Đánh giá kết quả vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh

Để đánh giá kết quả vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh, chúng tôi tiến hành nghiên

cứu trên 132 bệnh nhân được vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Kết quả cho thấy thời

gian phẫu thuật trung bình là 60,91 ± 17,54 phút, thời gian nằm viện sau phẫu thuật là 1,83 ± 0,94 ngày, trung

bình số lượng tĩnh mạch tinh thắt được trên mỗi thừng tinh là 6,39 ± 1,64 nhánh, trung bình số lượng động

mạch và bạch mạch bảo tồn được trên mỗi thừng tinh là 1,14 ± 0,51 động mạch và 3,4 ± 0,73 bạch mạch. Phần

lớn các trường hợp động mạch đi kèm với một nhánh tĩnh mạch lớn (40,7%) hoặc kèm các nhánh nhỏ (35%).

Khoảng 7,7% các trường hợp khó xác định được liên quan giữa động mạch và tĩnh mạch. Tỉ lệ thành công của

phương pháp đạt 96,2% và tỉ lệ thất bại chiếm 3,8%. Qua kết quả này chúng tôi nhận thấy vi phẫu thắt tĩnh mạch

tinh là phương pháp an toàn và hiệu quả để điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh. Dưới kính vi phẫu tĩnh mạch tinh

ở đoạn bẹn bìu phân nhiều nhánh. Động mạch thường đi kèm các nhánh tĩnh mạch kích thước lớn hoặc nhỏ.

pdf 9 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh

Đánh giá kết quả vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 122 (6) - 201940
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VI PHẪU THẮT TĨNH MẠCH TINH
ĐIỀU TRỊ BỆNH GIÃN TĨNH MẠCH TINH 
Nguyễn Hoài Bắc¹,², Đinh Văn Toàn¹, Nguyễn Văn Tuấn¹
 ¹Trường Đại học Y Hà Nội, ²Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Để đánh giá kết quả vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu trên 132 bệnh nhân được vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Kết quả cho thấy thời 
gian phẫu thuật trung bình là 60,91 ± 17,54 phút, thời gian nằm viện sau phẫu thuật là 1,83 ± 0,94 ngày, trung 
bình số lượng tĩnh mạch tinh thắt được trên mỗi thừng tinh là 6,39 ± 1,64 nhánh, trung bình số lượng động 
mạch và bạch mạch bảo tồn được trên mỗi thừng tinh là 1,14 ± 0,51 động mạch và 3,4 ± 0,73 bạch mạch. Phần 
lớn các trường hợp động mạch đi kèm với một nhánh tĩnh mạch lớn (40,7%) hoặc kèm các nhánh nhỏ (35%). 
Khoảng 7,7% các trường hợp khó xác định được liên quan giữa động mạch và tĩnh mạch. Tỉ lệ thành công của 
phương pháp đạt 96,2% và tỉ lệ thất bại chiếm 3,8%. Qua kết quả này chúng tôi nhận thấy vi phẫu thắt tĩnh mạch 
tinh là phương pháp an toàn và hiệu quả để điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh. Dưới kính vi phẫu tĩnh mạch tinh 
ở đoạn bẹn bìu phân nhiều nhánh. Động mạch thường đi kèm các nhánh tĩnh mạch kích thước lớn hoặc nhỏ.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Giãn tĩnh mạch tinh, vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh, giải phẫu thừng tinh.
Giãn tĩnh mạch tinh là tình trạng giãn bất 
thường thành đám của các nhánh tĩnh mạch 
tinh hoàn. Theo ước tính tỉ lệ mắc bệnh trong 
quần thể nam giới nói chung là 10 - 15%, tỉ lệ 
này tăng lên 25% ở quần thể nam giới vô sinh 
nguyên phát và lên tới 81% ở quần thể vô sinh 
thứ phát [1].
Giãn tĩnh mạch tinh gây ảnh hưởng đến 
chức năng tình dục và sinh sản của nam giới 
thông qua việc ảnh hưởng đến quá trình sản 
xuất hormone sinh dục và quá trình tạo tinh 
trùng của tinh hoàn. Các nghiên cứu cho thấy 
chức năng sinh sản của những bệnh nhân 
giãn tĩnh mạch tinh giảm đáng kể thông qua 
việc giảm số lượng, chất lượng và hình thái 
bình thường của tinh trùng. Ngoài ra, nồng độ 
testosterone trong huyết thanh của những bệnh 
nhân giãn tĩnh mạch tinh cũng giảm đáng kể so 
với nhóm chứng [1]. 
