chia khu vực trong KBT 
VQG/KBT 
Diện tích vùng lõi (ha) Diện tích 
vùng đệm 
(ha) Tổng diện tích 
Phân khu bảo vệ 
nghiêm ngặt 
Phân khu phục hồi 
sinh thái 
VQG Hoàng Liên 28.497,5 11.875,0 16.622,5 25.170,6 
KBTTN Mường Nhé 45.581,0 25.659,78 19.921,22 124.381,34 
KBTTN Xuân Nha 16.316,8 10.476,0 5.840,8 25.775,0 
Vũ Thị Bích Thuận, 2015(1) Tạp chí KHLN 2015 
3719 
2.2. Nghiên cứu và phân tích tài liệu thứ cấp 
Nghiên cứu tình hình cơ bản bằng cách thừa 
kế tài liệu có sẵn. Bao gồm: 
- Tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội 
của các thôn, xã sống ở phân khu bảo vệ nghiêm 
ngặt, phân khu phục hồi sinh thái và vùng đệm 
của Vườn Quốc gia Hoàng Liên, Khu BTTN 
Mường Nhé, Khu BTTN Xuân Nha; 
- Các quyết định thành lập, chức năng của 
VQG, Khu bảo tồn; 
- Hệ thống chính sách liên quan đến quản lý 
rừng đặc dụng ở Việt Nam; 
- Các báo cáo tổng kết đánh giá, số liệu thống 
kê các năm có liên quan đến công tác bảo tồn 
ĐDSH tại các VQG Hoàng Liên, KBTTN 
Xuân Nha và KBTTN Mường Nhé; 
- Các tài liệu khác liên quan tới VQG, Khu bảo 
tồn và địa phương; 
- Một số công trình khoa học, đề tài nghiên 
cứu về các lĩnh vực có liên quan. 
2.3. Phương pháp điều tra thu thập số liệu 
hiện trường 
Nghiên cứu tập trung phần lớn thời gian cho 
việc thu thập số liệu sơ cấp. Tiến hành theo 
phương pháp phỏng vấn và đánh giá có sự 
tham gia của người dân (PRA). 
Phương pháp phỏng vấn và đánh giá có sự 
tham gia của người dân: Chính là sử dụng 
bảng câu hỏi có định hướng để biết thông tin. 
Kết quả phỏng vấn sẽ được kiểm chứng qua 
việc khảo sát thực địa cùng với người dân. 
Đối tượng phỏng vấn chính: Cán bộ quản lý 
VQG và KBT; cán bộ kiểm lâm; cán bộ chính 
quyền địa phương và người dân sống trong và 
ngoài ranh giới VQG/KBT. 
Để xác định các bên liên quan chính đến 
quản lý rừng đặc dụng, chúng tôi tiến hành 
phỏng vấn 150 phiếu tại 03 điểm nghiên cứu, 
cụ thể như sau: 
Bảng 2. Số phiếu điều tra tại các điểm nghiên cứu 
VQG/KBT 
Số phiếu khảo sát 
Tổng số phiếu Cán bộ quản lý + Kiểm lâm Cán bộ + Người dân địa phương 
VQG Hoàng Liên 51 15 36 
KBTTN Mường Nhé 47 8 39 
KBTTN Xuân Nha 52 10 42 
Tổng 150 33 117 
Phương pháp đánh giá sự tham gia của các 
bên liên quan trong quản lý rừng đặc dụng tại 
VQG Hoàng Liên; KBT thiên nhiên Mường 
Nhé; KBT thiên nhiên Xuân Nha: sử dụng sơ 
đồ Venn để phân tích mối quan hệ giữa các 
bên liên quan trong quản lý rừng đặc dụng. 
Sơ đồ Venn được xây dựng nhằm phân tích và 
trực quan hóa các mối quan hệ giữa các bên 
liên quan và giúp phát hiện mối quan hệ giữa 
các bên, phát hiện quan hệ hợp tác hay cạnh 
tranh,... Mối quan hệ này thể hiện như sau 
trong sơ đồ: 
- Độ lớn của vòng tròn thể hiện tầm quan 
trọng, quyền hạn của tổ chức đó. Càng lớn thì 
càng quan trọng. Nhân tố bên trong nội bộ thể 
hiện hiện tại. Nhân tố ảnh hưởng từ bên ngoài 
nội bộ thể hiện tương lai. 
