Đánh giá kiến thức, thực hành tiêm insulin của người bệnh đái tháo đường điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 105

bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) nhằm đánh

giá tỷ lệ bệnh nhân (BN) có kiến thức, thực

hành đúng về sử dụng insulin. Bệnh nhân

được phỏng vấn bằng một bộ câu hỏi để khai

thác các đặc điểm về nhân khẩu học, thời

gian mắc bệnh, thời gian tiêm insulin, đặc

điểm sử dụng thuốc tiêm, kiến thức sử dụng

insulin, đánh giá thực hành tiêm insulin trên

mô hình.

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kiến thức, thực hành tiêm insulin của người bệnh đái tháo đường điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kiến thức, thực hành tiêm insulin của người bệnh đái tháo đường điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Đánh giá kiến thức, thực hành tiêm insulin của người bệnh đái tháo đường điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
36 
ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC, THỰC HÀNH TIÊM INSULIN CỦA NGƯỜI BỆNH 
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI 
Vũ Thùy Linh, Vũ Bích Nga, Trịnh Thị Hằng 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
DOI: 10.47122/vjde.2020.41.5 
ABSTRACT 
Assessment of knowledge, practice on 
using insulin in diabetes patients at 
Hanoi Medical University Hospital 
The cross - sectionalstudy was carried out 
on patients diagnosed with diabetes to assess 
ratio of patient with true knowledge and 
practice on using insulin. Patients were 
interviewed by questionnaire to research 
characteristics about demographic, duration 
of diabetes, duration of using insulin, type of 
insulin, their knowledge of using insulin. 
Patients practice insulin technique on a 
paradigm and be assessed by a checklist. 
Results: The average age was 60,9 ± 12,7, 
male/female ratio = 1,1:1, livingareas in 
urban (62,9%), majority is type 2 diabetes 
(88,6%), diabestes with more 10 years was 
57,1%, duration of using insulin was 61,9%. 
Insulin injection form 51,4% insulin pen, 
48.6% syringe. In the patientgroup injected 
insulin with a syringe, the percentage of 
patients with good knowledge is 23.5%; 
correct practice insulin injection (51,0%). For 
the group of patients injecting insulin with a 
pen, the rates were 33.3% and 75.9%. 
Conclusion: The percentage of patients with 
correct knowledge of insulin is still low. 
There is a difference in the proportion of 
patients with correct injection practices 
between the two groups injecting with 
syringes and pens. There is a relationship 
between knowledge and practice of insulin 
injection. Patients should be guided to 
increase knowledge and practice in insulin 
use. 
* Keywords: insulin, knowledge, practice, 
diabetes 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 105 
bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) nhằm đánh 
giá tỷ lệ bệnh nhân (BN) có kiến thức, thực 
hành đúng về sử dụng insulin. Bệnh nhân 
được phỏng vấn bằng một bộ câu hỏi để khai 
thác các đặc điểm về nhân khẩu học, thời 
gian mắc bệnh, thời gian tiêm insulin, đặc 
điểm sử dụng thuốc tiêm, kiến thức sử dụng 
insulin, đánh giá thực hành tiêm insulin trên 
mô hình. Kết quả: Tuổi trung bình 60,9 ± 
12,7, tỷ lệ nam/nữ: 1,1:1, khu vực sống: ở 
thành phố (62,9%), chủ yếu là bệnh nhân 
ĐTĐ typ 2 (88,6%), thời gian mắc bệnh > 10 
năm (57,1%), thời gian tiêm insulin dưới 3 
năm (61,9%). Dạng thuốc tiêm 51,4% sử 
dụng bút tiêm, 48,6% sử dụng bơm tiêm. 
Với nhóm bệnh nhân tiêm insulin bằng bơm 
tiêm, tỷ lệ bệnh nhân trả lời đúng trên 50% 
câu hỏi đánh giá kiến thức là 23,5%; thực 
hành tiêm insulin bằng bơm tiêm đúng được 
các thao tác quan trọng(51,0%). Với nhóm 
bệnh nhân tiêm insulin bằng bút tiêm, tỷ lệ 
này lần lượt là 33,3% và 75,9%. Kết luận: 
Tỷ lệ BN có kiến thức đúng về insulin còn 
thấp, có sự khác biệt về tỷ lệ bệnh nhân thực 
hành tiêm đúng giữa 2 nhóm tiêm bằng bơm 
tiêm và bút tiêm. Có mối liên quan giữa kiến 
thức và thực hành tiêm insulin. Bệnh nhân 
cần phải hướng dẫn thường xuyên hơn để bổ 
sung những thiếu hụt về kiến thức và thực 
hành tiêm insulin tốt hơn. 