Có nhiều phương pháp điều trị giãn tĩnh 
mạch tinh như mổ mở kinh điển, mổ nội soi 
sau phúc mạc, nút tĩnh mạch tinh qua da. Tuy 
nhiên, theo khuyến cáo của hội Niệu khoa Mỹ 
và hội Niệu khoa châu Âu, thắt tĩnh mạch tinh 
có sự trợ giúp của kính vi phẫu vẫn là biện pháp 
điều trị tiêu chuẩn do hạn chế được tối đa các 
biến chứng và có hiệu quả trong việc cải thiện 
chức năng sinh sản của nam giới [2].
Tại Việt Nam vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh vẫn 
chưa được sử dụng nhiều do những khó khăn 
về phương tiện và những hiểu biết về giải phẫu 
thừng tinh đoạn bẹn bìu. Số lượng những bài 
báo được đăng tải về các chủ đề này còn ít. Tác 
giả Hoàng Long và cộng sự (2010) đánh giá 
so sánh kết quả phương pháp vi phẫu thắt tĩnh 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hoài Bắc, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 11/06/2019
Ngày được chấp nhận: 15/07/2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 122 (6) - 2019 41
mạch tinh với phương pháp nội soi qua ổ bụng 
thắt tĩnh mạch tinh cho thấy vi phẫu thắt tĩnh 
mạch tinh có tỉ lệ thành công tương đương với 
nội soi ổ bụng nhưng có thời gian phẫu thuật và 
thời gian nằm viện sau mổ ngắn hơn [3]. Tác 
giả Phạm Nam Việt và cộng sự (2011) đã mô 
tả đặc điểm giải phẫu của 62 thừng tinh ở đoạn 
bẹn bìu và đoạn bẹn [4]. Tuy nhiên, nghiên cứu 
này chỉ là nghiên cứu hồi cứu với số lượng 
bệnh nhân còn ít.
Trên cơ sở thực tiễn đó, chúng tôi thực hiện 
đề tài: “Đánh giá kết quả vi phẫu thắt tĩnh mạch 
tinh điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh” nhằm 
mục tiêu sau:
1. Mô tả giải phẫu các mạch máu của thừng 
tinh đoạn bẹn bìu dưới kính vi phẫu .
2. Đánh giá kết quả vi phẫu thắt tĩnh mạch 
tinh điều trị bệnh giãn tĩnh mạch tinh.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Những bệnh nhân giãn tĩnh mạch tinh đến 
khám và điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
từ tháng 12 năm 2013 đến tháng 10 năm 2017.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Lựa chọn vào nghiên cứu những bệnh nhân 
sau đây: 
- Trong độ tuổi trưởng thành bị giãn tĩnh 
mạch tinh.
- Được khám lâm sàng và các xét nghiệm 
cận lâm sàng đầy đủ.
- Được vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh một bên 
hoặc hai bên.
Tiêu chuẩn loại trừ
Loại trừ ra khỏi nghiên cứu những bệnh 
nhân sau đây:
- Được điều trị bằng các phương pháp khác.
- Không tái khám hoặc không theo dõi được
2. Phương pháp
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên những 
mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 12 năm 2014 
đến tháng 10 năm 2018. 
Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Đại học Y 
Hà Nội.
Có 300 bệnh nhân đến được khám và phẫu 
thuật điều trị giãn tĩnh mạch tinh. Tuy nhiên 
chỉ có 132 bệnh nhân đáp ứng được các tiêu 
chuẩn lựa chọn và loại trừ của nghiên cứu.
