Đánh giá rối loạn nhịp tim (rLNT) trung hạn sau bít thông liên thất (TLT) bằng dụng cụ qua da ở bệnh nhân thông liên thất trên 6 tuổi

Mục tiêu: Bước đầu đánh giá hiệu quả của phương pháp bít TLT bằng dù qua da, tìm hiểu RLNT sau bí dù và các yếu tố ảnh hưởng.

 Phương pháp và kết quả: Tiến hành hồi cứu, tiến cứu theo dõi dọc trên 26 bệnh nhân (11 nam và 15 nữ) sau bít thành công TLT bằng dụng cụ qua da, trong đó có 2(7,7%) TLT phần cơ, và 24(92,3%) TLT phần màng. 4 bệnh nhân (15,4%) được sử dụng dụng cụ Coil Pfm và 22 bệnh nhân (84,5%) sử dụng dụng cụ bít CÔĐM. Thời gian theo dõi 6 tháng. Các biến chứng: tử vong 0 trường hợp, tan máu không cần truyền máu 1 trường hợp, tắc mạch và Osler 1 trường hợp. RLNT nhận thấy ở 4 trường hợp (15,4%) 1 BAV3, tất cả đều tự hồi phục và không cần đặt máy tạo nhịp. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến RLNT nhân thấy kích thước dụng cụ quá so với quy định là một yếu tố ảnh hưởng.

Kết luận: Đóng TLT bằng dụng cụ bít CÔĐM bước đầu cho kết quả đáng khích lệ về hiệu quả mức độ an toàn của nó, làm giảm nguy cơ RLNT đặc biệt là BAV3. tuy nhiên cần phải mở rộng nghiên cứu để khẳng định lợi ích của việc sử dụng dụng cụ này

pdf 7 trang phuongnguyen 480
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá rối loạn nhịp tim (rLNT) trung hạn sau bít thông liên thất (TLT) bằng dụng cụ qua da ở bệnh nhân thông liên thất trên 6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá rối loạn nhịp tim (rLNT) trung hạn sau bít thông liên thất (TLT) bằng dụng cụ qua da ở bệnh nhân thông liên thất trên 6 tuổi

Đánh giá rối loạn nhịp tim (rLNT) trung hạn sau bít thông liên thất (TLT) bằng dụng cụ qua da ở bệnh nhân thông liên thất trên 6 tuổi
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201334
y NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Tóm TắT
Mục tiêu: Bước đầu đánh giá hiệu quả của 
phương pháp bít TLT bằng dù qua da, tìm hiểu 
RLNT sau bí dù và các yếu tố ảnh hưởng.
Phương pháp và kết quả: Tiến hành hồi 
cứu, tiến cứu theo dõi dọc trên 26 bệnh nhân 
(11 nam và 15 nữ) sau bít thành công TLT bằng 
dụng cụ qua da, trong đó có 2(7,7%) TLT phần 
cơ, và 24(92,3%) TLT phần màng. 4 bệnh nhân 
(15,4%) được sử dụng dụng cụ Coil Pfm và 22 
bệnh nhân (84,5%) sử dụng dụng cụ bít CÔĐM. 
Thời gian theo dõi 6 tháng. Các biến chứng: tử 
vong 0 trường hợp, tan máu không cần truyền 
máu 1 trường hợp, tắc mạch và Osler 1 trường 
hợp. RLNT nhận thấy ở 4 trường hợp (15,4%) 
1 BAV3, tất cả đều tự hồi phục và không cần đặt 
máy tạo nhịp. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng 
đến RLNT nhân thấy kích thước dụng cụ quá so 
với quy định là một yếu tố ảnh hưởng.
Kết luận: Đóng TLT bằng dụng cụ bít 
CÔĐM bước đầu cho kết quả đáng khích lệ về 
hiệu quả mức độ an toàn của nó, làm giảm nguy 
cơ RLNT đặc biệt là BAV3. tuy nhiên cần phải 
mở rộng nghiên cứu để khẳng định lợi ích của 
việc sử dụng dụng cụ này.