- Vị trí của các vòng tròn: Càng gần trung tâm 
thì càng ảnh hưởng nhiều đến vấn đề, chồng 
lên nhau là có mối quan hệ chặt chẽ. 
Tạp chí KHLN 2015 Vũ Thị Bích Thuận, 2015(1) 
3720 
Cách thực hiện sơ đồ Venn: 
- Xác định vấn đề quan tâm chung là: Quản lý 
VQG hay KBT. 
- Xác định các bên liên quan đến vấn đề đó. 
- Thảo luận để thể hiện tầm quan trọng của từng 
cơ quan lên các tờ giấy có vòng tròn to nhỏ 
khác nhau (Có thể chia theo cấp 1, 2, 3, 4). 
- Di chuyển các vòng tròn này vào trong hay ra 
ngoài trung tâm, có chồng lên nhau hay không 
dựa vào mối quan hệ, ảnh hưởng giữa các bên 
liên quan. Càng vào trong thì ảnh hưởng đến 
vấn đề càng lớn. 
- Cuối cùng: Thảo luận để xác định các vấn đề, 
cơ hội và giải pháp để giải quyết mối quan hệ 
giữa các bên liên quan trong phạm vi vấn đề 
quan tâm. 
2.4. Xử lý số liệu 
Số liệu thu thập được sẽ được xử lý bằng phần 
mềm Excel. Việc phân tích kết quả thu được 
sau quá trình xử lý sử dụng phương pháp mô 
tả so sánh. 
Kết quả xử lý được thể hiện theo dạng phân 
tích, mô tả, bảng và hình vẽ. 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Các bên liên quan chính trong quản lý 
rừng đặc dụng tại khu vực nghiên cứu 
Công tác bảo tồn ĐDSH tại các VQG, KBT 
hiện nay chủ yếu tập trung vào bảo vệ nghiêm 
ngặt hệ sinh thái, cố gắng ngăn chặn những 
hành động từ bên ngoài. Những hành động có 
thể tác động đến hệ sinh thái rừng đặc dụng 
đều bị coi là những hành động xâm hại. Mâu 
thuẫn giữa lực lượng bảo vệ rừng và người dân 
càng tăng cao hơn nữa khi các chính sách bảo 
tồn “nghiêm ngặt” càng được tăng cường. 
Qua thực tế điều tra cho thấy những yếu tố 
chính có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý 
tại các VQG/KBT là thói quen canh tác, trình 
độ nhận thức, hiểu biết của cộng đồng, vai trò 
của địa phương trong quản lý tài nguyên 
rừng, sự phối hợp giữa các tổ chức trên địa 
bàn có rừng. 
Để đánh giá mức độ quan trọng của các bên 
liên quan chính đến công tác bảo vệ rừng đặc 
dụng tại 3 điểm nghiên cứu, chúng tôi sử 
dụng bảng câu hỏi bán định hướng cho các 
đối tượng là cán bộ quản lý VQG/KBT; kiểm 
lâm; cán bộ và người dân địa phương. Kết 
quả như sau: 
Bảng 3. Các bên liên quan chính trong hoạt động quản lý bảo tồn tại VQG/KBT 
VQG/KBT VQG Hoàng Liên KBTTN Mường Nhé KBTTN Xuân Nha 
Các bên liên quan 
chính 
Vườn quốc gia 
Chính quyền địa phương từ 
xã đến huyện 
Kiểm lâm huyện 
Cộng đồng dân cư 
HTX sản xuất đồ lưu niệm/sản 
xuất thuốc cổ truyền 
Cơ quan công an 
Khu BTTN 
Chính quyền địa phương từ 
xã đến huyện 
Cộng đồng dân cư 
Các đồn biên phòng 
Cơ quan công an 
Kiểm lâm huyện 
Khu BTTN 
Chính quyền địa phương từ 
xã đến huyện 
Cộng đồng dân cư 
Các đồn biên phòng 
Kiểm lâm huyện 
Cơ quan công an 
(Mức độ quan trọng được sắp xếp theo thứ tự trong bảng). 
Qua kết quả khảo sát thấy rằng từ người dân 
đến những người làm công tác quản lý tại 
chính quyền địa phương và VQG hay KBT 
đều có chung quan điểm về sự tham gia của 
các bên trong quản lý bảo tồn tổng hợp tài 
nguyên RĐD là rất cần thiết, 90% ý kiến được 
hỏi đều đồng ý như vậy, chỉ có 10% ý kiến cho 
rằng là cần thiết. 