* Từ khóa: insulin, kiến thức, thực hành, 
đái tháo đường 
Chịu trách nhiệm chính: Vũ Bích Nga 
Ngày nhận bài: 15/8/2020 
Ngày phản biện khoa học: 11/9/2020 
Ngày duyệt bài: 10/10/2020 
Email: [email protected] 
Điện thoại: 0913544622 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
37 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những 
bệnh lý không lây nhiễm phổ biến nhất trên 
thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo thông 
báo mới nhất của Liên đoàn Đái tháo đường 
thế giới (IDF), năm 2017 toàn thế giới có 
424,9 triệu người bị bệnh ĐTĐ (ở độ tuổi từ 
20 -79). Ở Việt Nam, năm 2017 con số người 
mắc ĐTĐ là 3,5 triệu người. Bệnh ĐTĐ gây 
ra nhiều biến chứng, là nguyên nhân hàng đầu 
gây bệnh tim mạch, mù lòa, suy thận, và cắt 
cụt chi[1]. Để điều trị ĐTĐ hiệu quả cần có 
sự kết hợp giữa điều trị thuốc, chế độ ăn uống 
và luyện tập hợp lý. Bên cạnh việc sử dụng 
thuốc uống, một số lượng lớn bệnh nhân cần 
phải tiêm insulin để kiểm soát đường huyết 
hiệu quả. 
Trên thực tế, nhiều bệnh nhân đến khám 
ĐTĐ tại bệnh viện đang sử dụng insulin 
không đúng cách dẫn đến những biến chứng 
như hạ glucose máu và các biến chứng tại chỗ 
tiêm, hoặc kiểm soát đường huyết kém. Vì 
vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu sự thiếu hụt về 
kiến thức để đào tạo cho người bệnh về việc 
sử dụng insulin là rất quan trọng. Xuất phát từ 
thực tế trên, chúng tôi thực hiện đề tài: 
“Đánh giá kiến thức và thực hành tiêm 
insulin của người bệnh đái tháo đường điều 
trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội” nhằm 
mục tiêu đánh giá kiến thức sử dụng insulin 
và thực hành tiêm insulin của người bệnh đái 
tháo đường. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1.Đối tượng nghiên cứu: 
Gồm 105 bệnh nhân ĐTĐ đã hoặc đang sử 
dụng insulin đến khám và điều trị tại Bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 7/2019 đến 
hết tháng 7/2020. Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả 
những bệnh nhân trên 18 tuổi có sức khỏe tâm 
thần bình thường, có khả năng giao tiếp và 
đối thoại trực tiếp, được chẩn đoán đái tháo 
đường các thể và đã từng tự thực hành tiêm 
insulin dạng bút tiêm hoặc bơm tiêm. Tiêu 
chuẩn loại trừ: Bệnh nhân ĐTĐ không có khả 
năng tự tiêm. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu: 
- Thiết kế nghiên cứu: mô tả, cắt ngang, cỡ 
mẫu thuận tiện 
- Các biến số nghiên cứu: đặc điểm chung 
của đối tượng nghiên cứu như tuổi, giới, trình 
độ, khu vực,đặc điểm về bệnh ĐTĐ,đặc điểm 
sử dụng insulin, phân nhóm kiến thức sử dụng 
insulin, phân nhóm thực hành tiêm insulin. 
- Bệnh nhân được phỏng vấn bằng bộ câu 
hỏi đánh giá kiến thức sử dụng insulin được 
xây dựng dựa trên bộ câu hỏi ITQ đã được 
thông qua tại Hội thảo khuyến nghị chuyên gia 
(FITTER) (https://www. fitter4diabetes. 