ĐặT vấn Đề: 
TLT là bệnh tim bẩm sinh hay gặp nhất 
sau dị tật bẩm sinh ở van ĐMC, chiếm khoảng 
25% các bệnh tim bẩm sinh. TLT lỗ nhỏ rất 
hay gặp, thường dung nạp rất tốt, và có khả 
năng tự đóng cao. Tỷ lệ tự đóng lại của các 
trường hợp TLT lỗ nhỏ ở trẻ em lên tới 75%. 
Ngược lại TLT lỗ lớn nếu không được phát 
hiện và điều trị kịp thời sẽ tiến triển thành 
TALĐMP với các mức độ khác nhau, gây ảnh 
hưởng đến chất lượng cuộc sống. Điều trị 
TLT tốt nhất là ở giai đoạn chưa có TALĐMP 
bằng cách đóng lại lỗ TLT để lập lại tuần hoàn 
bình thường cho cơ thể bằng 2 phương pháp: 
Phẫu thuật với tuần hoàn ngoài cơ thể và bít 
lỗ TLT qua da. Phương pháp bít TLT qua da 
lần đầu tiên được Lock và cộng sự thực hiện 
năm 1988. Phương pháp này có nhiều tiến bộ 
về kỹ thuật cũng như dụng cụ can thiệp, nó 
dần thay thế phương pháp mổ mở kinh điển 
vì những ưu điểm nổi bật: Tỷ lệ bít được lỗ 
thông tương đương, tỷ lệ biến chứng thấp hơn 
và nhẹ hơn, số ngày nằm viện ngắn hơn, đảm 
bảo thẩm mỹ do tránh được sẹo mổ. Tuy nhiên 
phương pháp bít TLT qua da bằng các loại 
Đánh giá rối loạn nhịp tim (rLNT) trung hạn sau 
bít thông liên thất (TLT) bằng dụng cụ qua da ở 
bệnh nhân thông liên thất trên 6 tuổi.
Nguyễn Lân Hiếu, Vũ Thị Trang và cộng sự
Trường Đại Học Y Hà Nội
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 35
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG x
dụng cụ kinh điển đang được thực hiện trên 
thế giới vẫn còn tồn tại hai vấn đề lớn là chi 
phí điều trị cao và biến chứng BAV3 sau can 
thiệp. Tham vọng tìm ra một loại dụng cụ mới 
vừa có tính tương hợp về mặt sinh học với cơ 
thể người bệnh, vừa có khả năng bít hiệu quả 
lỗ TLT, giảm thiểu được nguy cơ rối loạn nhịp 
tim, vừa hạ được chi phí điều trị hiện là hướng 
nghiên cứu đang được quan tâm nhất.Viện 
Tim mạch Việt Nam là một trong những trung 
tâm can thiệp tim mạch đầu tiên trên thế giới 
sử dụng dụng cụ đóng CÔĐM qua da để bít 
TLT, với mong muốn góp phần giải quyết hai 
vấn đề trên. Kỹ thuật này mới được áp dụng 
lần đầu tiên trong khoảng thời gian chưa lâu, 
hiện tại chưa có đề tài nào trong nước nghiên 
cứu về tính khả thi, độ an toàn, cũng như theo 
dõi kết quả ngắn hạn và trung hạn của phương 
pháp này, đồng thời so sánh với việc sử dụng 
các dụng cụ kinh điển.Vì vậy chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này với 2 mục tiêu: đánh giá 
hiệu quả và mức độ an toàn của phương pháp; 
tỷ lệ rối loạn nhịp tim trung hạn và các yếu tố 
ảnh hưởng.