Quy trình nghiên cứu
Bệnh nhân được khám chẩn đoán giãn TMT 
dựa vào đồng thời cả lâm sàng và siêu âm 
Doppler màu. Giải phẫu thừng tinh được mô 
tả theo số lượng tĩnh mạch tinh thắt được, số 
lượng động mạch và bạch mạch bảo tồn được 
trên mỗi thừng tinh và liên quan giữa động 
và tĩnh mạch tinh. Các tĩnh mạch tinh có kích 
thước lớn hơn 5 mm được xếp vào nhóm có 
kich thước lớn. Tĩnh mạch tinh có kích thước từ 
2-5 mm được xếp vào nhóm kích thước trung 
bình. Những tĩnh mạch tinh có kích thước nhỏ 
hơn 2mm được xếp vào nhóm có kích thước 
nhỏ. Bệnh nhân được hẹn tái khám phẫu thuật 
1 tháng để xác định xác định tỉ lệ thành công, 
thất bại và tỉ lệ biến chứng sớm thông qua khám 
lâm sàng và siêu âm tinh hoàn.
3. Xử lý số liệu
Các thông tin thu thập được nhập và phân 
tích theo chương trình phần mềm STATA 13.
Tính số trung bình cộng, độ lệch chuẩn với 
các dãy số liệu tuân theo sự phân bố chuẩn. 
Tính tỷ lệ phần trăm, so sánh tỷ lệ phần trăm 
với các ô có tần số mong đợi đều lớn hơn 5 
dùng thuật toán Test χ². Tính tỷ lệ phần trăm, 
so sánh tỷ lệ phần trăm với một ô có tần số 
mong đợi nhỏ hơn 5 dùng thuật toán Fisher’s 
exact test.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban giám 
đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Các bệnh 
nhân trong nghiên cứu này đều được giải 
thích đầy đủ, tự nguyện tham gia nghiên cứu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 122 (6) - 201942
và có quyền rút lui khỏi nghiên cứu khi không 
muốn tham gia nghiên cứu. Các thông tin liên 
quan đến bệnh nhân được đảm bảo bí mật 
III. KẾT QUẢ 
1. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 1. Thông tin chung của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm N (%)
Mean ± SD
(Min - Max)
Tuổi (năm)
> 30 53 (40,1) 30,1 ± 5,5
≤ 30 79 (59,9) (20 – 52)
BMI (kg/m2)
Thấp cân (< 18,5) 9 (6,8) 21,9 ± 2,3
Bình thường (18,5 - 22,9) 78 (59,1) (17,6 – 28,4)
Thừa cân (≥ 23) 45 (34,1)
Tiền sử bệnh
Không có tiền sử 107 (81,1)
Tiền sử nội khoa 10 (7,6)
Tiền sử ngoại khoa 4 (3,0)
Tiền sử thai sản (của vợ) 11 (8,3)
Nhóm nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 30,1 ± 5,5 và phần lớn các trường hợp là không có tiền 
sử bệnh lý (81,1%).
2. Đặc điểm giải phẫu thừng tinh trên kính vi phẫu
Biểu đồ 1. Số lượng tĩnh mạch thắt được trên mỗi thừng tinh (N = 132)
Trung bình, chúng tôi thắt được 6,39 ± 1,64 nhánh tĩnh mạch trên mỗi thừng tinh. Trong đó, số 
nhánh kích thước lớn là 1,61 ± 0,89 nhánh, kích thước trung bình là 1,08 ± 1,13 nhánh và kích thước 
nhỏ là 3,7 ± 0,9 nhánh.
và được đảm bảo chỉ sử dụng trong phạm vi 
nghiên cứu này.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 122 (6) - 2019 43
Biểu đồ 2. Số lượng động mạch và bạch mạch bảo tồn được trên mỗi thừng tinh (N = 132)
Trung bình số lượng động mạch và bạch mạch bảo tồn được trên mỗi thừng tinh là 1,14 ± 0,51 
động mạch và 3,4 ± 0,73 bạch mạch.
Biểu đồ 3. Phân loại thừng tinh theo số nhánh ĐM bảo tồn được (N = 132)
Số thừng tinh có một động mạch chiếm 74,2%, hai động mạch chiếm 18,9% và có ba động mạch 
chiếm 0,8%. Có 6,1% trường hợp thừng tinh khó xác định được số lượng động mạch.