com/ibrary/ITQQuestionnairePatientsENGLIS
H.pdf)[2]. Bộ câu hỏi đã được chỉnh sửa giảm 
lược bớt cho phù hợp theo ý kiến của chuyên 
gia. Bộ câu hỏi gồm 20 câu hỏi (tổng 28 điểm) 
gồm các nội dung chính: kiến thức về loại 
thuốc tiêm, loại kim tiêm, vị trí tiêm, cách 
xoay vòng vị trí tiêm, kỹ thuật tiêm, bảo quản 
insulin, thải bỏ kim tiêm sau sử dụng, tác dụng 
không mong muốn khi tiêm, cách phát hiện, xử 
trí và dự phòng hạ đường huyết do tiêm 
insulin. Bệnh nhân được đánh giá thực hành 
tiêm insulin trên mô hình. Bảng kiểm đánh giá 
thực hành sử dụng bơm tiêm và bút tiêm 
insulin bước được xây dựng dựa trên hướng 
dẫn do nhà sản xuất khuyến cáo và theo quy 
trình của Bộ Y tế. Phân loại thực hành làm 4 
mức: không biết tiêm (sai toàn bộ các thao 
tác)/ kỹ thuật kém(sai một trong các thao tác 
quan trọng)/ kỹ thuật vừa phải (đúng các thao 
tác quan trọng)/kỹ thuật tối ưu (đúng toàn bộ 
các thao tác). Các thao tác quan trọng là các 
thao tác có ảnh hưởng trực tiếp đến lượng 
thuốc đưa vào cơ thể. 
 Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý bằng 
phần mềm thống kê y học SPSS 20.0. Sử 
dụng các thuật toán: tính tỷ lệ phần trăm, tính 
giá trị trung bình. Sử dụng test χ2 để phân 
tích mối liên quan giữa các biến. Sự khác biệt 
được coi là có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. 
2.3. Đạo đức nghiên cứu 
Bệnh nhân được giải thích rõ về mục đích 
của nghiên cứu. Các thông tin thu thập của 
bệnh nhân được bảo mật và chỉ được sử dụng 
phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
38 
3.1. Đặc điểm của nhóm đối tượng 
nghiên cứu 
 Nghiên cứu mô tả trên 105 bệnh nhân 
đái tháo đường có độ tuổi trung bình 60,91 ± 
12,65 tuổi (min: 28, max: 81), chủ yếu sống ở 
khu vực thành phố (62,9%), tỷ lệ nam 
(52,4%)/ nữ (47,6%) không có sự chênh lệch 
nhiều. Nhóm bệnh nhân có trình độ trung học 
cơ sở chiếm tỷ lệ cao nhất (36,2%), thấp nhất 
là nhóm có trình độ sau đại học (1%). Về đặc 
điểm bệnh ĐTĐ, loại ĐTĐ typ 2 chiếm tỷ lệ 
cao nhất (88,6%), thời gian mắc bệnh trung 
bình là 10,95 ± 8,1 năm (min: 01 tháng, max: 
35 năm), thời gian điều trị insulin trung bình 
là 3,95 ± 4,8 (min: 01 tháng, max: 25 năm). 
Về đặc điểm sử dụng dụng cụ tiêm, tỷ lệ 
bệnh nhân sử dụng bơm tiêm và lọ thuốc tiêm 
là 48,6%, bút tiêm là 51,4%. Đa số bệnh nhân 
sử dụng 01 loại thuốc tiêm (78,1%), chủ yếu 
là theo phác đồ 02 mũi tiêm trong ngày 
(72,4%). Biến chứng thường gặp nhất ở nhóm 
đối tượng nghiên cứu này là hạ đường huyết 
(44,8%) và bầm tím tại vị trí tiêm (29,5%). 
3.2. Kết quả đánh giá kiến thức sử dụng insulin của bệnh nhân ĐTĐ 
3.2.1. Kiến thức sử dụng insulin của bệnh nhân ĐTĐ 
Bảng 3.1. Tỷ lệ bệnh nhân có kiến thức đúng về sử dụng insulin 
Phân loại 
Nhóm sử dụng 
bơm tiêm 
Nhóm sử dụng 
bút tiêm 
Tổng 
Trả lời đúng dưới 50% câu hỏi 39 (76,5%) 36 (66,7%) 75 (71,4%) 
Trả lời đúng trên 50% câu hỏi 12 (23,5%) 18 (33,3%) 30 (28,6%) 
Tổng 51 (48,6%) 54 (51,4%) 105 (100%) 
 Tỷ lệ bệnh nhân trả lời đúng trên 50% câu hỏi ở mức thấp (28,6%). Không có sự khác biệt về 
kiến thức giữa hai nhóm bệnh nhân sử dụng bơm tiêm và bút tiêm (p <0,05). 