Vũ Thị Bích Thuận, 2015(1) Tạp chí KHLN 2015 
3721 
Bảng 4. Mức độ tham gia của các bên trong quản lý bảo tồn tổng hợp tài nguyên RĐD 
VQG/KBT 
Số phiếu 
khảo sát 
Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết 
Số phiếu 
đồng ý 
% 
Số phiếu 
đồng ý 
% Số phiếu % 
VQG Hoàng Liên 51 42 82,35 9 17,65 0 0,00 
KBTTN Mường Nhé 47 43 91,49 4 8,51 0 0,00 
KBTTN Xuân Nha 52 50 96,15 2 3,85 0 0,00 
 150 135 90,00 15 10,00 0 0,00 
Rất cần thiết 
Cần thiết 
90% 
10% 
 Biểu đồ 1. Mức độ cần thiết của sự tham gia các bên trong quản lý bảo tồn 
3.1.1. Vai trò của Ban quản lý VQG và KBT 
Ban quản lý khu rừng đặc dụng là tổ chức của 
Nhà nước, có chức năng, nhiệm vụ của chủ 
rừng và được Nhà nước bảo đảm các điều 
kiện để thực hiện trách nhiệm quản lý bảo 
vệ, phát triển rừng đặc dụng; bảo tồn, phát 
huy các giá trị đặc biệt về thiên nhiên, mẫu 
chuẩn hệ sinh thái, đa dạng sinh học, nguồn 
gen sinh vật, di tích lịch sử, văn hóa, cảnh 
quan; nghiên cứu khoa học; cung ứng dịch vụ 
môi trường rừng (Nghị định số 117/2010/NĐ-
CP ngày 24/12/2010 về tổ chức và quản lý hệ 
thống rừng đặc dụng). 
Diện tích rừng đặc dụng ở nước ta hiện nay 
phần lớn được giao cho các Ban quản lý 
VQG/KBT. Cho đến nay nhiệm vụ bảo vệ và 
phát triển rừng đặc dụng vẫn chủ yếu do Ban 
quản lý VQG/KBT đảm nhận. Tuy nhiên với 
mỗi VQG/KBT khác nhau lại có những thuận 
lợi và khó khăn khác nhau trong quá trình 
thực thi nhiệm vụ, hiệu quả quản lý cũng 
khác nhau. 
Ban quản lý có thể thuộc UBND tỉnh như 
VQG Hoàng Liên; thuộc Sở NN&PTNT như 
KBTTN Mường Nhé hay thuộc Chi cục kiểm 
lâm tỉnh như KBTTN Xuân Nha. Tùy thuộc 
vào cấp quản lý mà mức độ đầu tư về nhân 
lực, kinh phí, chính sách hỗ trợ, khuyến khích 
khác nhau nên cũng đã ảnh hưởng lớn đến 
hiệu quả quản lý. VQG Hoàng Liên chịu sự 
quản lý trực tiếp của UBND tỉnh Lào Cai, với 
diện tích lớn nằm trên hai tỉnh Lào Cai và Lai 
Châu, có số lượng nhân sự lớn 120 người, đầy 
đủ các phòng ban chức năng, trong đó Hạt 
kiểm lâm Vườn có 55 kiểm lâm, 01 Trung tâm 
du lịch sinh thái và giáo dục môi trường. Với 
quy mô vườn như vậy về cơ bản có thể đáp 
ứng được yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ và bảo tồn 
hệ sinh thái rừng tự nhiên. 
KBTTN Mường Nhé hiện có 24 cán bộ nhân 
viên làm việc, trong đó có 9 cán bộ mang mã 
ngạch kiểm lâm quản lý 45.581ha rừng đặc 
dụng. Với một khu vực nhạy cảm như vậy, nạn 
dân di cư tự do lớn, nhiều dân tộc sống rải rác 
trong rừng, lực lượng kiểm lâm mỏng khó có 
Tạp chí KHLN 2015 Vũ Thị Bích Thuận, 2015(1) 
3722 
thể kiểm soát hết mọi vấn đề nảy sinh trong 
quá trình bảo vệ rừng (theo quy định tại 
NĐ117/2010/NĐ-CP một kiểm lâm quản lý 
500ha rừng đặc dụng, nhưng ở KBTTN 
Mường Nhé một kiểm lâm quản lý trên 
5.000ha rừng). 