Biểu đồ 4. Liên quan giữa động mạch với các nhánh tĩnh mạch
Phần lớn các trường hợp động mạch đi kèm với một nhánh tĩnh mạch lớn (40,7%) hoặc kèm các 
nhánh nhỏ (35%). Khoảng 7,7% các trường hợp khó xác định được liên quan.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 122 (6) - 201944
3. Kết quả vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh giãn
Bảng 2. Đặc điểm liên quan đến phẫu thuật
Đặc điểm Mean ± SD Min - Max
Chiều dài đường rạch da (cm) 3,51 ± 0,87 2 - 6
Thời gian phẫu thuật (phút) 60,91 ± 17,54 30 - 120
Thời gian nằm viện sau phẫu thuật (ngày) 1,83 ± 0,94 1 - 9
Chiều dài đường rạch da là 3,51 ± 0,87 cm. Thời gian phẫu thuật là 60,91 ± 17,54 phút và thời 
gian nằm viện sau phẫu thuật là 1,83 ± 0,94 ngày.
Bảng 3. Các biến chứng sau phẫu thuật
Đặc điểm N %
Biến chứng chung (N = 132 đối tượng)
Có 36 27,3
Không 96 72,7
Loại biến chứng (N = 49 số biến chứng)
Tụ máu dưới da bìu 8 16,3
Sưng nề vết mổ 17 34,7
Dị cảm da vùng mổ 21 42,9
Sẹo xấu 3 6,1
Tỉ lệ biến chứng nói chung sau phẫu thuật là 27,3%. Trong số các biến chứng, biến chứng 
thường gặp là dị cảm da vùng mổ chiếm 42,9% và sưng nề vết mổ chiếm 34,7%.
Biểu đồ 5. Tỷ lệ thành công và thất bại (N=132)
Tỉ lệ thành công của phương pháp vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh đạt 96,2% (127/132) và tỉ lệ thất 
bại chỉ chiếm 3,8% (5/132).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 122 (6) - 2019 45
IV. BÀN LUẬN
Tại vị trí bẹn bìu, động mạch tinh thường có 
kích thước nhỏ, hơn nữa lại đập rất yếu vì bị 
chèn ép bởi các cạnh của lỗ bẹn ngoài. Điều 
này làm cho việc nhận biết động mạch khó khăn 
hơn so với việc nhận biết động mạch ở những 
vị trí khác trong ống bẹn (có mở cân cơ chéo 
bụng ngoài). Ngoài ra, động mạch tinh lại được 
quây xung quanh bởi nhiều nhánh tĩnh mạch 
nhỏ (2 hoặc 3 nhánh) làm cho việc phẫu tích 
bảo tồn động mạch và phẫu tích thắt các nhánh 
tĩnh mạch kích thước nhỏ cũng khó khăn. Đây 
là một trong những lý do gây giãn tái phát và 
teo tinh hoàn sau phẫu thuật [5]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trung bình 
chúng tôi đã bảo tồn được 1,14 ± 0,51 nhánh 
động mạch và 3,4 ± 0,73 nhánh bạch mạch trên 
mỗi thừng tinh (Biểu đồ 2). Khi phân loại thừng 
tinh theo số lượng động mạch bảo tồn được 
chúng tôi nhận thấy có 74,2% các trường hợp 
thừng tinh chỉ có một nhánh động mạch, 18,9% 
các trường hợp có hai nhánh động mạch và 
0,8% các trường hợp có 3 nhánh động mạch 
(Biểu đồ 3). Kết quả này có thể so sánh được 
với kết quả của tác giả Wang, trung bình số 
động mạch và bạch mạch bảo tồn được tương 
ứng là 1,5 ± 0,9 nhánh và 3,6 nhánh. Trong đó, 
tỉ lệ thừng tinh có 1, 2 và ≥3 nhánh động mạch 
tinh tương ứng là 68,4%, 20,3% và 11,4% [6].
Tuy nhiên, chúng tôi cũng ghi nhận khoảng 
6,1% các trường hợp khó xác định động mạch 
(Biểu đồ 3). Đây là một thách thức rất lớn đối 
với phẫu thuật viên, bởi lẽ việc xác định chính 
xác động mạch là một trong những yếu tố giúp 
cho phẫu thuật thành công và tránh được biến 
chứng teo tinh hoàn. Trong những trường hợp 
này, kinh nghiệm của chúng tôi là không cố gắng 
tìm động mạch mà thận trọng phẫu tích tìm tĩnh 
mạch và thắt từng nhánh tĩnh mạch riêng lẻ. 