Bảng 3.2. Tỷ lệ sai sót về kiến thức sử dụng insulin của bệnh nhân ĐTĐ 
STT Sai sót về kiến thức sử dụng insulin 
Số lượng (n =105) 
Tỷ lệ% 
1 Không biết phân loại tác dụng của thuốc tiêm 76 (72,9%) 
2 Không biết phân loại bơm tiêm (n = 51) 28 (54,9%) 
3 Không biết kích cỡ của kim tiêm (n = 54) 47(87,0%) 
4 Không thay đổi vị trí tiêm 19 (18,1%) 
5 Không luân chuyển vị trí tiêm theo kế hoạch 92 (87,6%) 
6 Không sát khuẩn vị trí tiêm 17 (16,2%) 
7 Không sát khuẩn nắp lọ thuốc tiêm 77 (73,3%) 
8 Không làm ấm thuốc trước khi tiêm 29 (27,6%) 
9 Góc độ tiêm sai 14 (13,4%) 
10 Không biết véo da 32 (30,5 %) 
11 Thời gian giữ kim trong da không đủ lâu 55 (52,3%) 
12 Tái sử dụng bơm tiêm/ đầu kim tiêm 77 (73,3%) 
13 Thải bỏ kim sau sử dụng sai cách 94 (89,5%) 
14 Bảo quản thuốc tiêm chưa sử dụng sai cách 7 (6,7%) 
15 Bảo quản thuốc tiêm đang sử dụng sai cách 99 (94,3 %) 
16 Không biết chỉ số hạ đường huyết 77 (73,3%) 
17 Không biết cách dự phòng hạ đường huyết 30 (28,6%) 
Sai sót về kiến thức thường gặp nhất là bảo quản thuốc tiêm đang sử dụng (94,3%) và thải bỏ 
kim sau sử dụng (89,5%); không luân chuyển vị trí tiêm theo kế hoạch (87,6%). 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
39 
3.3. Đánh giá thực hành tiêm insulin 
3.3.1. Đánh giá thực hành tiêm insulin bằng bơm tiêm 
Bảng 3.3. Các sai sót khi thực hành tiêm insulin bằng bơm tiêm 
STT Các thao tác sai sót 
Số lượng (n = 51) 
(Tỷ lệ %) 
1 Rửa tay/ sát khuẩn tay nhanh 20 (39,2%) 
2 Chuẩn bị bơm tiêm và lọ thuốc tiêm 23 (45,1%) 
3 Sát khuẩn nắp cao su lọ thuốc 39 (76,5%) 
4 Bơm một lượng không khí vào trong lọ thuốc 34 (66,7%) 
5 Lấy đủ lượng thuốc tiêm (đuổi khí nếu có) 15 (29,4%) 
6 Lựa chọn vùng tiêm. 18 (35,3%) 
7 Sát khuẩn vị trí tiêm 17 (33,3%) 
8 Véo da hoặc căng da 9 (17,6%) 
9 Đâm kim qua da và tiêm đủ lượng thuốc 12 (23,5%) 
10 Thải bỏ kim tiêm sau sử dụng 17 (33,3%) 
Thao tác hay sai nhất là thao tác 3 sát khuẩn nắp lọ cao su (76,5%) và thao tác 4 đẩy lượng 
không khí vào trong lọ thuốc tiêm 66,7%. 
3.3.2. Đánh giá thực hành tiêm insulin bằng bút tiêm 
Bảng 3.4. Các sai sót trong thực hành tiêm insulin bằng bút tiêm 
STT Các thao tác sai sót Số lượng (Tỷ lệ %) 
1 Rửa tay/ sát khuẩn tay nhanh 9 (16,7%) 
2 Để insulin đạt đến nhiệt độ phòng trước khi sử dụng. 18 (33,3%) 
3 Đồng nhất thuốc tiêm 19 (35,2%) 
4 Sát khuẩn nút cao su và lắp kim vào bút 25 (46,3%) 
5 Test bút tiêm, đuổi khí 46 (85,2%) 
6 Xoay nút chọn liều tiêm theo chỉ định 2 (3,7%) 
7 Lựa chọn vùng tiêm 8 (14,8%) 
8 Sát khuẩn vị trí tiêm 8 (14,8%) 
9 Véo da, đâm kim qua da và tiêm đủ lượng thuốc, 
giữ kim ít nhất 6 giây 
13 (24,1%) 
10 Thải bỏ kim tiêm vào thùng đựng vật sắc nhọn 45 (83,3%) 
Đa số bệnh nhân không test an toàn trước khi lấy liều thuốc tiêm (85,2%). Bệnh nhân thường 
đóng nắp nhỏ sau khi sử dụng để tái sử dụng đầu kim (83,3%). 