Đối Tượng và phương pháp nghiên cứu:
1. Đối tượng:
26 bệnh nhân được lựa chọn tại Viện Tim 
Hà Nội và Viện Tim mạch Việt Nam với tiêu 
chuẩn lựa chọn: trên 6 tuổi; được chẩn đoán 
xác định TLT, bít thành công bằng dụng cụ qua 
da; có khả năng theo dõi sau 6 tháng. Và tiêu 
chuẩn loại trừ: bệnh nhân được chuẩn đoán 
TLT nhưng lỗ thông không thích hợp cho việc 
can thiệp bằng dụng cụ; bệnh nhân không có 
khả năng theo dõi sau 6 tháng.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu được thực hiện theo phương 
pháp hồi cứu và tiến cứu, theo dõi dọc. Tất cả 
các bệnh nhân ≥ 6 tuổi đáp ứng các tiêu chuẩn 
trên được lấy vào nghiên cứu theo trình tự thời 
gian, không phân biệt các thông số về địa dư, 
giới...Tất cả các bệnh nhân đều được khám lâm 
sàng đầy đủ, làm điện tâm đồ, X quang, siêu âm 
tim trước can thiệp, sau can thiệp được theo dõi 
bằng siêu âm tim, ĐTĐ vào tháng thứ 1, 3, 6, 
holter ĐTĐ được làm ở bất kì thời điểm nào khi 
bệnh nhân có nghi ngờ rối loạn nhịp tim (lâm 
sàng, ĐTĐ) và được làm định kì cho bệnh nhân 
vào tháng thứ 6
3. Thu thập số liệu:
Số liệu được lấy trực tiếp tại khoa C4, C6 
Viện Tim mạch Việt Nam, đơn vị tim mạch can 
thiệp Bệnh viện Tim Hà Nội, kho lưu trữ Viện 
Tim mạch Việt Nam và Bệnh viện Tim Hà Nội, 
và trong quá trình bệnh nhân đến theo dõi. Các 
dữ liệu được thu thập bao gồm: tuổi, giới, chiều 
cao, cân nặng, số ngày nằm viện điều trị, triệu 
chứng cơ năng, thực thể của bệnh nhân trước 
khi can thiệp, các số liệu về siêu âm tim (kích 
thước, vị trí TLT, liên quan với các van tim, các 
tổn thương phối hợp...), Xquang (chỉ số tim 
ngực, tình trạng tưới máu phổi), Điện tâm đồ: 
có rối loạn nhịp tim hay không, loại gì? Các số 
liệu trước, trong và sau khi can thiệp: loại dụng 
cụ, kích thước, shunt tồn lưu, biến chứng sớm 
và muộn.
Biến chứng sớm được định nghĩa là biến 
chứng xảy ra trong vòng tháng đầu sau khi can 
thiệp. Biến chứng nặng là loại biến chứng đe 
dọa đến tính mạng của bệnh nhân, để lại di 
chứng kéo dài, yêu cầu phải phẫu thuật ngay lập 
tức, hoặc phải điều trị trong khoảng thời gian 
hơn 6 tháng. Nó bao gồm: tử vong, tan máu yêu 
cầu phải truyền máu, dụng cụ không đúng vị trí, 
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201336
y NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
rối loạn nhịp tim đòi hỏi phải cấy máy tạo nhịp, 
hoặc phải điều trị kéo dài hơn 6 tháng, viêm 
nội tâm mạc nhiễm khuẩn, tắc mạch phải phẫu 
thuật. Các biến chứng còn lại được coi là biến 
chứng nhẹ.
Mức độ shunt tồn lưu được xác định bằng 
siêu âm tim. Không còn nếu không có dòng chảy 
qua vách liên thất, không đáng kể nếu đường 
kính này <1mm. 1-2mm: mức độ nhỏ. 2-4mm 
mức độ trung bình, >4mm là mức độ nặng.