Việc xác định tĩnh mạch sẽ dễ dàng hơn dựa 
vào đường kính của mạch (vì đường kính của 
tĩnh mạch bao giờ cũng lớn hơn đường kính 
của động mạch), độ dầy của thành mạch (thành 
của tĩnh mạch bao giờ cũng mỏng hơn thành 
của động mạch, nhất là trong trường hợp tĩnh 
mạch đang bị giãn chứa nhiều máu) và máu 
sẫm mầu trong lòng mạch (máu tĩnh mạch bao 
giờ cũng sẫm mầu hơn máu trong động mạch). 
Cũng trong nghiên cứu này, trung bình số 
nhánh TMT thắt được trên mỗi thừng tinh là 
6,39 ± 1,64 nhánh. Trong đó, có 1,61 ± 0,89 
nhánh có kích thước lớn, 1,08 ± 1,13 nhánh có 
kích thước trung bình và 3,7 ± 0,9 nhánh có kích 
thước nhỏ (Biểu đồ 1). Kết quả này có thể so 
sánh với kết quả của tác giả Wang tương ứng 
là 5,6 ± 2,2 nhánh. Trong đó, số tĩnh mạch kích 
thước lớn, trung bình và nhỏ chiếm lần lượt là 
0,7, 1,7 và 3,2 nhánh [6]. Kết quả của tác giả 
Phạm Nam Việt tương ứng là 8,6 ± 2,4 nhánh. 
Trong đó, trung bình số nhánh có đường kính 
lớn là 1,6 tĩnh mạch, đường kính trung bình là 
3,2 nhánh và đường kính nhỏ là 4,1 nhánh [4].
 Trong phẫu thuật, việc nhận biết và kiểm 
soát các nhánh tĩnh mạch tinh có kích thước 
lớn và trung bình tương đối thuận lợi nhưng 
việc nhận biết và kiểm soát các nhánh tĩnh 
mạch tinh có kích thước nhỏ lại khó khăn hơn 
nhiều. Đây là một thách thức lớn đối với phẫu 
thuật viên bởi lẽ nếu thắt không hết, các nhánh 
này sẽ giãn thứ phát làm gây nên hiện tượng 
giãn tái phát về sau. Trong nghiên cứu này việc 
sử dụng kính vi phẫu có độ phóng đại lớn đã 
giúp chúng tôi nhận biết và kiểm soát triệt để 
các nhánh này, chính vì vậy hiện tương giãn 
tái phát đã không được ghi nhận trong nghiên 
cứu này. Ngoài ra, kinh nghiệm của chúng tôi 
là không nên cố gắng phẫu tích riêng từng tĩnh 
mạch để thắt hai đầu rồi cắt, mà chúng tôi chỉ 
cô lập tĩnh mạch ra khỏi các thành phần lân 
cận, rồi sau đó dùng dao điện Bipolaire để đốt 
một đoạn tĩnh mạch. Việc đốt như vậy cũng đủ 
để bít tắc sự thông thương giữa phần trên và 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 122 (6) - 201946
dưới của đoạn tĩnh mạch. 
Liên quan giữa động mạch tinh và các 
nhánh TMT, trong nghiên cứu này chúng tôi 
nhận thấy phần lớn các trường hợp động mạch 
đi kèm các nhánh TMT lớn và các nhánh tĩnh 
mạch nhỏ với tỉ lệ tương ứng là 40,7% và 35%. 
Có khoảng 6,5% trường hợp động mạch chạy 
tự do và khoảng 7,7% các trường hợp khó xác 
định được liên quan (Biểu đồ 4). Tác giả Phạm 
Nam Việt lại nhận thấy liên quan giữa các thành 
phần động mạch tinh hoàn và tĩnh mạch tinh 
trong như sau: 66,1% (39/59) các trường hợp 
động mạch tinh hoàn nằm ngay sau một tĩnh 
mạch có kích thước lớn và 33,9% các trường 
hợp (20/59) động mạch nằm giữa một đám rối 
tĩnh mạch có kích thước trung bình và nhỏ [4].