3.3.3. Đánh giá thực hành tiêm insulin chung 
Bảng 3.5. Phân loại kỹ thuật thực hành tiêm insulin của bệnh nhân 
Phân loại kỹ thuật tiêm 
Số lượng (tỷ lệ) 
Tổng 
N = 105 Bơm tiêm 
(n= 51) 
Bút tiêm 
(n = 54) 
Sai ít nhất 1 thao tác quan 
trọng (thực hành chưa đúng) 
Không biết tiêm 1 (2%) 1 (1,9%) 
38 (36,2%) 
Kỹ thuật kém 24 (47,1%) 12 (22,2%) 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
40 
Đúng tất cả các thao tác quan 
trọng (thực hành đúng) 
Kỹ thuật vừa đủ 24 (47,1%) 41 (75,9%) 
67 (63,8%) 
Kỹ thuật tối ưu 2 (3,9%) 0 (0%) 
Nhóm tiêm insulin bằng bút tiêm có kết quả thực hành đúng là 75,9%, cao hơn so với nhóm 
tiêm insulin bằng bơm tiêm (51%). 
3.4. Các yếu tố liên quan đến thực hành tiêm insulin 
Bảng 3.6. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành tiêm insulin của bệnh nhân ĐTĐ 
Phân loại kiến thức 
Phân loại thực hành tiêm 
Tổng p Thựchành tiêm 
chưa đúng 
Thực hành 
tiêm đúng 
Trả lời đúng dưới 50% câu hỏi 36 (48,0%) 39 (52,0%) 75 (100%) 
<0,001 
Trả lời trên 50% câu hỏi 2 (6,7%) 28 (93,3%) 30 (100%) 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến thức giữa nhóm thực hành chưa đúng với nhóm 
thực hành đúng (χ2 = 15,83, p = 0,000 < 0,001). 
Bảng 3.7. Mối liên quan giữa thực hành tiêm insulin với biến chứng tại chỗ tiêm 
Biến chứng tại chỗ 
Phân loại thực hành 
Tổng 
Thực hành chưa đúng Thực hành đúng 
Bầm tím 
không 21 (28,4%) 53 (71,6%) 74 (71,4%) 
có 17 (54,8%) 14 (45,2%) 31 (29,6 %) 
Tổng 38 (36,2%) 67 (63,8%) 105 (100%) 
Có sự khác biệt về tỷ lệ bầm tím tại vị trí tiêm giữa 2 nhóm thực hành tiêm chưa đúng và 
đúng (χ2 = 6,624, p = 0,01<0.05). 
4. BÀN LUẬN 
4.1. Đánh giá kiến thức sử dụng insulin 
trên bệnh nhân ĐTĐ 
Các sai sót về kiến thức thường gặp nhất 
theo thứ tự là: bảo quản thuốc tiêm đang sử 
dụng (95,3); thải bỏ bơm/ kim tiêm sau sử 
dụng (89,5%); luân chuyển vị trí tiêm theo kế 
hoạch (87,6%). Có đến 72,9% bệnh nhân 
không biết thuốc insulin đang sử dụng là loại 
insulin gì. Việc hướng dẫn cho bệnh nhân loại 
thuốc tiêm và thời gian tác dụng của thuốc là 
rất cần thiết, từ đó giảm thiểu nguy cơ hạ 
đường huyết sau tiêm. Trong nhóm tiêm 
insulin bằng bơm tiêm, có 54,9% bệnh nhân 
không biết loại bơm tiêm đang sử dụng là loại 
bơm gì. Với nhóm tiêm insulin bằng bút tiêm, 
tỉ lệ bệnh nhân không có kiến thức về chiều 
dài đầu kim là 87%, thấp hơn so với nghiên 
cứu của Trần Ngọc Phương (2017) là 91,6%, 
nhưng cao hơn nhiều so với một số nghiên 
cứu trên thế giới như nghiên cứu của De 
Conik (7%).3,4Về vị trí tiêm insulin, bụng là 
vị trí mà hầu hết các bệnh nhân lựa chọn 
(98,1%), một nghiên cứu của A.H.Frid (2016) 
cũng cho kết quả gần tương tự 90,9% [2]. 