3. Phân tích thống kê: 
Các số liệu được thể hiện dưới dạng % nếu là 
biến định tính, dạng trung bình ± độ lệch chuẩn 
nếu là biến định lượng. và được phân tích bằng 
SPSS 17.0. các số liệu được coi là có ý nghĩa 
thống kê khi P <0,05.
KếT quả:
Có 26 bệnh nhân 11 nam (42,3%) và 15 
nữ (72,7%) được bít thành công bằng dụng cụ 
với đặc điểm chung: Tuổi: 18,8 ± 8,6 (7 - 42) 
(tuổi); Cân nặng: 43,1 ± 8,3 (28,0 - 53,5) (kg); 
Kích thước lỗ thông: siêu âm: 5,1 ± 1,7 thông 
tim 4,8 ± 2.0 (mm); Phình vách màng: 9 bệnh 
nhân (37,5%); Gờ động mạch chủ (ĐMC): 4,4 
± 1,2 (2,5 - 7,0)mm; Tỷ lệ kt dụng cụ/ kt TLT: 
Thất trái:174 ± 38; Thất phải: 165 ± 36%.
1. Kết quả can thiệp:
Tất cả 26 bệnh nhân của chúng tôi đều 
được bít thành công bằng dụng cụ 4 bệnh nhân 
(15,4%) được sử dụng dụng cụ Coil Pfm, 22 
(84,6%) sử dụng cụ bít còn ống động mạch 
(CÔĐM) với kích thước dụng cụ đầu nhỏ 
lớn nhất là 14mm và nhỏ nhất là 4mm. Tỷ lệ 
kích thước dụng cụ đầu nhỏ/ kích thước TLT 
phía thất phải trung bình là 171% ở dụng cụ bít 
CÔĐM và 143% với dụng cụ Coil pfm.
Tỷ lệ shunt tồn lưu:
Sau can thiệp 24h: 10 bệnh nhân (38,5%) 
có shunt tồn lưu. Trong đó có 2 bệnh nhân có 
shunt tồn lưu mức độ vừa, 8 bệnh nhân shunt 
tồn lưu mức độ nhỏ. Tỷ lệ shunt tồn lưu này 
giảm dần theo thời gian trong quá trình theo 
dõi: sau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng lần lượt là: 
4/19 (21,1%), 3/16 (18,75) và 2/24 (8,3%).
Biến chứng: có 4 (15,4%) trường hợp biến 
chứng sớm và 2 (7,7%) trường hợp biến chứng 
muộn.
Biến chứng sớm: RLNT: 3 (11,5%) bệnh 
nhân trong đó 1 bệnh nhân nhịp bộ nối, 1 bệnh 
nhân BAV3; 1 bệnh nhân rung nhĩ; Tan máu: 
1 (3,8%) bệnh nhân có biểu hiện đái máu hồi 
phục dần sau 5 ngày dùng corticoid, truyền 
dịch.
Biến chứng muộn: Rối loạn nhịp tim ghi 
nhận được trên Holter 1 (3,8%) bệnh nhân là 
BAV2 3/1 hoặc 4/1 xuất hiện lẻ tẻ trong ngày. 
Biến chứng khác có 1 (3,8%) bệnh nhân: Tắc 
động mạch chi dưới cấp tính xuất hiện vào 
tháng thứ 3 sau bít sau khi bệnh nhân tự dừng 
thuốc chống đông 2 ngày. Cũng trên bệnh nhân 
này phát hiện Osler 3 tháng sau khi mổ cấp cứu 
tắc động mạch chi.
2. Rối loạn nhịp tim: 
Chúng tôi ghi nhận được RLNT trong 
4(15,4%) trường hợp trong đó có 3 trường hợp 
RLNT sớm và 1 trường hợp RLNT muộn:
Bệnh nhân 1: Nữ, 23 tuổi có nhịp bộ nối 
bắt gặp trên ĐTĐ sau 24h, không có triệu 
chứng lâm sàng, hồi phục nhịp xoang ngay 
trong 24h và cho đeo Holter 24 h kiểm tra lại, 
kết quả Holter không phát hiện RLNT.