Thời gian phẫu thuật và thời gian nằm viện 
sau phẫu thuật cũng là những yếu tố quan 
trọng đánh giá hiệu quả nói chung của phẫu 
thuật. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy thời gian phẫu thuật trung bình là 60,91 ± 
17,54 (30 - 120) phút cho một thừng tinh và thời 
gian nằm viện sau phẫu thuật là 1,83 ± 0,94 
(1 - 9) ngày (Bảng 2). Trong đó, có một trường 
hợp thời gian phẫu thuật kéo dài lên tới 120 
phút. Nguyên nhân của sự kéo dài này là do 
chúng tôi phải thực hiện thêm phẫu thuật phục 
hồi thành bụng để điều trị thoát vị bẹn trực tiếp 
cho bệnh nhân.
Cũng trong nghiên cứu này có một trường 
hợp có thời gian nằm viện kéo dài tới 9 ngày. 
Trường hợp này đã bị chấn thương niệu đạo do 
nhân viên y tế đặt ống thông tiểu không đúng 
quy trình gây nên. Kết quả của chúng tôi cũng 
phù hợp với kết quả của tác giả Al-Kandaricho 
thấy thời gian phẫu thuật trung bình là 64 ± 20 
(50 – 90) phút cho mỗi thừng tinh và thời gian 
nằm viện là 1,7 ± 0,8 ngày [7]. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến 
hành phẫu thuật trên 132 thừng tinh, với tỉ lệ 
thành công đạt 96,2% (127/132) và tỉ lệ thất bại 
là 3,8% (5/132) (Biểu đồ 5). Tỉ lệ này thấp hơn 
so với tỉ lệ của tác giả khác là 99% và 1% [8]. 
Tỉ lệ của chúng tôi thấp hơn của tác giả khác là 
do sự khác nhau trong định nghĩa phẫu thuật 
thành công. 
Chúng tôi xác định phẫu thuật thành công 
hay thất bại dựa vào khám lâm sàng và siêu 
âm, còn tác giả khác chỉ dựa vào khám lâm 
sàng. Việc kết hợp cả lâm sàng và siêu âm đã 
làm tăng độ chính xác của việc xác định TMT 
còn giãn hay không.
Hơn nữa thời điểm đánh giá cũng là một yếu 
tố quan trọng làm ảnh hưởng đến việc nhận 
định kết quả phẫu thuật. Chúng tôi đánh giá vào 
thời điểm sau phẫu thuật 1 tháng trong khi các 
tác giả khác lại đánh giá khi bệnh nhân ra viện. 
Ngay sau phẫu thuật, các nhánh các nhánh tĩnh 
mạch tinh có kích thước nhỏ không được kiểm 
soát trong lúc phẫu thuật chưa kịp giãn bù trừ. 
Hiện tượng giãn bù trừ sau phẫu thuật xảy ra 
là do dòng máu sẽ tăng cường dồn về những 
tĩnh mạch này để đổ về tuần hoàn chung của 
cơ thể.
Mặc dù tỉ lệ thành công thấp hơn của các tác 
giả khác nhưng tỉ lệ này đã cho thấy vi phẫu là 
phương pháp điều trị giãn TMT hiệu quả. 
Có 3,8% (5/132) trường hợp được coi là 
phẫu thuật thất bại. Cả 5 bệnh nhân này, trên 
siêu âm Doppler tinh hoàn sau 1 tháng cho thấy 
đường kính TMT trước nghiệm pháp Valsalva 
lớn hơn 2,5 mm và có dòng trào ngược trong 
TMT. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể 
là do bỏ sót nhánh tĩnh mạch giãn hoặc do hiện 
tượng giãn bù trừ. Ba trong số những bệnh 
nhân này là những ca đầu tiên. Chúng tôi chưa 
có kinh nghiệm để phẫu tích và đốt triệt để các 
nhánh tĩnh mạch nhỏ xung quanh động mạch. 
Hai bệnh nhân còn lại là những bệnh nhân béo, 
lớp mỡ dưới da dầy làm cho việc phẫu tích bộc 
lộ TMT ngoài và tĩnh mạch dây chằng bìu khó 
khăn nên chúng tôi đã bỏ qua những tĩnh mạch 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 122 (6) - 2019 47
này. 