KBTTN Xuân Nha do trực thuộc Chi cục 
kiểm lâm tỉnh Sơn La nên có 22/24 cán bộ 
mang mã ngạch kiểm lâm quản lý 16.316,8ha 
rừng đặc dụng, theo quy định hiện vẫn còn 
thiếu lực lượng, việc thực thi pháp luật còn 
nhiều khó khăn. 
Bảng 5. Diện tích bình quân 01 cán bộ kiểm lâm VQG/KBT quản lý 
VQG/KBT 
Diện tích 
(ha) 
Số lượng kiểm lâm 
(người) 
Diện tích RĐD/01 kiểm lâm 
quản lý (ha) 
VQG Hoàng Liên 28,497.5 55 518.1 
KBTTN Mường Nhé 45,581.0 9 5,064.6 
KBTTN Xuân Nha 16,316.8 22 741.7 
Bình quân chung 90,395.3 86 1,051.1 
Với địa bàn quản lý rộng, điều kiện đi lại khó 
khăn như ở khu vực Tây Bắc, nhưng lực lượng 
kiểm lâm trực tiếp thực hiện công tác tuần tra 
bảo vệ rừng còn thiếu nhiều so với quy định. 
Hầu hết các Vườn quốc gia, khu bảo tồn nói 
chung, VQG Hoàng Liên, KBT thiên nhiên 
Mường Nhé và KBT thiên nhiên Xuân Nha 
nói riêng chưa có cán bộ được đào tạo chuyên ...  
vị trí các VQG/KBT đã tạo nên những mối đe 
dọa khác từ bên ngoài. Những khu vực nào gần 
đường giao thông, trung tâm huyện lỵ tình trạng 
buôn bán, khai thác tài nguyên rừng càng lớn. 
Thị trường buôn bán các sản phẩm từ rừng 
cũng đã tạo sự thúc đẩy cho việc khai thác tài 
nguyên rừng. Lợi nhuận từ buôn bán các sản 
phẩm hoang dã lớn, trong khi nhu cầu sử dụng 
những sản phẩm này của người dân ngày một 
nhiều, đặc biệt đối với những người có tiền, 
những người sống ở các thành phố lớn đã 
khuyến khích những xâm hại một cách bất hợp 
pháp vào tài nguyên rừng. Sức hấp dẫn của việc 
buôn bán các sản phẩm hoang dã đã khiến cho 
không chỉ có người dân địa phương khai thác 
rừng mà còn có cả những đối tượng từ nơi khác 
đến khai thác, điều này đã tạo nên sức ép lớn 
cho cán bộ quản lý các VQG/KBT. 
3.1.2. Vai trò của chính quyền địa phương 
Sự ủng hộ của Chính quyền địa phương có ý 
nghĩa tích cực trong bảo vệ rừng. Đối với các 
địa phương trong phạm vi nghiên cứu, hầu hết 
chính quyền các xã đều ủng hộ công tác bảo vệ 
rừng, họ hợp tác với Ban quản lý các KBT 
trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức 
cho cộng đồng về bảo vệ rừng, cùng Ban quản 
lý VQG/KBT xây dựng các hương ước, hướng 
dẫn người dân áp dụng các biện pháp canh tác 
nâng cao thu nhập, hạn chế sự phụ thuộc vào 
rừng của người dân. Điều này cho thấy quan 
điểm trong quản lý bảo tồn đã có những thay 
đổi so với trước đây, công tác bảo tồn tài 
nguyên RĐD không chỉ phó mặc VQG hay 
KBT, mà còn có sự tham gia của chính quyền 
địa phương và cộng đồng dân cư vùng lõi và 
vùng đệm. 
Tại VQG Hoàng Liên, Hạt kiểm lâm Hoàng 
Liên đã có những hoạt động tích cực trong 
việc phát huy vai trò quản lý của cộng đồng và 
chính quyền địa phương như phối hợp với Ban 
chỉ huy quân sự huyện Sa Pa xây dựng “Quy 
chế phối hợp trong công tác bảo vệ rừng, 
PCCCR trong địa bàn quản lý”, xây dựng quy 
chế phối hợp giữa Hạt kiểm lâm với các xã của 
vùng lõi VQG trong công tác bảo vệ rừng và 
phòng cháy chữa cháy rừng, triển khai cấp 
phát thẻ ra vào rừng cho người dân (Vườn 
Quốc gia Hoàng Liên, 2013). 