Bệnh nhân 2: Nữ, 17 tuổi bắt gặp cơn rung 
nhĩ nhanh trong khi làm siêu âm kiểm tra lại sau 
24h, không có triệu chứng lâm sàng, ĐTĐ ngay 
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 37
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG x
sau đó,và đeo Holter ĐTĐ kết quả trong giới 
hạn bình thường, không bắt gặp cơn rung nhĩ 
nhanh.
Bệnh nhân 3: Nam, 31 tuổi, phát hiện 
BAV3 kèm theo nhịp nhanh thất do làm ĐTĐ 
khi có triệu chứng đau ngực hồi hộp đánh 
trống ngực sau bít TLT 5 ngày, không có cơn 
ngất, thỉu. Bệnh nhân được nhập viện điều trị 
corticoid hồi phục nhịp xoang sau đó 1 tuần. 
Kiểm tra Holter ĐTĐ 24h ngay sau khi hồi phục 
nhịp xoang 2 ngày. Kết quả Holter bình thường. 
Bệnh nhân không có triệu chứng của RLNT 
trong thời gian theo dõi. Các kết quả kiểm tra 
ĐTĐ trong tháng thứ 2 và thứ 3, Holter tháng 
thứ 6 sau bít đều là nhịp xoang.
 Bệnh nhân 4: Nữ 17 tuổi không có triệu 
chứng lâm sàng, ĐTĐ bề mặt bình thường, chỉ 
phát hiện ra BAV2 kiểu 3/1 hoặc 4/1 lẻ tẻ trong 
ngày, chủ yếu về đêm. 
Khi phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới 
RLNT chúng tôi nhận thấy: Không có sự khác 
biệt về tuổi, cân nặng, kích thước TLT, tỷ lệ kích 
thước dụng cụ/ kích thước TLT về phía thất 
trái, ALĐMP, gờ ĐMC, vị trí TLT, loại dụng cụ, 
giới, có kèm phình vách màng giữa hai nhóm 
bệnh nhân có rối loạn nhịp tim và không có rối 
loạn nhịp tim. Tỷ lệ kích thước dụng cụ so với 
kích thước TLT về phía thất phải trên thông 
tim ở nhóm bệnh nhân có RLNT lớn hơn một 
cách có ý nghĩa thống kê so với nhóm không có 
rối loạn với P = 0,02. 
Bàn luận: 
26 bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu 
của chúng tôi được sử dụng chủ yếu dụng cụ 
bít CÔĐM với việc lựa chọn kích thước dụng 
cụ dựa trên 2 tiêu chí: Đường kính chỗ nhỏ 
nhất của lỗ thông (thường ở bên thất phải) 
và khoảng cách từ lỗ TLT đến van ĐMC (gờ 
ĐMC).Trong trường hợp khoảng cách từ lỗ 
thông đến ĐMC >2mm, chúng tôi lựa chọn 
dụng cụ có kích thước đầu gần gấp đôi kích 
thước nhỏ nhất của lỗ TLT.Trường hợp khác 
khoảng cách từ lỗ thông đến ĐMC <2mm, 
dụng cụ được lựa chọn sẽ nhỏ hơn tiêu chuẩn ở 
trên để tránh dụng cụ chạm vào van ĐMC, tuy 
nhiên hiệu quả bít TLT không được tốt.
Coil được sử dụng cho 4 bệnh nhân trong 
nhóm nghiên cứu đều có kích thước TLT đo 
được trên thông tim ≤ 4mm. Sự lựa chọn kích 
thước dụng cụ giống với các tác giả trên thế giới.