Vì vậy, trong phẫu thuật cần chú ý phẫu tích 
những nhánh tĩnh mạch nhỏ ra khỏi động mạch 
sau đó sẽ đốt bằng đầu dao điện lưỡng cực 
có đường kính 1 mm. Nếu bệnh nhân thấp và 
béo thì cần kéo dài đường rạch da sang ngang 
để có thể dễ dàng mở lỗ bẹn nông và kéo dài 
vết mổ lên một phần ống bẹn. Điều này sẽ 
giúp phẫu thuật viên tìm các TMT ngoài và tĩnh 
mạch dây chằng bìu dễ dàng hơn.
Ba biến chứng phổ biến sau thắt TMT là tràn 
dịch màng tinh hoàn, tái phát và teo tinh hoàn. 
Tràn dịch màng tinh hoàn là hậu quả của việc 
thắt phải các nhánh bạch mạch làm cản trở sự 
dẫn lưu bạch huyết. Tái phát là do không thắt 
được các nhánh TMT ngoài hoặc không thắt 
hết các nhánh TMT trong có kích thước nhỏ. 
Các tĩnh mạch này sẽ giãn thứ phát sau phẫu 
thuật do tăng cường hồi lưu tĩnh mạch trở về 
qua các nhánh này. Teo tinh hoàn là do làm tổn 
thương các nhánh động mạch trong thừng tinh 
như động mạch tinh hoàn, động mạch ống dẫn 
tinh và động mạch cơ bìu. 
Theo tác giả Zini, tỉ lệ tràn dịch màng tinh 
hoàn, tỉ lệ tái phát và tỉ lệ teo tinh hoàn sau vi 
phẫu thắt TMT lần lượt là 0,69%, 2% và 1% 
[9]. Trong một nghiên cứu phân tích gộp từ 36 
nghiên cứu báo cáo về tỉ lệ có thai và các biến 
chứng sau phẫu thuật của các phương pháp 
thắt tĩnh mạch tinh khác nhau, tác giả Cayan 
ghi nhận tỉ lệ tràn dịch màng tinh hoàn và tái 
phát tương ứng là 0,44% và 1,05%, tác giả 
không ghi nhận tỉ lệ teo tinh hoàn [10]. 
Trong nghiên này, chúng tôi gặp tỉ lệ biến 
chứng là 27,3% (36/132). Tuy nhiên, chúng tôi 
không gặp các biến chứng nặng như tràn dịch 
màng tinh hoàn, tái phát và teo tinh hoàn. Trong 
số các biến chứng gặp phải (49 biến chứng) thì 
dị cảm da vùng bẹn bìu sau mổ chiếm 42,9%, 
sưng nề vết mổ chiếm 34,7%, bầm tím dưới 
da bìu hoặc gốc dương vật 16,3% và sẹo xấu 
6,1%. Hầu hết những biến chứng này là những 
biến chứng nhẹ, tự khỏi sau phẫu thuật một 
vài tuần. Đáng chú ý hơn cả là biến chứng dị 
cảm da vùng bẹn bìu sinh dục. Biến chứng này 
được cho là do tổn thương các nhánh ngoài 
da của thần kinh sinh dục trong quá trình phẫu 
thuật. Sau phẫu thuật bệnh nhân thường cảm 
thấy tê bì nhẹ hoặc cảm giác đụng chạm không 
thật ở phần diện tích da vùng bẹn bìu sinh dục 
gần đường mổ. Tuy nhiên, biến chứng này 
cũng là biến chứng nhẹ không làm ảnh hưởng 
đến tâm lý cũng như sức khỏe của người bệnh 
và tự khỏi sau phẫu thuật trong vòng 3 tháng 
(Bảng 3).
V. KẾT LUẬN
Với sự trợ giúp của kính vi phẫu, phẫu 
thuật điều trị giãn tĩnh mạch tinh có tỉ lệ thành 
công đạt 96,2% (127/132) và tỉ lệ biến chứng 
là 27,3% (36/132) những không gặp các biến 
chứng nặng.