Chính quyền địa phương đã hỗ trợ thực hiện 
nhiều hoạt động để khuyến khích, tuyên truyền 
đến người dân và cộng đồng tham gia vào bảo 
vệ và phát triển RĐD. Thành lập, đôn đốc và 
kiểm tra các tổ nhóm nhận khoán thực hiện 
công tác bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy 
rừng và cùng với cán bộ Ban quản lý KBT tổ 
chức phối hợp tuần tra trong lâm phần KBT 
(Khu Bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé, Khu 
Bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha, 2013). 
3.1.3. Vai trò của cộng đồng địa phương 
Thực tế cho thấy trong quản lý bảo tồn tổng 
hợp tài nguyên RĐD thì không thể tách rời 
cộng đồng và chính quyền địa phương, đây 
được xem như là lực lượng nòng cốt, hết sức 
quan trọng. Cộng đồng địa phương là những 
người sống trong và ngoài rừng, cuộc sống của 
họ phụ thuộc nhiều vào việc khai thác tài 
nguyên rừng cho nên họ vừa là những mối đe 
dọa tới tài nguyên RĐD nhưng cũng chính họ 
lại là những người bảo vệ rừng tốt nhất khi họ 
hiểu được vai trò, tầm quan trọng của rừng và 
hợp tác với cơ quan quản lý. 
Sự tham gia của cộng đồng hay chính quyền địa 
phương đôi khi còn thụ động, phụ thuộc hoàn 
toàn vào cách tổ chức, tuyên truyền hay vận 
động của cán bộ kiểm lâm hay Ban quan lý 
VQG/KBT. Trên thực tế, sự tham gia của cộng 
đồng địa phương mới chỉ dừng lại ở các hợp 
đồng giao khoán quản lý bảo vệ rừng theo định 
mức của Nhà nước, người dân cùng xây dựng 
và thực hiện hương ước quản lý rừng cộng 
đồng theo sự hướng dẫn của kiểm lâm, thành 
lập tổ đội bảo vệ rừng... Tuy vậy, trong quá 
trình thực hiện còn có nhiều vấn đề cần xem xét 
Tạp chí KHLN 2015 Vũ Thị Bích Thuận, 2015(1) 
3724 
như việc giải ngân tiền giao khoán đến người 
dân còn chậm, sự chủ động của người dân trong 
tổ chức bảo vệ rừng, ý thức của một bộ phận 
người dân trong việc khai thác tài nguyên 
rừng... Người dân nhận khoán bảo vệ rừng 
nhưng họ chưa thực sự được làm chủ, họ vẫn 
đóng vai trò là người làm thuê bởi ngoài tiền 
nhận khoán ra họ vẫn không được sử dụng và 
thu nhập gì thêm trên chính khoảnh rừng được 
nhận khoán. Không những vậy, do thiếu việc 
làm do sự hấp dẫn từ lợi nhuận của thị trường 
buôn bán các loại sản phẩm từ rừng nên vào 
thời gian nông nhàn, người dân vẫn thường vào 
rừng khai thác các loại LSNG bán để có thu 
nhập như Phong lan, Đỗ quyên, cây dược liệu, 
măng rừng, nấm... (VQG Hoàng Liên); nứa, tre, 
giang... (KBTTN Xuân Nha), lá dong, măng... 
(KBTTN Mường Nhé), hoặc săn bắt động vật 
hoang dã, khai thác cây gỗ trái phép. Như vậy 
vấn đề ở đây là phải xem xét lại cơ chế quản lý, 
chính sách hưởng lợi và cách thức tiếp cận, 
cùng chia sẻ một cách hợp lý và công bằng với 
cộng đồng, để họ thực sự yên tâm cùng góp 
phần quản lý bảo tồn với VQG/KBT. 
Phong tục tập quán, nhận thức của người dân 
địa phương cũng là những nhân tố có ảnh 
hưởng đến hiệu quả quản lý rừng. Phần lớn 
người dân sống ở các VQG/KBT là các dân 
tộc thiểu số, canh tác truyền thống của họ là 
nương rẫy, chăn thả gia súc tự do, cuộc sống 
của họ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Họ sử 
dụng những sản phẩm có nguồn gốc từ rừng tự 
nhiên phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình 
như các loại củ, quả, rau xanh, thuốc chữa 
bệnh, gỗ làm nhà, chuồng trại, củi đun... 
Những hoạt động này của cộng đồng đã góp 
phần làm giảm hiệu quả quản lý tài nguyên 
rừng đặc dụng. 