Việc sử dụng chủ yếu dụng cụ bít CÔĐM 
của chúng tôi tỏ ra có hiệu quả và an toàn hơn 
so với phương pháp phẫu thuật và hơn hoặc 
ngang bằng so với các tác giả khác trên thế giới 
khi sử dụng các loại dụng cụ khác:
1. Về hiệu quả:
Tỷ lệ shunt tồn lưu của chúng tôi nhỏ hơn 
hẳn so với tác giả [1] sử dụng dụng cụ Coil (P 
<0,05). Ngay trong nhóm bệnh nhân nghiên 
cứu của chúng tôi cũng có sự khác biệt tỷ lệ 
shunt tồn lưu của 2 loại dụng cụ này. Tỷ lệ shunt 
tồn lưu đối với bệnh nhân sử dụng dụng cụ Coil 
của chúng tôi lần lượt là 3/4, 2/4, 2/4 và 1/4 
(sau 1 ngày, sau 1 tháng, sau 3 tháng và sau 6 
tháng). Không có sự khác biệt về tỷ lệ shunt tồn 
lưu của bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu của 
chúng tôi so với kết quả [7] (sử dụng dụng cụ 
PMVSD-O và MVSD-O).
Phương pháp sử dụng dụng cụ bít CÔĐM 
tỏ ra có hiệu quả cho việc bít kín TLT hơn việc 
sử dụng dụng cụ khác đặc biệt là dụng cụ Coil.
2. Về mức độ an toàn:
 Tỷ lệ các loại biến chứng và tỷ lệ tử vong 
ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi ở 
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201338
y NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
mức trung gian so với [3],[4],[6],[8] cũng bít 
TLT bằng dụng cụ qua da, tuy nhiên các loại 
biến chứng của nhóm bệnh nhân của chúng 
tôi thường ở mức độ nhẹ hơn. Không có dụng 
cụ không đúng vị trí, tan máu chỉ thoáng qua 
không phải truyền máu, các biến chứng RLNT 
không cần đặt máy tạo nhịp và đặc biệt không 
có bệnh nhân tử vong. So với [5] (phương pháp 
phẫu thuật) tỷ lệ tử vong của chúng tôi nhỏ hơn 
có ý nghĩa thống kê với P < 0,05.
Phương pháp sử dụng dụng cụ bít CÔĐM 
cho việc bít TLT ở nhóm bệnh nhân nghiên 
cứu của chúng tôi tỏ ra an toàn hơn hoặc bằng 
so với việc sử dụng dụng cụ khác, và an toàn 
hơn phương pháp mổ mở.
Rối loạn nhịp tim: Tỷ lệ RLNT sớm ở nhóm 
bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi cao hơn 
so với [3],[4],[6]. Tuy nhiên RLNT ở nhóm 
bệnh nhân của chúng tôi đa số là thoáng qua, 
tỷ lệ BAV3 gặp thấp hơn và đặc biệt không phải 
đặt máy tạo nhịp. Tỷ lệ RLNT muộn thấp hơn 
so với [3],[7], [5](phẫu thuật) và đặc biệt là 
không gặp BAV3, không cần điều trị gì, hay cấy 
máy tạo nhịp cho bệnh nhân.
Các yếu tố ảnh hưởng tới rối loạn nhịp tim.
Theo nghiên cứu [3], [4] tuổi, cân nặng có 
ảnh hưởng đến RLNT. Nghiên cứu của chúng 
tôi không ghi nhận sự ảnh hưởng này. Điều này 
có thể giải thích do đối tượng nghiên cứu của 
chúng tôi là bệnh nhân ≥ 6 tuổi, trong khi các 
tác giả khác ghi nhận RLNT đặc biệt là BAV3 
hay xảy ra hơn ở bệnh nhân nhỏ hơn 6 tuổi.