Trong nghiên cứu có 18,1% bệnh nhân chỉ 
tiêm vào cùng một vị trí liên tục mà không 
luân chuyển sang vị trí khác, hậu quả là gây 
nên tình trạng loạn dưỡng mỡ dưới da tại 
vùng tiêm. Tỷ lệ loạn dưỡng mỡ được tìm 
thấy trong nghiên cứu là 14,3%, thấp hơn so 
với các nghiên cứu ở Trung Quốc (35,26%) 
[5] và ở châu Âu (30,8%) [2]. Đa số bệnh 
nhân có thay đổi vị trí tiêm nhưng thường 
không theo một kế hoạch cụ thể (87,6%). 
Bệnh nhân nên được hướng dẫn các vị trí tiêm 
và cách luân chuyển vùng tiêm ngay từ khi 
mới bắt đầu tiêm. Đa số bệnh nhân sát khuẩn 
vị trí tiêm trước khi tiêm (83,8%), tuy nhiên 
việc sát khuẩn nắp lọ thuốc hoặc màng cao su 
của bút tiêm trước khi lấy thuốc/lắp kim lại 
được rất ít bệnh nhân thực hiện (26,7%). 
Về góc độ tiêm, đa số người bệnh chọn góc 
độ từ 45-900, chỉ có 13,4% chọn sai góc độ 
tiêm. Cá biệt có những trường hợp lựa chọn 
góc tiêm rất nhỏ dưới 150, dẫn đến tiêm vào vị 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
41 
trí trong da gây bầm tím sưng đau tại vị trí 
tiêm. Trong nghiên cứu có 30,4% bệnh nhân 
không véo da khi tiêm, thấp hơn so với nghiên 
cứu của Frid (2016) là 36,3% [2]. Thời gian 
giữ kim trong da là một yếu tố quyết định 
lượng thuốc đưa vào trong cơ thể có đủ hay 
không. Nghiên cứu cho thấy có 52,9 % bệnh 
nhân tiêm insulin bằng bơm tiêm rút kim ngay 
sau khi bơm thuốc, đối với nhóm tiêm insulin 
bằng bút tiêm tỷ lệ này thấp hơn (22,2%). Có 
tới 73,3% bệnh nhân tái sử dụng bơm/ kim 
tiêm, tỷ lệ này cao hơn ở nhóm tiêm insulin 
bằng bút tiêm (87%). Đặc biệt có những bệnh 
nhân không thay kim tiêm trong cả quá trình 
sử dụng một bút tiêm. Tỷ lệ bệnh nhân tái sử 
dụng bơm/kim tiêm từ 3 – 5 lần là nhiều nhất 
(33,3%), tỷ lệ này trong nghiên cứu của Frid là 
30% [2]. Đa số bệnh nhân bỏ kim tiêm đã 
đóng nắp vào thùng rác thải sinh hoạt (80%), 
một nghiên cứu ở Parkistan cũng cho kết quả 
tương tự (90%)[6]. Một vấn đề đáng chú ý là 
việc bảo quản thuốc tiêm. Nếu như thuốc chưa 
sử dụng được đa số bệnh nhân bảo quản đúng 
cách thì với thuốc tiêm đang sử dụng hầu hết 
bệnh nhân lại bảo quản sai cách (94,3%). 
Theo như khuyến cáo của nhà sản xuất, 
insulin chưa sử dụng nên được bảo quản trong 
tủ lạnh với mức nhiệt độ từ 2 – 8oC, tuy nhiên 
với insulin đang sử dụng thì lại nên để ở nhiệt 
độ phòng dưới 28oC. Thời hạn sử dụng thuốc 
tiêm sau khi bật nắp thường ít được bệnh 
nhân chú ý đến (83,8%). 88,6% bệnh nhân 
không có kiến thức về việc phát hiện thuốc 
insulin bị hỏng. Hạ đường huyết là một biến 
chứng thường gặp nhất khi tiêm insulin, đây 
cũng là biến chứng được bệnh nhân biết đến 
nhiều nhất (54,3%), nhưng chỉ có 26,3% bệnh 
nhân biết đến ngưỡng đường huyết được coi 
là hạ đường huyết (≤3,9mmol/l). Hầu hết 
bệnh nhân đều biết cách xử trí khi có dấu hiệu 
hạ đường huyết đó là uống 15 - 20g đường 
hoặc ăn kẹo bánh đồ ngọt(82,9%). Tuy nhiên, 
việc thử đường máu mao mạch khi nghi ngờ 
có dấu hiệu hạ đường huyết lại không được 
nhiều người bệnh thực hiện (32,4%). Một 
điều cần lưu ý khi bị hạ đường huyết đó là 
tuyệt đối không được tiêm insulin, nhưng chỉ 
có 51,4% bệnh nhân biết đến điều này. Việc 
dự phòng hạ đường huyết là điều nên làm đặc 
biệt khi bệnh nhân đi ra ngoài, đây là kiến 
thức được nhiều bệnh nhân biết đến (75%), 
kết quả này cao hơn so với trong nghiên cứu 
của Sourav năm 2014 tại Ấn Độ là 27,3%[7]. 