Một số khu rừng đặc dụng được nhận định 
không chỉ cung cấp tiềm năng to lớn để xoá 
đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế nông 
thôn mà vẫn hỗ trợ tốt mục tiêu quan trọng là 
bảo tồn. Ngăn cấm người dân thâm nhập, tiếp 
cận nguồn tài nguyên trong KBT/VQG tất yếu 
làm nảy sinh mâu thuẫn giữa cộng đồng địa 
phương, KBT/VQG với mục đích bảo tồn 
(Cao Lý, 2008). 
Tăng cường sự tham gia của cộng đồng địa 
phương, đặc biệt những người sống trong 
rừng, gần rừng, phụ thuộc vào rừng sẽ góp 
phần mang lại thành công trong công tác bảo 
tồn đa dạng sinh học. 
Quản lý bền vững tài nguyên rừng là phải thu 
hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc 
biệt phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa 
phương bằng các hoạt động làm tăng thu nhập, 
chia sẻ lợi ích từ rừng. 
Di dân ra khỏi vùng lõi các VQG, KBT là một 
chủ trương lớn, song xét trên phương diện 
kinh tế - xã hội thì việc đưa người dân vốn 
quen sống nơi đây đến một nơi khác làm giảm 
những tác động của chính cộng đồng song sẽ 
dễ dàng hơn cho lực lượng khác xâm lấn và 
khai thác tài nguyên rừng bởi lúc này không 
còn lực lượng tại chỗ đó là người dân. 
3.1.4. Vai trò của Hạt kiểm lâm huyện 
Trong quản lý rừng đặc dụng, hiện nay thường 
có hai lực lượng kiểm lâm cùng quản lý một 
diện tích rừng đó là kiểm lâm thuộc Hạt kiểm 
lâm huyện và kiểm lâm thuộc Hạt kiểm lâm 
của VQG/KBT. Tuy vậy, hầu hết tại các 
VQG/KBT, diện tích rừng đặc dụng được giao 
cho Ban quản lý nên vai trò của Hạt kiểm lâm 
huyện không lớn, nhiệm vụ bảo vệ và phát 
triển rừng tập trung ở Hạt kiểm lâm 
VQG/KBT (trừ một số KBT do diện tích 
không đủ 15.000ha nên không đủ điều kiện 
thành lập Hạt kiểm lâm). Với mỗi vùng khác 
nhau vai trò của Hạt kiểm lâm huyện khác 
nhau, có những nơi sự phối hợp với KBT khá 
chặt chẽ (như ở VQG Hoàng Liên), hay mối 
quan hệ mang tính chất tương đối (như ở 
KBTTN Mường Nhé và Xuân Nha). Cán bộ 
kiểm lâm công tác tại các Hạt kiểm lâm huyện 
thường thiên về thực thi pháp luật nên với 
những vụ vi phạm khi đã vượt quá ranh giới 
của KBT thì thường được chuyển hoặc phối 
hợp với Hạt kiểm lâm huyện để xử lý. 
Vũ Thị Bích Thuận, 2015(1) Tạp chí KHLN 2015 
3725 
Như vậy có thể nói vai trò của Hạt kiểm lâm 
huyện ở đây là phối hợp trong công tác bảo vệ 
rừng. Sự phối hợp này nhiều hay ít tùy thuộc 
vào VQG hay KBT có Hạt kiểm lâm hay 
không và đặc điểm riêng của từng vùng. 
3.1.5. Các đơn vị khác 
Có vai trò phối hợp, hỗ trợ cho sự phát triển 
hài hòa giữa quản lý và sử dụng bền vững tài 
nguyên RĐD là các tổ chức, cá nhân làm công 
tác khuyến nông, khuyến lâm tại địa phương, 
họ giữ vai trò chính là định hướng, phát triển 
sản xuất cho vùng đệm; các doanh nghiệp 
đóng trên địa bàn, các doanh nghiệp này đóng 
vai trò tư vấn, dịch vụ cho các hoạt động nông 
lâm nghiệp trong quản lý và phát triển rừng; 
các trung tâm nghiên cứu về nông lâm nghiệp, 
họ đóng vai trò tư vấn, chuyển giao khoa học 
kỹ thuật trong sản xuất ở vùng đệm, nghiên 
cứu và đề xuất hướng bảo tồn và phát triển bền 
vững phù hợp với điều kiện sinh thái, nhân văn 
của mỗi VQG/KBT. 