Tất cả những bệnh nhân bị RLNT của 
chúng tôi đều là TLT phần quanh màng, và 
được bít bằng dụng cụ bít CÔĐM. Tuy nhiên 
do cỡ mẫu nhỏ khó có thể đánh giá sự liên quan 
giữa vị trí, và loại dụng cụ với RLNT.Tuy nhiên, 
theo[3],[4],[6] ghi nhận BAV3 hay gặp ngay 
sau bít dù TLT phần màng hơn so với phần 
cơ. Điều này có thể giải thích do nút nhĩ thất 
nằm ngay phía trên lỗ TLT phần quanh màng, 
khả năng khi đưa dụng cụ vào chèn vào nút nhĩ 
thất làm đứt đường dẫn truyền cao hơn, làm 
xuất hiện BAV3. Tuy nhiên theo [6], về lâu dài, 
không có sự khác biệt về tỷ lệ rối loạn nhịp tim 
trên những nhóm bệnh nhân có vị trí TLT khác 
nhau.
Các yếu tố ảnh hưởng đến RLNT ở nhóm 
bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi và của một 
số tác giả khác.
Tên tác giả Các yếu tố ảnh hưởng Các yếu tố không ảnh hưởng N
Gianfranco Butera 
(2006)
[3]
Vị trí TLT (P=0,02)
Tuổi (P=0,033; r=0,62)
Tỷ lệ ktdc/kttlt (P = 0,9)
Phình vách màng (P = 0,9)
88
Gianfranco Butera 
(2007)
[4]
Tuổi ( P<0,0001) (r=0,25 , P=0,028
Cân nặng(P<0.0001)
Tỷ lệ ktdc/cân nặng (P=0,03)
Tỷ lệ ktdc/kttlt (P=0,9)
Phình vách màng (p=0,98)
104
Mario Carminati[6] Loại dụng cụ (P=0,03)
Vị trí TLT (P=0,05)
410
Chúng tôi Ktdc/kttlt phía thất phải (P=0,022) Gờ ĐMC, ALĐMP, Kt TLT, Tuổi, 
Cân nặng, ktdc/kttlt phía thất trái, 
giới, Phình vách màng.
26
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 39
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG x
Không có sự ảnh hưởng của các loại biến 
chứng khác lên RLNT.
Tỷ lệ kích thước dụng cụ đầu gần trên kích 
thước lỗ TLT về phía thất phải trên thông tim 
của bệnh nhân có RLNT trong nhóm nghiên 
cứu của chúng tôi cao hơn so với nhóm không 
có RLNT có ý nghĩa thống kê với P = 0,022. 
Ở nhóm bệnh nhân có RLNT tỷ lệ này là 241 
± 43% cao hơn tiêu chí lựa chọn dụng cụ của 
chúng tôi (tỷ lệ này không được vượt quá 
200%), thậm chí ở bệnh nhân có biến chứng 
BAV3 sau 5 ngày điều trị tỷ lệ này là 300%. Xảy 
ra BAV3 ở bệnh nhân này được giải thích do sự 
nở ra của dụng cụ về hình dạng kích thước ban 
đầu làm chèn vào nút nhĩ - thất ngay trên đó.
Như vậy chọn dụng cụ (loại dụng cụ, kích 
thước dụng cụ) một cách hợp lý sẽ hạn chế 
được phần nào RLNT xảy ra, đồng thời sẽ nâng 
cao mức độ an toàn của phương pháp bít TLT 
bằng dụng cụ qua da.
KếT luận
Nghiên cứu của chúng tôi bước đầu cho 
thấy việc sử dụng dụng cụ bít CÔĐM cho bít 
TLT tỏ ra có hiệu quả và mức độ an toàn hơn 
so với sử dụng các loại dụng cụ và phương pháp 
phẫu thuật. Đặc biệt là trong việc làm giảm 
những RLNT nguy hiểm, giảm BAV3, giảm tỷ 
lệ phải đặt máy tạo nhịp. Tuy nhiên muốn khẳng 
định được chính xác hiệu quả của phương pháp 
này cần tiến hành trên mẫu bệnh nhân lớn hơn, 
thời gian nghiên cứu dài hơn, và trên cả trẻ em 
dưới 6 tuổi. 