Một số biến chứng tại chỗ khi tiêm ít được 
bệnh nhân biết đến như bầm tím tại vị trí tiêm 
(29,6%), loạn dưỡng mỡ (6,6%), dị ứng 
(7,6%), nhiễm trùng (2,9%), cũng chính vì 
không biết nên người bệnh không hiểu được 
tầm quan trọng của việc luân chuyển các vị trí 
tiêm theo kế hoạch để giảm thiểu biến chứng 
tại chỗ khi tiêm. 
Đánh giá điểm kiến thức trên 105 bệnh 
nhân bằng bộ câu hỏi gồm 20 câu hỏi, tổng 
điểm tối đa là 28 điểm. Tỷ lệ bệnh nhân trả 
lời được trên 50% câu hỏi là 28,6%. Tỷ lệ này 
thấp hơn so với nghiên cứu của Vũ Thị Thanh 
Huyền năm 2012 là 35%[8]. Con số này chỉ 
ra vấn đề trong việc tư vấn hướng dẫn cung 
cấp các kiến thức cho bệnh nhân ĐTĐ cách 
sử dụng insulin. Bệnh nhân thường chỉ được 
hướng dẫn sơ bộ về các bước tiêm cơ bản, 
trong khi đó các kiến thức khác cũng rất cần 
thiết như: loại thuốc tiêm, loại bơm tiêm, vị 
trí tiêm cụ thể và cách luân chuyển xoay vòng 
vị trí tiêm, cách thải bỏ đúng quy cách, cách 
bảo quản thuốc, các tác dụng phụ và cách 
phòng tránh... thì lại không được hướng dẫn 
một cách cụ thể. Đây là một lỗ hổng kiến thức 
lớn cần được bổ sung thông qua các chương 
trình tư vấn hướng dẫn lại cho người bệnh 
mỗi lần tái khám. 
4.2. Đánh giá thực hành tiêm insulin của 
người bệnh ĐTĐ 
Trong nhóm tiêm insulin bằng bơm tiêm, 
có 50,1% bệnh nhân thực hành đúng. Thao 
tác tiêm bệnh nhân hay mắc sai sót nhất lần 
lượt là: Sát khuẩn nắp cao su lọ thuốc bằng 
cồn 70 độ (76,5%), bơm khí vào trong lọ 
thuốc trước khi lấy thuốc (66,7%), ổn định 
nhiệt độ thuốc trước tiêm (45,1%). Thao tác ít 
sai sót nhất là lựa chọn góc độ tiêm và đâm 
kim (17,6%), bơm thuốc (23,5%), lấy thuốc 
(29,4%). Mặc dù các thao tác quan trọng ít bị 
sai sót nhưng chỉ cần một trong những thao 
tác này bị sai sẽ dẫn tới hậu quả insulin không 
được tiêm đúng đủ liều quy định và làm giảm 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
42 
kết quả điều trị. Bước lấy thuốc là bước đặc 
biệt quan trọng, bệnh nhân cần lựa chọn đúng 
loại bơm tiêm để lấy thuốc, nếu lựa chọn sai 
bơm tiêm sẽ dẫn đến lấy sai liều. Số lượng 
bệnh nhân lựa chọn góc độ tiêm sai chỉ chiếm 
tỉ lệ nhỏ (17,6%). 