Tại VQG Hoàng Liên, tiềm năng du lịch lớn 
nên việc tồn tại các hợp tác xã, tổ chức, cá 
nhân, các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ 
công mỹ nghệ là điều tất yếu. Trên thực tế các 
đơn vị này đều có những cam kết với Vườn 
về việc khai thác các sản phẩm, nguyên liệu 
từ rừng một cách bền vững, đồng thời kí cam 
kết cùng quản lý tài nguyên RĐD với cán bộ 
kiểm lâm. 
Do đặc điểm khác nhau về vị trí địa lý nên các 
bên liên quan đến quản lý bảo tồn tổng hợp tài 
nguyên RĐD cũng có sự khác nhau. Tương tự 
như KBTTN Mường Nhé, KBTTN Xuân Nha 
có đường biên giới chung với Trung Quốc và 
Lào thì vai trò của các đồn biên phòng nằm 
trong diện tích của KBT được xác định là quan 
trọng và có ý nghĩa. Là những điểm nóng về 
an ninh quốc gia và buôn bán ma túy, nên các 
đồn biên phòng thường được đặt ngay bên 
trong diện tích của KBT và dọc theo đường 
biên giới, việc tuần tra canh gác và kiểm soát 
chặt chẽ của biên phòng đã góp phần quan 
trọng trong phối hợp quản lý bảo vệ rừng và 
kiểm soát những tác nhân bên ngoài tác động 
vào rừng. Thực tế giữa ban quản lý các KBT 
và các đồn biên phòng đã có những hoạt động 
phối hợp chung với nhau và đã mang lại 
những hiệu quả lớn. 
Một số bên liên quan có ảnh hưởng ít nhiều 
đến công tác bảo vệ rừng đặc dụng như: các 
doanh nghiệp đóng trên địa bàn VQG/KBT, 
đặc biệt như ở VQG Hoàng Liên hiện có một 
số doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ 
nghệ, trồng và chế biến các loại thuốc nam, 
công ty du lịch... Đây là những doanh nghiệp 
thường sử dụng các sản phẩm tự nhiên từ 
rừng làm nguyên liệu đầu vào. Để hài hòa 
giữa sản xuất và bảo vệ rừng, nhiều doanh 
nghiệp đã có những cam kết với cơ quan 
quản lý khai thác sản phẩm bền vững, đảm 
bảo duy trì tính ĐDSH. Bên cạnh các doanh 
nghiệp này là việc xây dựng các thủy điện 
nhỏ trong các VQG/KBT, hiện nay chúng ta 
có quá nhiều những thủy điện lớn nhỏ khác 
nhau được xây dựng trên những diện tích 
rừng tự nhiên. Để xây dựng các thủy điện 
này, VQG/KBT đã phải chuyển nhiều diện 
tích rừng tự nhiên có giá trị ĐDSH cao sang 
đất xây dựng nhà máy, làm đường giao 
thông, lán trại... Việc xây dựng các thủy điện 
nhỏ cũng đã làm thay đổi hệ sinh thái tự 
nhiên vốn có của rừng, thay đổi môi trường 
sống của nhiều loài động vật hoang dã, nguy 
cơ tuyệt chủng hoặc là mất đi nguồn gen của 
nhiều loài thực vật quý hiếm. 
3.2. Đề xuất giải pháp tăng cường sự tham 
gia của các bên trong quản lý rừng đặc dụng 
Với khu vực Tây Bắc Việt Nam do đặc thù địa 
lý, nhân văn nên việc thực hiện cơ chế đồng 
quản lý với các bên liên quan quan trọng hơn 
bao giờ hết. Gắn trách nhiệm của người dân, 
của cộng đồng với việc bảo vệ rừng tự nhiên, 
giữ gìn chính lợi ích lâu dài của họ. Việc phối 
hợp giữa kiểm lâm với chính quyền địa 
phương, cộng đồng dân cư, công an, bộ đội 
biên phòng, tòa án và các tổ chức, doanh 
nghiệp kinh doanh lâm nghiệp trên địa bàn là 
thực sự cần thiết. 
Tạp chí KHLN 2015 Vũ Thị Bích Thuận, 2015(1) 
3726 
Để tăng cường cơ chế đồng quản lý RĐD giữa 
các bên liên quan cần có sự chia sẻ lợi ích và 
trách nhiệm một cách rõ ràng. Thực hiện chia 
sẻ lợi ích và trách nhiệm với các nguồn lợi 
trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc 
dụng được tiến hành dựa trên các đánh giá một 
cách khoa học, cụ thể với từng khu vực và 
từng đối tượng cụ thể. 