Dưới kính vi phẫu tại vị trí bẹn bìu, trung 
bình mỗi thừng tinh có 6,39 ± 1,64 nhánh tĩnh 
mạch, 1,14 ± 0,51 nhánh động mạch và 3,4 ± 
0,73 nhánh bạch mạch. Trong phần lớn các 
trường hợp động mạch đi kèm với các nhánh 
tĩnh mạch có kích thước lớn hoặc kích thước 
nhỏ. Một số ít các trường hợp động mạch có 
thể chạy tự do trong thừng tinh hoặc khó xác 
định.
Lời cảm ơn
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến 
những bệnh nhân đã tham giam vào nghiên 
cứu này. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của tập 
thể Trung tâm Y Khoa số 1 Tôn Thất Tùng và 
Khoa Ngoại Tổng hợp Bệnh viện Đại học Y 
Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hauser R., et al (2001). Varicocele: effect 
on sperm functions. Hum Reprod Update, 7(5), 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 122 (6) - 201948
482-5.
2. Baazeem A., et al (2011). Varicocele and 
male factor infertility treatment: a new meta-
analysis and review of the role of varicocele 
repair. Eur Urol, 60(4), 796-808.
3. Hoàng Long và Nguyễn Hoài Bắc 
(2011). So sánh kết quả của vi phẫu thuật qua 
ngả bẹn bìu và phẫu thuật nội soi sau phúc mạc 
trong điều trị giãn tĩnh mạch tinh. Y học thực 
hành, 769-770(6), 242- 251.
4. Phạm Nam Việt, Phó Minh Tín và Lê 
Phúc Liên (2011). Đặc điểm giải phẫu mạch 
máu thừng tinh đoạn trong ống bẹn qua mổ vi 
phẫu điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh. Tạp chí 
Y học thực hành, 769 + 770, 206- 210.
5. Hopps C.V., et al (2003). Intraoperative 
varicocele anatomy: a microscopic study of the 
inguinal versus subinguinal approach. J Urol, 
170(6 Pt 1), 2366-70.
6. Wang X.K., et al (2012). Microanatomy 
of the spermatic cords during microsurgical 
inguinal varicocelectomy: initial experience in 
Asian men. Asian J Androl, 14(6), 897-9.
7. Al-Kandari A.M., et al (2007). Comparison 
of outcomes of different varicocelectomy 
techniques: open inguinal, laparoscopic, and 
subinguinal microscopic varicocelectomy: a 
randomized clinical trial. Urology, 69(3), 417-
20.
8. Goldstein M (2016). Surgical 
Management of Male Infertility, in Campbell-
Walsh Urology, 580- 612.
9. Zini A. and Boman J.M. (2013),.
Varicocele, in Surgical and Medical 
Management of Male Infertility. M. Goldstein and 
P. N.Schlegel, Editors, Cambridge University 
Press: United States of America. 137- 146.
10. Cayan S., Shavakhabov S., and 
Kadioglu A. (2009). Treatment of palpable 
varicocele in infertile men: a meta-analysis to 
define the best technique. J Androl, 30(1), 33-
40.
Summary
ASSESSMENT OF MICROSURGICAL VARICOCELECTOMY 
OUTCOMES IN TREATMENT FOR VARICOCELE
This study was conducted to evaluate the outcome of microsurgical varicocelectomy. 
An observational study was based on 132 patients with varicocele who underwent 
microvaricocelectomy at Hanoi Medical University Hospital. The results showed that the mean 
operation time was 60.91 ± 17.54 minutes and post-operation recovery time was 1.83 ± 0.94 
days. A total of 6.39 ± 1.64 veins were ligated on each spermatic cord. The number of arteries 
and lymphatic vessels which were preserved was 1.14 ± 0.51 and 3.4 ± 0.73, respectively. The 
majority of arteries were accompanied by a large vein (40.7%) or a bundle of small veins (35%). 
In about 7.7% of cases, the arteries were hard to differentiate. The success rate of microsurgical 
varicocelectomy was 96.2% and the failure rate only accounted for 3.8% of all cases. Our 
results indicate that microsurgical varicocelectomy is an efficient and safe technique in treating 
varicocele. Under the microscope, sub-inguinal spermatic veins branches into the pampiniform 
plexus. The arteries are usually accompanied by a large vein or a bundle of small veins.
Keywords: Varicocele, microsurgical varicocelectomy, spermatic anatomy.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_vi_phau_that_tinh_mach_tinh_dieu_tri_benh_g.pdf