Kết quả thực hành tiêm insulin bằng bút 
tiêm có sự khác biệt đáng kể so với tiêm bằng 
bơm tiêm. Cụ thể, tỷ lệ bệnh nhân thực hành 
đúng chiếm tới 75,9%, chỉ có 24,1% bệnh 
nhân thực hành chưa đúng (bảng 3.13). Sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 5,99, p 
= 0,014). Ngoài vấn đề chi phí có đắt hơn so 
với lọ thuốc tiêm, bút tiêm có những ưu điểm 
vượt trội. Với thiết kế thuốc tiêm sẵn có trong 
bút cùng với vạch định liều rõ ràng cụ thể 
giúp bệnh nhân dễ dàng lấy liều thuốc mà 
không bị nhầm lẫn như việc lấy thuốc bằng 
bơm tiêm. Cụ thể trong nghiên cứu chỉ có 
3,7% số bệnh nhân tiêm insulin bằng bút tiêm 
lấy liều thuốc sai. Tuy vậy, điều đáng chú ý là 
một số thao tác bị bệnh nhân bỏ qua như test 
an toàn bút tiêm (85,2%). Đa phần bệnh nhân 
hay bỏ qua bước test bút, đây là thao tác để 
giúp nhận biết xem kim tiêm có bị tắc hay 
không. Trong trường hợp kim bị tắc, thuốc 
tiêm có thể không vào được cơ thể bệnh nhân 
dẫn đến thiếu liều insulin và đường huyết 
không được kiểm soát. Tỷ lệ sai sót thải bỏ 
kim sau sử dụng (83,3%) có thể lý giải điều 
này vì bệnh nhân thường tái sử dụng kim tiêm 
nên không tháo bỏ kim mà đóng lạinắp nhỏ 
sau khi tiêm xong và tái sử dụng cho lần sau. 
Việc đóng nắp kim bằng nắp nhỏ có thể gây 
tổn thương tay cho bệnh nhân, đặc biệt là với 
bệnh nhân cao tuổi thị lực kém. 
4.3. Một số yếu tố liên quan đến thực 
hành tiêm insulin 
Sau khi được kiểm định, một số yếu tố 
được cho là có liên quan đến thực hành tiêm 
insulin bao gồm: dạng thuốc tiêm, tổng điểm 
kiến thức, và biến chứng tại chỗ. Bệnh nhân 
có kiến thức tốt có tỷ lệ thực hành đúng cao 
hơn so với nhóm kiến thức chưa tốt (χ2= 15,83, p 
= 0,000 < 0,001). (bảng 3.14). Bảng 3.15 cho thấy 
mối liên quan giữa thực hành tiêm với biến 
chứng bầm tím tại chỗ tiêm. Tỷ lệ bầm tím 
tăng cao trên nhóm đối tượng thực hành chưa 
đúng (54,8%). ((χ
2 = 6,624, p = 0,01).Trong 
nhóm đối tượng nghiên cứu có 10,5% bệnh 
nhân chưa bao giờ được hướng dẫn về việc sử 
dụng insulin. Nghiên cứu của Frid (2016) 
cũng cho kết quả tương tự (10%)[2]. 
5. KẾT LUẬN 
Kiến thức về insulin của bệnh nhân còn 
thiếu hụt ở nhiều mảng, cần phải được bổ 
sung thông qua các chương trình đào tạo, 
hướng dẫn định kỳ tại các cơ sở y tế. Bệnh 
nhân có kiến thức tốt sẽ có kỹ năng thực hành 
tiêm insulin tốt hơn và làm giảm tỷ lệ biến 
chứng tại chỗ khi tiêm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. International Diabete Federation 
(2017). IDF Diabetes Atlas 8th Edition, 
2. FridA.H., HirschL.J.,Menchior A. R. et 
al. Worldwide Injection Technique 
Questionnaire Study: Injecting 
Complications and the Role of the 
Professional. Mayo Clin Pro. 2016;91(9), 
1224-1230. 
3. Trần Ngọc Phương. Khảo sát kiến thức 
về sử dụng Insulin và đánh giá thực hành 
sử dụng bút tiêm Insulin ở bệnh nhân đái 
tháo đường điều trị ngoại trú tại bệnh 
viện Nội tiết Trung ương, Trường Đại 
học Dược Hà Nội, Hà Nội. 2017. 
4. Coninck D., Anders F., Ruth G. et al.. 
Results and analysis of the 2008-2009 
InsulinInjection Technique Questionnaire 
survey. J Diabetes. 2010;2(3), 168-179. 
5. Ji J., Lou Q.. Insulin pen injection 
technique survey in patients with type 2 
diabetes in mainland China in 2010. 
Current medical research and opinion. 
2014;6(30), 1087-1093 
6. Ishtiaq O.. Disposal of syringes, needles, 
and lancets used by diabetic patients in 
Pakistan. Journal of Infection and Public 
Healt. 2012;5, 182—188. 
7. Choudhury S.D., Das S.K. Survey of 
knowledge-attitude-practice concerning 
insulin use in adult diabetic patients in 
eastern India. Indian J Pharmacol. 
2014;46(4), 425–429. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_kien_thuc_thuc_hanh_tiem_insulin_cua_nguoi_benh_dai.pdf