ABSTrACT:
Aim: To initially evaluate the effectiveness of the method of transcatheter closure ventricular 
septal defect percutanous, the rate of arrhythmia after this method and the influencing factors.  
Methods and results: Retrospective, prospective, follow-up with 26 patients (11 male and 15 
female) after transclosure ventricular septal defect percutanous succesfuly , 2 (7.7%) VSD muscular, 
and 24 (92.3%) VSD perimembranous.  4 patients (15.4%) used Coil pfm and 22 patients (84.5%) 
used transcatheter closure of PDA devices.  Follow - up: 6 months. Patient mean age was 18,8 years 
(range, 7 years to 42 years), and mean weight was 43 kg (range, 28 to 53,5 kg). The VSD mean size 
was 7 mm (range, 4 to 16 mm),  Complications: no deaths occured, one case haemolysis without a 
blood transfusion,one patient: thrombolysis needing surgery vascula and Osler. Arrhythmia in 4 cases 
(15.4%): CVAB was transient in one patient. Analysis: one rick factors is found: overside of the divices.  
Conclusion: transcatheter closure ventricular septal defect percutanous used transcatheter closure of PDA 
devices initially encouraging results on the effectiveness of its safety level, reduce the risk of especially 
CAVB. However need to expand research to confirm the benefits of using this device. 
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201340
y NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Quang Bình, Lê Trọng Phi, Đỗ Nguyên Tín, Bùi Thị Xuân Nga, Vũ Hoàng Vũ (2010): “Hiệu 
quả bước đầu của thông tim can thiệp TLT tại Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh”
2. Nguyễn Lân Việt (2007): Thực hành bệnh Tim mạch, Nhà xuất bản Y học: trang 561-570.
3. Gianfranco Butera, Mario Carminati, Massimo Chessa, Luciane Piazza, Angelo Micheletti, Diana 
Gabriella Negura, Raul Abella, Alessandro Giamberti, Alessandro Frigiola (2007): “Transcatheter 
Closure of Perimembranous Ventricular Septal Defects”.
 4. Gianfranco Butera,  Mario Carminati, Massimo Chessa, Luciane Piazza, Raul Abella, Alessandro 
Giamberti, Diana Gabriella Negura, Bussadori Claudio, Angelo Micheletti, Youssef Tamman, and 
Alessandro Frigiola (2006): “Percutanous closure of ventricular septal defects in childrend aged <12: early 
and Mid-term results”.
5. Henrik Anderson, Marc R. de Leval, Victor T. Tsang, Martin J. Elliot, Robert H. Anderson, 
Andrew C. Cook: “Is complete Heart Block after surgical closure of ventricular septal defect still an issue”. Ann 
Thorac Surg (2006), 82, Page 945- 957.
 6. Mario Carminati, Gianfranco Butera, Massimo Chessa, Joseph De Giovanni, Gunter Fisher, Marc 
Gewillig,  Mathias Peuster,  Jean Francois Piechaud,  Giuseppe Santoro,  Horst Sievert,  Isabella 
Spadoni, Kevin Walsh (2007): “Transcatheter closure of congenital ventricular septal defects: results of the 
European Registry”.
  7. Yun-Ching Fu, John Bass, Zahid Amin, Wolfgang Radtke, John P. Cheatham, William E. 
Hellenbrand, David Balzer, Qi-Ling Cao, Ziyad M.  Hijazi (2006):    “Transcatheter  Closure  of 
Perimembranous Ventricular Septal Defects Using the New Amplatzer Membranous VSD Occluder”.
8. Zhong-Dong Du, Ziyad M Hijazi (2001): “Transcatheter Closure of Ventricular Septal Defect”.
9. Zhonghua Er Ke Za Zhi (2005):  “Rick factors for arrhythmia early atter transcatheter closure of 
perimembranous ventricular septal defects”.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_roi_loan_nhip_tim_rlnt_trung_han_sau_bit_thong_lien.pdf