Khi tiếp cận xây dựng mô hình phối hợp quản 
lý RĐD giữa các bên liên quan cần có sự phân 
biệt đối với từng địa điểm cả về hình thức, nội 
dung tiếp cận. 
Việc xây dựng mô hình quản lý rừng đặc dụng 
có sự phối hợp của địa phương không nên chỉ 
tập trung vào công tác tuyên truyền, nâng cao 
nhận thức cho cộng đồng hay tăng cường việc 
thực thi pháp luật, mà còn phải cố gắng hướng 
đến các biện pháp lâu dài như tạo việc làm 
tăng thu nhập cho cộng đồng, khuyến khích 
phát triển các mô hình làm kinh tế, trồng cây 
đặc sản của vùng, phát huy thế mạnh, tiềm 
năng của địa phương. Đặc biệt, vấn đề sử dụng 
tài nguyên rừng cần được định hướng để tạo 
được lợi ích phù hợp với người dân và từ đó 
có được sự ủng hộ, tham gia của người dân. 
IV. KẾT LUẬN 
Quan điểm về bảo tồn ĐDSH trước đây đã bộc 
lộ nhiều bất cập, mối đe dọa từ bên ngoài đến 
tài nguyên rừng đặc dụng ngày càng nhiều, 
nguy cơ suy giảm diện tích, suy thoái ĐDSH 
ngày càng rõ. Từ thực tế đó cần phải có những 
thay đổi trong quan điểm bảo tồn, chuyển từ 
“bảo tồn nghiêm ngặt” sang “bảo tồn và phát 
triển”. Đánh giá vai trò của các bên liên quan 
trong quản lý rừng đặc dụng là một trong 
những nội dung quan trọng trong việc định 
hướng chiến lược về bảo tồn. Khi đánh giá 
một cách đúng đắn mức độ quan trọng của 
từng bên một, cơ quan quản lý sẽ có những 
cách tiếp cận và phối hợp một cách hiệu quả 
hơn. Tuy nhiên trong thực tế, khu vực Tây Bắc 
nói riêng, ở Việt Nam nói chung vai trò của 
Ban Quản lý VQG/KBT là trọng tâm. Cơ quan 
này giữ vai trò kết nối với các bên liên quan 
khác như chính quyền địa phương, cộng đồng 
dân cư hay công an, bộ đội... Một số cơ quan 
khác đóng vai trò hỗ trợ cho các hoạt động 
quản lý và hoạt động bảo tồn ở đây là các 
doanh nghiệp, tổ chức, các trung tâm khuyến 
nông, khuyến lâm... 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ NN và PTNT, 2013. Chiến lược quản lý hệ thống khu BTTN Việt Nam đến 2020, tầm nhìn đến 2030. 
2. Bộ NN và PTNT, 2013. Báo cáo rà soát các biện pháp khuyến khích và đánh giá hiện trạng cơ chế khuyến khích 
trong hệ thống KBT ở Việt Nam (Hợp phần Bộ NN và PTNT). 
3. Cao Thị Lý, 2008. Nghiên cứu về bảo tồn đa dạng sinh học: Những vấn đề liên quan đến quản lý tổng hợp tài 
nguyên rừng ở một số khu bảo tồn thiên nhiên vùng Tây Nguyên, Luận án Tiến sĩ nông nghiệp, Viện Khoa học 
Lâm nghiệp Việt Nam. 
4. Hoàng Đình Quang, 2011. Những vấn đề quản lý rừng đặc dụng ở Việt nam, Tạp chí Rừng & Môi Trường, 
Trung ương hội khoa học kỹ thuật Việt Nam số 43/2011 chuyên đề Môi trường. 
5. Khu Bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé, 2013. Báo cáo tổng kết công tác bảo vệ và phát triển rừng năm 2013. 
6. Khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha, 2013. Báo cáo tổng kết công tác bảo vệ và phát triển rừng năm 2013. 
7. Nghị định số 117/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng. 
8. Võ Quý, 2012. Đa dạng sinh học ở Miền núi Việt Nam: Thực trạng và những vấn đề đặt ra Web. 
https://miennui.wordpress.com/2012/04/02 ngày đăng 02 tháng 4 năm 2012. 
9. Vườn Quốc gia Hoàng Liên, 2013. Báo cáo tổng kết công tác bảo vệ và phát triển rừng năm. 
Người thẩm định: GS.TS. Võ Đại Hải 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_su_tham_gia_cua_cac_ben_lien_quan_trong_quan_ly_run.pdf